Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết diễn ngôn
lượt xem 4
download
Luận án hướng đến việc chỉ ra những nét độc đáo, đổi mới của thể chân dung văn học trong tương quan với các đổi mới của văn học Việt Nam kể từ sau Đổi mới. Luận án vừa đem lại một góc nhìn đa chiều nhiều diện hơn về thể chân dung văn học, đồng thời góp phần nhận diện giá trị của thể này trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam nói chung và văn học đương đại Việt Nam nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Văn học: Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết diễn ngôn
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ THỊ CẨM NHUNG THỂ CHÂN DUNG VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI NHÌN TỪ LÝ THUYẾT DIỄN NGÔN Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 9 22 01 21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC 1 Hà Nội - 2024
- Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHẠM PHƯƠNG CHI Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn Phản biện 2: PGS.TS. Trần Khánh Thành Phản biện 3: PGS.TS. Đỗ Lai Thúy Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội Vào hồi: ……. giờ, ngày ……… tháng ……… năm 2024 Có thể tìm hiểu Luận án tại: Thư viện Học viện Học viện Khoa học xã hội, Thư viện Quốc gia Việt Nam. 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đến nay, thể chân dung văn học phát triển rất mạnh. Rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình tham gia viết từ nhiều góc nhìn khác nhau. Với sự ra đời ngày càng đa dạng, thể chân dung văn học đã có đóng góp lớn trong việc giúp người đọc khám phá, hiểu sâu hơn về đời sống của nhà văn và những sáng tác của họ, từ đó nắm bắt đầy đủ hơn diện mạo nền văn học Việt Nam đương đại. Với những đóng góp đó, thể chân dung văn học rất cần có những công trình nghiên cứu nghiêm túc, từ nhiều góc nhìn khác nhau để nhận diện, tổng kết một cách cụ thể, toàn diện nhất về thể này cũng như định vị vị trí của nó trên bản đồ văn học dân tộc. Cũng từ 1986, bên cạnh những thành tựu của Dụng học (Pragmatics), phân ngành Phân tích diễn ngôn (Discourse Analysis) đã có những tác động mạnh mẽ đến văn học, nhất là trong việc phân tích ngôn ngữ văn chương. Đây là lí do chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết diễn ngôn nhằm soi chiếu, nhận diện những nét độc đáo của thể chân dung văn học từ góc nhìn của lý thuyết diễn ngôn, từ đó có cái nhìn đa chiều hơn về đặc điểm, đóng góp của thể này trong nền văn học Việt Nam kể từ năm 1986. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lí thuyết diễn ngôn, luận án hướng đến việc chỉ ra những nét độc đáo, đổi mới của thể chân dung văn học trong tương quan với các đổi mới của văn học Việt Nam kể từ sau Đổi mới. Luận án vừa đem lại một góc nhìn đa chiều nhiều diện hơn về thể chân dung văn học, đồng thời góp phần nhận diện giá trị của thể này trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam nói chung và văn học đương đại Việt Nam nói riêng. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, luận án tìm hiểu sâu lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là lý thuyết diễn ngôn của M. Bakhtin, như là cơ sở lí thuyết của luận án. 1
- Thứ hai, sau khi khảo sát những công trình viết về thể chân dung văn học trên thế giới và ở Việt Nam, luận án nêu lên những đặc điểm, xu hướng của thể diễn ngôn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại. Thứ ba, trên cơ sở trình bày khái niệm hội thoại theo quan điểm của Bakhtin, đề tài đi sâu vào ba khía cạnh của diễn ngôn hội thoại: đối thoại, độc thoại nội tâm và mạch lạc. Thứ tư, luận án tìm hiểu xu hướng thế tục hóa của thể chân dung văn học Việt Nam đương đại, từ khái niệm diễn ngôn thế tục hóa đến vị trí diễn ngôn thế tục hóa trong văn học Việt Nam đương đại. Thứ năm, luận án tìm hiểu sự hình thành và phát triển của diễn ngôn chấn thương, từ khái niệm diễn ngôn chấn thương đến diễn ngôn chấn thương trong văn học Việt Nam đương đại. Từ đó, luận án nghiên cứu những cái tôi bị chấn thương trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là các tác phẩm chân dung văn học được xuất bản sau năm 1986 ở Việt Nam. Các phương diện nội dung và hình thức của những tác phẩm này được khám phá từ góc độ của lý thuyết diễn ngôn. 3.2. Phạm vi nghiêu cứu Tập trung khảo sát khoảng 30 cuốn cụ thể với những chân dung văn học có sự thay đổi diễn ngôn so với giai đoạn trước. 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích diễn ngôn, phương pháp so sánh đồng đại và lịch đại, phương pháp nghiên cứu liên ngành… 5. Đóng góp của luận án Thứ nhất, luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu thể chân dung văn học từ góc độ lý thuyết diễn ngôn. Vì vậy, bước đầu chúng tôi muốn xác định rõ sự thay đổi của thể chân dung văn học Việt Nam đương đại (từ 1986 đến nay) không chỉ từ bình diện phương thức nghệ thuật mà còn được nhìn nhận 2
- ở bình diện rộng hơn, khái quát hơn, đó là bình diện tư tưởng, văn hóa, tính thẩm mỹ. Điểm nhìn này sẽ góp phần khẳng định diện mạo mới của văn học đương đại Việt Nam trong thời Đổi mới. Thứ hai, khuynh hướng diễn ngôn cơ bản mà luận án này khai thác (diễn ngôn hội thoại, diễn ngôn thế tục hóa, diễn ngôn chấn thương) góp phần khẳng định những đổi mới trong đời sống tri thức, văn hóa, xã hội, đã ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện đến nội dung và hình thức diễn ngôn của thể chân dung văn học Việt Nam đương đại. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Việc phân tích đối thoại, độc thoại nội tâm và mạch lạc cũng như tính thế tục và nội dung chấn thương của diễn ngôn, từ đó khẳng định sự hòa nhịp của thể chân dung vào những đổi mới của văn học đương đại Việt Nam khẳng định giá trị của lí thuyết diễn ngôn, nhất là lí thuyết diễn ngôn của Bakhtin trong nghiên cứu văn học. Cụ thể hơn, với lý thuyết diễn ngôn, luận án đã bổ sung thêm một hướng tiếp cận mới đối với thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đương đại. Luận án đã đem lại những hình dung mới về những đóng góp của thể chân dung văn học vào việc dân chủ hóa nền văn học Việt Nam hiện đại và đương đại. Thể chân dung đã trở thành một thể loại “năng động, năng sản” (từ dùng của Văn Giá) và đạt nhiều thành tựu trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đương đại. 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án được cấu trúc gồm bốn chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Diễn ngôn hội thoại trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại Chương 3: Diễn ngôn thế tục hoá trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại Chương 4: Diễn ngôn chấn thương trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 3
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Nghiên cứu thể chân dung văn học trên thế giới Thuật ngữ “chân dung văn học” (literary portrait) có nghĩa rất đa dạng, phụ thuộc vào xu hướng và phong cách văn học vốn nhiều giao động. Theo Edmund Heier (1987), bản chất của thể chân dung văn học là chỉ ra những đặc điểm chính khắc họa một cá nhân, nhưng quá trình thực hiện việc trưng bày ra, thể hiện ra những đặc tính đặc trưng của một nhân vật văn học có thể được hoàn thành theo những cách thức khác nhau. Theo Nina Ekstein (1992), chân dung văn học bắt nguồn từ các salon xã hội (social salon), dần trở thành một thể loại riêng trong thời kỳ này. Những bức chân dung văn học theo truyền thống được sử dụng, dù ở dạng vẽ hay viết, để tôn vinh người được tạc chân dung. Theo Bazylova có nhiều cách tiếp cận đối với nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thể chân dung văn học. Có những tác phẩm chân dung mô tả chi tiết hình ảnh ngoại hình nhân vật bằng cách kết hợp các điểm “khảo sát” (so sánh ấn tượng về nhân vật, tác giả và nhân vật), lặp lại nhiều nhịp điệu một hoặc nhiều đặc điểm (cử chỉ và bắt chước). Có nhiều tác phẩm xây dựng chân dung qua những hình ảnh vừa tĩnh vừa năng động, cho thấy vị trí của chân dung trong cốt truyện và làm nổi bật đặc tính của chân dung. Bazylova Baglan cho rằng chân dung văn học là một trong những thể loại được đưa vào hệ thống thể loại sử thi. Thể loại chân dung văn học cũng là một hiện tượng nghệ thuật đã tổng hợp trong nó những yếu tố của các thể loại mang tính tư liệu, tài liệu và các thể loại nghệ thuật, và cũng đã có các tranh luận xem thể chân dung có thuộc hệ thống các thể loại báo chí, quảng bá nhân vật hay là thể loại thuần nghệ thuật. Như vậy, thể chân dung đã được các nhà nghiên cứu thế giới tiếp cận từ các góc độ khác nhau. Các nghiên cứu thống nhất cho rằng thể chân dung là một thể loại văn học; nó bao gộp trong nội dung và cấu trúc của mình những yếu tố mang tính tư liệu và những yếu tố của phẩm chất nghệ thuật. Giá trị của thể chân dung văn học nằm ở chỗ nó “là sự thể hiện quan trọng quan 4
- niệm của nhà văn về con người và tài năng nghệ thuật của mình” và trong nhiều hoàn cảnh lịch sử, các tác phẩm chân dung cũng phản ánh và tham gia vào các vấn đề của lịch sử, văn hóa, xã hội. 1.2. Nghiên cứu thể chân dung văn học ở Việt Nam Đã có nhiều công trình viết về thể chân dung văn học Việt Nam. Hình thức của các công trình này khá đa dạng: chuyên luận chuyên sâu, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ hay các bài tạp chí nghiên cứu. Có thể nhận ra hai hướng triển khai trong các nghiên cứu hiện nay về thể chân dung văn học Việt Nam. Thứ nhất là xu hướng khái quát, chỉ ra các xu hướng nội dung và hình thức của thể loại này qua các giai đoạn lịch sử. Xu hướng thứ hai là hướng đến các trường hợp cụ thể, nghiên cứu tập trung vào một hay một số trường hợp tác phẩm chân dung hay tác giả viết chân dung. Luận án này đi theo một hướng mới, đó là tiếp cận thể chân dung văn học Việt Nam đương đại từ góc nhìn diễn ngôn, chỉ ra sự hòa nhịp của bộ phận văn học này vào những đổi mới, cách tân của văn học Việt Nam sau thời đổi mới. 1.3. Diện mạo thể chân dung trong văn học Việt Nam đương đại Thứ nhất, quan niệm của người viết chân dung văn học sau 1986 đã có sự thay đổi theo hướng đi sâu vào phương diện con người đời thường, con người thế tục của nhà văn, nhà thơ, từ sở thích, thói quen, thói tật, bạn bè, gia đình thân…, từ đó tìm ra mối liên hệ với sự sáng tạo và thành công của người nghệ sĩ. Thứ hai, thể chân dung văn học sau 1986 đã tăng cường tính “hư cấu”, xem đó như là một thủ pháp. Thứ ba, tính “khẩu văn” (từ dùng của Nguyễn Quang Lập) của các bài viết chân dung văn học sau 1986 tăng cao, ngôn ngữ thông tục tràn lấn, khiến thể tài chân dung văn học có một lối văn như lời nói thông thường, tràn đầy tính khẩu ngữ, xóa bỏ tính ước lệ của ngôn ngữ văn bản, coi trọng chất tươi mới, thậm chí sống sít của lời nói hằng ngày, với những cuộc trò chuyện trực tiếp, suồng sã, tếu táo giữa chốn bạn bè, phá bỏ dần những rào cản xã giao, những quy ước văn bản thông thường. Nhờ vậy, những từ thuộc thổ ngữ địa 5
- phương, thuộc ngôn ngữ vỉa hè, chiếu nhậu, bàn trà… đi vào trang viết một cách tự nhiên. Thứ tư, thể chân dung văn học sau 1986 mang đậm tính chất đồng chân dung và chân dung tự họa, nên gương mặt tinh thần người viết có cơ hội hiện lên khá rõ nét cùng với người được viết. Người đọc được đón nhận hàng loạt bài viết chân dung với một lối viết khoáng đạt, tung tẩy, tươi mới, biến hóa, đầy cá tính và thấm đẫm chất đời. Đây là một đặc điểm quan trọng làm nên sự khác biệt căn bản giữa chân dung văn học giai đoạn trước và sau 1986 ở Việt Nam. Thứ năm, về chất nội dung, thể chân dung văn học sau 1986 được chia làm ba kiểu: chân dung mang tính phê bình văn học, chân dung mang tính báo chí, và chân dung mang tính tản văn. Sự dồi dào của các kiểu dạng chân dung văn học cho thấy sự nở rộ và phát triển khá phong phú của thể chân dung văn học trong đời sống văn học Việt Nam từ sau 1986 đến nay. 1.3 Lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn học 1.3.1 Các quan niệm về diễn ngôn Người đầu tiên đề xướng khái niệm diễn ngôn là Z. Harris. Diễn ngôn được hiểu với tư cách là một văn bản liên kết ở bậc cao hơn câu. R. Barthes coi diễn ngôn như là một đối tượng của ngôn ngữ học văn bản mà ông đề nghị gọi là “ngôn ngữ học diễn ngôn”. Bellert thì cho rằng “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn S1 ..., Sn, trong đó việc lý giải nghĩa của mỗi phát ngôn S1 (với 2 ≤ i ≤ n) lệ thuộc vào sự lý giải những phát ngôn trong chuỗi S1 …Si-1”. Guy Cook lại nêu: “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích”. Brown và Yule khi xử lí diễn ngôn như là “sản phẩm” hay “tiến trình” thì lại khẳng định: “Diễn ngôn như một tiến trình”. Ở Việt Nam, Diệp Quang Ban là một trong những tác giả tiêu biểu nghiên cứu diễn ngôn. Ông đồng tình với định nghĩa của Cook: “Diễn ngôn là những chuỗi ngôn ngữ được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích”. 6
- Nguyễn Thiện Giáp lại cho rằng: “Thuật ngữ diễn ngôn và văn bản thường được coi là đồng nghĩa với nhau để chỉ các sản phẩm của ngôn ngữ, viết hay nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể hợp nhất, trong đó diễn ngôn thường được hiểu là bao hàm văn bản, còn văn bản thiên về sản phẩm viết nhiều hơn”. Nguyễn Hòa thì phân biệt hai khái niệm “diễn ngôn” và “văn bản”. Theo ông, “Văn bản như là sản phẩm ngôn ngữ ghi nhận lại quá trình giao tiếp hay sự kiện giao tiếp nói và viết trong một hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Trong khi đó “Diễn ngôn như là sự kiện hay là quá trình giao tiếp hoàn chỉnh thống nhất có mục đích không giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp xã hội cụ thể”. Đỗ Hữu Châu lại cho rằng: “Diễn ngôn là đơn vị lớn hơn câu, đúng hơn là lớn hơn một phát ngôn, nó có thể là một phát ngôn mà cũng có thể do vô số phát ngôn hợp lại”; “Nó phải có tính mạch lạc…”. Diễn ngôn có cả hình thức và nội dung nhưng cả hai đều chịu tác dụng của ngữ cảnh. Sự đa dạng trong cách hiểu về diễn ngôn của các nhà nghiên cứu trong nước gây ra những khó khăn cho chúng tôi trong quá trình tiếp cận và diễn giải khái niệm này. Vì vậy, để có một cơ sở lý luận cho việc triển khai nghiên cứu các trường hợp cụ thể, luận án đã lựa chọn tư tưởng về diễn ngôn của M. Bakhtin. 1.3.2 Các xu hướng nghiên cứu diễn ngôn Có khá nhiều công trình nghiên cứu về thể chân dung văn học Việt Nam đương đại và cũng khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ, văn học dưới góc nhìn của lý thuyết diễn ngôn, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu thể chân dung văn học từ góc nhìn của lý thuyết diễn ngôn. 1.3.3 Bakhtin và lý thuyết diễn ngôn M. Bakhtin là người khởi nguồn truyền thống mới trong nghiên cứu diễn ngôn. Tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin như một bản lề, một cầu nối bắc từ quan niệm về diễn ngôn của ngôn ngữ học cấu trúc sang quan niệm diễn ngôn của các trường phái lí luận hậu hiện đại. 7
- Theo Bakhtin, diễn ngôn (discourse) là ngôn ngữ trong chỉnh thể sống động, cụ thể trong bối cảnh xã hội, của những giọng xã hội mâu thuẫn và đa tầng. Diễn ngôn là lãnh thổ chung của người nói và người nghe, khu vực tiếp xúc giữa ta và người. Diễn ngôn là mảnh đất giao cắt, hội tụ, tranh biện của những tư tưởng, quan niệm khác nhau về thế giới. Đặc biệt, trong quan điểm của Bakhtin, đối thoại là bản chất của diễn ngôn. Bakhtin nhận ra “tính khác” của từ, “người khác” ở trong từ, và “khả năng đa giọng” (multi-voiced) của một từ. Cách tiếp cận này hoàn toàn trái ngược với quan điểm về tính ưu việt của độc thoại và bản sắc độc thoại. Bakhtin tố cáo chủ nghĩa độc thoại dưới bất kỳ hình thức nào, ngay cả khi được che dấu như là đối thoại đơn giản, thể hiện dưới dạng một chuỗi liên tiếp các câu hỏi lại được trao đổi giữa những người đối thoại. Theo Bakhtin, ngay cả diễn ngôn thuộc về một giọng nói duy nhất cũng có thể mang tính đối thoại, vì một giọng nói duy nhất có thể chứa nhiều giọng nói khác nhau một cách hiệu quả. Vì vậy, một mặt, chúng ta có thể có “diễn ngôn một giọng” ngay cả khi ở cấp độ chính thức có nhiều giọng, và mặt khác “diễn ngôn nhiều giọng” ngay cả khi chính thức chỉ có một giọng. Tiểu kết Chương 1 của luận án tập trung vào các nội dung sau: Thứ nhất, tổng thuật những hướng tiếp cận, và các khái niệm về thể chân dung trong các công trình trên thế giới. Thứ hai, khái lược các hướng nghiên cứu về thể chân dung văn học Việt Nam đương đại: xu hướng khái quát, tức nhận diện sự hình thành và phát triển của thể chân dung trong các điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội; xu hướng hướng đến các trường hợp cụ thể, tức tập trung vào một hay một vài tác phẩm chân dung hay tác giả viết chân dung, từ đó khái quát những đặc điểm về nguồn gốc và đặc trưng của thể loại này. Thứ ba, khảo sát thể chân dung trong văn học Việt Nam đương đại qua các công trình nghiên cứu, phê bình. Kết quả khảo sát cho thấy sự vận động khá mạnh mẽ của thể tài này trong bức tranh văn học Việt Nam từ sau năm 1986, thể hiện qua các phương diện: đội ngũ sáng tác nhiều thế hệ, số lượng 8
- tác phẩm ngày càng nhiều, nội dung phong phú. Thứ tư, mục 1.3 tập hợp một số quan điểm căn bản về lý thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là tư tưởng về diễn ngôn của Bakhtin có thể coi là cơ sở lí thuyết để chúng tôi tiến hành nghiên cứu các nội dung ở chương tiếp theo của luận án. Trên cơ sở các kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy sự thiếu vắng các nghiên cứu về thể chân dung trong văn học Việt Nam từ góc độ diễn ngôn. Việc thực hiện đề tài này, do vậy, vừa đáp ứng được tính mới mẻ, đồng thời cũng góp thêm một cái nhìn sinh động, phù hợp với thể tài chân dung trong văn học. Luận án được triển khai theo hướng tiếp cận thể chân dung văn học Việt Nam đương đại từ góc nhìn diễn ngôn, từ đó chỉ ra sự hòa nhịp của bộ phận văn học này vào những đổi mới, cách tân của văn học Việt Nam sau thời đổi mới. CHƯƠNG 2 DIỄN NGÔN HỘI THOẠI TRONG THỂ CHÂN DUNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 2.1. Hội thoại 2.1.1. Khái niệm hội thoại Hội thoại (dialogue) được sử dụng với những ý nghĩa khác nhau trong tư duy của Bakhtin. Trong các tác phẩm văn học, thuật ngữ hội thoại của Bakhtin chỉ một phong cách diễn ngôn trong đó các nhân vật thể hiện nhiều quan điểm khác nhau (có thể mâu thuẫn); diễn ngôn trong tác phẩm không phải là phát ngôn cho riêng tác giả. Hội thoại liên quan cụ thể hơn đến ngôn ngữ vốn được chúng ta xác định như là diễn ngôn. Đối với Bakhtin, những từ mà chúng ta sử dụng luôn được người khác sử dụng trước đây, và do đó chúng mang theo ý nghĩa mà người khác gán cho chúng. Ngôn ngữ như vậy (tức là nó được sử dụng để tạo thành các phát ngôn) được tạo ra bởi những giọng nói xa lạ: đối với người nói, bất kỳ từ ngữ nào cũng tồn ở ba khía cạnh: như một từ trung lập trong ngôn ngữ, không thuộc về ai cả; như lời nói của người khác, thuộc về người khác và 9
- chứa đầy tiếng vang của lời nói của người khác; và cuối cùng, như là lời của tôi, vì tôi đang xử lí lời nói trong một tình huống cụ thể, với một kế hoạch phát biểu cụ thể, nên nó đã thấm nhuần cách diễn đạt của tôi. Câu trích này là điển hình cho cách hiểu của Bakhtin về cách phát ngôn và ngôn ngữ được sử dụng mang tính đối thoại vốn có. Hội thoại gắn liền với xung đột và căng thẳng tiềm tàng, và do đó gắn liền với chủ ý hoặc kế hoạch phát ngôn của các tiếng nói có liên quan. Trong thế giới diễn ngôn có cuộc đấu tranh giữa lực đối thoại và lực độc thoại, tương tự như cuộc đấu tranh giữa tính cởi mở và sự kết thúc tính quyền lực ở cấp độ toàn cầu. Một phát ngôn có thể ít nhiều mang tính đối thoại hoặc độc thoại, và trong triết học đối thoại của Bakhtin thì bất kỳ phát ngôn nào cũng được nhận thức như là thuộc về một thế giới diễn ngôn vi mô của riêng nó cho dù đó là một lời đáp lại ngắn gọn trong một cuộc đối thoại hay một sự thể hiện phức tạp về mặt thẩm mỹ của các giọng nói mà chúng ta có thể tìm thấy trong một cuốn tiểu thuyết. 2.2. Đối thoại trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 2.2.1. Đối thoại nhằm nắm bắt thần thái đối tượng Trong hội họa, dù vẽ chân dung theo kiểu truyền thống hay sáng tạo, họa sĩ cũng cần phải giỏi trong việc nắm bắt thần thái đối tượng, tìm ra nét riêng của từng khuôn mặt, để với chỉ vài nét phác thảo, ta đã có thể nhận ra đó là nhân vật nào. Trong văn học cũng vậy, dựng chân dung thì đòi hỏi đầu tiên là phải giỏi nắm bắt thần thái của đối tượng. Chỉ với diễn ngôn đối thoại, các nhà văn, nhà thơ đã dựng thành công những bức chân dung với thần thái hết sức ấn tượng. 2.2.2. Đối thoại tạo ra những chân dung ấn tượng Khi dùng diễn ngôn đối thoại: người hỏi, người đáp, các tác giả đưa thông tin đến người đọc nhanh chóng và chính xác, và khắc họa chân dung các nhà văn cũng rất độc đáo từ cách trả lời của họ. Trần Đăng Khoa vận dụng diễn ngôn đối thoại rất hiệu quả trong nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật trong Chân dung và đối thoại, xới lên nhiều vấn đề của đời sống văn học nước nhà nửa cuối thế kỉ XX. 10
- 2.3 Độc thoại nội tâm trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 2.3.1. Độc thoại nội tâm tạo ra những đồng chân dung, chân dung tự họa Chân dung văn học bao giờ cũng là một thứ chân dung kép: cùng một lúc hiện lên chân dung đối tượng được viết và cả chân dung người viết. Qua việc dùng độc thoại nội tâm để dựng chân dung đối tượng, người viết dù ý thức hay không sẽ tự bộc lộ cá tính, phong cách riêng của mình, tạo ra những đồng chân dung hoặc chân dung tự họa. 2.3.2. Độc thoại nội tâm tạo ra những phát biểu về nghề nghiệp, về con người Bằng diễn ngôn độc thoại nội tâm, chân dung văn học không chỉ khắc họa hình ảnh người nghệ sĩ trong lao động nghệ thuật mà còn tái hiện thái độ, cách ứng xử của họ với con người, với cuộc đời, đồng thời thể hiện những suy tư của họ về nghề. Những diễn ngôn của thể chân dung văn học nở rộ trên văn đàn Việt Nam hiện đại khi trong xã hội xuất hiện nhu cầu bộc lộ cái tôi cá nhân, được bộc lộ cảm xúc của mình một cách thoải mái về chân dung một con người, về một thời và về nghề viết văn. Cảm xúc ấy thường là sự ngợi ca về những con người đã “hằn dấu mình lên dung mạo của thế kỉ”. Qua sự tiếp cận một số tập chân dung tiêu biểu của các nhà văn Việt Nam đương đại, với những suy nghĩ khi sôi nổi, khi thâm trầm về nghề văn cao quý và gian nan, các tác giả dựng chân dung văn học như muốn chia sẻ với mọi người quan niệm của mình trước cuộc đời và nghệ thuật. Đó là quan niệm của một con người có trách nhiệm với nghề. 2.4. Mạch lạc trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 2.4.1. Mạch lạc từ tác phẩm đến đời tư để tạo dựng một chân dung văn học trọn vẹn Tác phẩm là đứa con tinh thần của mỗi tác giả. Vì vậy, khi chọn chi tiết đặc sắc dựng chân dung, không có gì độc đáo hơn là dùng chính đứa con tinh thần đó. Với diễn ngôn mạch lạc, các bức chân dung đã được dựng lên vô 11
- cùng ấn tượng khi đi từ tác phẩm đến đời tư của từng nhà văn, nhà thơ. 2.4.2. Mạch lạc từ nhiều tác giả dựng chân dung để tạo một chân dung văn học hoàn thiện Yếu tố đầu tiên của cảm hứng dựng chân dung văn học chính là mong muốn được cung cấp cho độc giả nguồn tư liệu quý giá, mới mẻ về nhân vật đó. Đó là một mục đích có ý nghĩa bởi không phải ai cũng đủ điều kiện, có những hiểu biết về cuộc đời, số phận, sự nghiệp của một con người đặc biệt lại là những nhà văn, nhà thơ - đối tượng chính của chân dung văn học. Tuy nhiên, khi dựng chân dung văn học, mỗi tác giả dựng chân dung sẽ đứng ở một góc nhìn khác nhau, và sẽ tạo ra những bức chân dung riêng. Khi dùng diễn ngôn mạch lạc, nhiều tác giả cùng dựng chân dung về một nhà văn, nhà thơ, từ đó người đọc nhận diện được một chân dung hoàn thiện về một con người, một nhân cách, một số phận đầy ấn tượng. Tiểu kết Qua các diễn ngôn đối thoại, ta thấy được sự thông minh, từng trải, thấu hiểu khi nắm bắt thần thái đối tượng và cũng rất ý thức được điều mình viết của các tác giả dựng chân dung đương đại. Diễn ngôn đối thoại được dùng để các tác giả nắm bắt thần thái nhân vật bằng chính giọng điệu của mình, từ đó bộc lộ hình ảnh bản thân. Mỗi nhà văn chọn cho mình cách dùng diễn ngôn đối thoại rất riêng, duyên dáng, vừa suồng sã nhưng cũng đầy trí tuệ, đầy trải nghiệm và lại tự nhiên. Và chân dung văn học bao giờ cùng một lúc hiện lên chân dung đối tượng được viết và cả chân dung người viết. Vì thế, qua việc dùng độc thoại nội tâm để dựng chân dung đối tượng, người viết dù ý thức hay không sẽ tự bộc lộ cá tính, phong cách riêng của mình, tạo ra những đồng chân dung hoặc chân dung tự họa. Bằng diễn ngôn độc thoại nội tâm, chân dung văn học không chỉ khắc họa hình ảnh người nghệ sĩ trong lao động nghệ thuật mà còn tái hiện thái độ, cách ứng xử của họ với con người, với cuộc đời, đồng thời thể hiện những suy tư của họ về nghề. 12
- CHƯƠNG 3 DIỄN NGÔN THẾ TỤC HÓA THỂ CHÂN DUNG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 3.1. Xu hướng thế tục hóa của thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 3.1.1. Khái niệm diễn ngôn thế tục hóa Khái niệm “thế tục” rộng hơn “thế sự”, bao hàm cả đời sống thường nhật, đời sống thể xác, mọi thứ phàm tục trên đời. Khái niệm “thế sự” là để chỉ một loại hình nội dung (cùng với sử thi, đời tư), còn khái niệm “thế tục” là để chỉ một bình diện nội dung xuất hiện trong cả ba loại hình nội dung: sử thi, thế sự và đời tư. Vì vậy, nói khuynh hướng diễn ngôn thế tục hóa trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại là chúng tôi muốn nói đến sự thay đổi từ diễn ngôn thống nhất sang diễn ngôn đa tạp, từ diễn ngôn sùng bái sang diễn ngôn suồng sã. Diễn ngôn thế tục ra đời là để đối thoại với diễn ngôn sử thi trước đây. Diễn ngôn trong thể chân dung văn học Việt Nam giai đoạn trước 1986 chủ yếu là những nhân vật vĩ đại, cao cả, đáng sùng bái. Thể chân dung văn học giai đoạn sau 1986 diễn ra trong bối cảnh trật tự diễn ngôn trong xã hội, hệ thống giá trị trong xã hội có nhiều thay đổi lớn. Mỗi người đều ý thức được họ không thể tiếp tục sống mãi với cái cao cả, vĩ đại, với cái lí tưởng lớn lao, mà phải sống cuộc đời bình thường, đối mặt với cuộc sống bình thường, đối mặt với cuộc sống nhân sinh bộn bề phức tạp. Mỗi người nghệ sĩ đều ý thức rằng mỗi chân dung văn học của họ phải thỏa mãn được nhu cầu của xã hội: thể hiện được những lo lắng, trăn trở, ưu tư tưởng chừng tầm thường, vụn vặt nhưng nó chính là những mạch ngầm của cuộc sống thiết thực hôm nay. Sự thay đổi tâm thế xã hội đó là nguyên nhân quan trọng kích thích quá trình đổi mới diễn ngôn chân dung văn học. Do vậy, diễn ngôn chân dung văn học sau 1986 lại chuyển sang cách nhìn đời thường hóa, diễn ngôn gần gũi, suồng sã. Những nhân vật đáng kính được đời thường hóa, điểm nhìn nhân vật từ xa chuyển về gần, nhân vật nữ trỗi dậy đời sống bản năng. Về góc độ ngôn ngữ, các chân dung văn học chuyển từ diễn ngôn thống nhất sang diễn ngôn đa 13
- tạp, từ diễn ngôn sùng bái sang diễn ngôn suồng sã, từ diễn ngôn nghiêm trang sang diễn ngôn hài hước… 3.1.2. Nhân vật đáng kính được đời thường hóa Với tinh thần dám nhìn thẳng vào quá khứ, vào sự thật, các tác giả dựng chân dung đã dùng diễn ngôn thế tục hóa để nói về những sự kiện văn học một thời. Sự kiện ấy có thể vui, có thể buồn nhưng đã được sống lại trên trang viết dẫu qua bao năm tháng. Với thành tựu cả về số lượng lẫn chất lượng, thể chân dung văn học góp phần làm sâu sắc, phong phú thêm về mặt nội dung, giàu có thêm về phương thức phản ánh và hình thức thể hiện của văn học nước nhà. Với diễn ngôn thế tục hóa, các tác giả dựng chân dung đã đưa người đọc đến những góc nhìn đời thường, những ngóc ngách trong tâm hồn của những nhà thơ, nhà văn vĩ đại. Người dựng chân dung có thể viết với tư cách người cùng thời hoặc kẻ hậu sinh tiếp nhận bài học được truyền lại từ các bậc đàn anh trong văn giới, tiếp cận đối tượng từ điểm nhìn “hôm nay”. Đây chính là điều kiện thuận lợi để nhà văn hồi tưởng đầy đủ, trọn vẹn về những con người một thời, có thể đã mất hoặc vẫn còn sống. Vượt qua mục đích “thanh minh” hoặc “đánh bóng” tên tuổi mình, những tác phẩm chân dung văn học được đón nhận nồng nhiệt và đánh giá cao gần đây mang đến cho “người đương thời” những câu trả lời, những bài học quý giá, đáp ứng nhu cầu nhận thức lại. 3.1.3. Điểm nhìn nhân vật từ xa chuyển về gần Trong văn học, cái nhìn thể hiện trong chi tiết nghệ thuật, bởi chi tiết là điểm rơi của cái nhìn. Để dựng thành công một chân dung văn học, người viết có tài phải biết lựa chọn những chi tiết đắt, có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, là một cách thức tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn của thể tài đặc biệt này. Những chi tiết đắt, đặc sắc ấy có thể là một lời nói, một nét ngoại hình, một khoảnh khắc... theo hướng ngợi ca hay phê phán nhưng nó phải làm sáng rõ một con người. Bằng ngòi bút tinh tế nhiều biến hóa, các cây bút dựng chân dung đã “chộp” được những chi tiết có vẻ ngẫu nhiên nhưng nó gắn với một cuộc đời, một số phận, một tính cách. Hemingway từng nói: người viết có thể sáng tạo, nghĩ ra chủ đề nhân vật, câu chuyện, nhưng 14
- không bao giờ nghĩ ra được chi tiết. Chỉ có sống mới có chi tiết. Từ đó, có thể thấy, chỉ có sống, tiếp xúc gần gũi mới có thể tìm thấy những chi tiết đặc sắc, ấn tượng cho các nhà văn. Hơn nữa, mỗi nhà văn có một cá tính phong cách cho nên cùng một chi tiết lại có cách cảm nhận, thể hiện khác nhau khi xây dựng chân dung. Trong nhiều chân dung văn học giai đoạn trước 1986, chúng ta bắt gặp cái nhìn của “khuynh hướng sử thi” thiên về “tô hồng” hiện thực, ngợi ca một chiều mà không thấy được những ẩn khuất bên trong của cuộc sống thường nhật. Các nhà văn được nói đến với những tình cảm ngưỡng mộ, người đọc nhìn họ từ xa với những lời tán tụng. Sau 1986, mọi người đều có quyền phát biểu ý kiến của mình một cách dân chủ, không bị ràng buộc. Chân dung văn học được nhìn nhận ở nhiều mặt, kể cả mặt trái của nhà văn. Bởi thế, con người trong chân dung văn học là “sự tổng hoà của các mối quan hệ” được thể hiện đầy đủ với vẻ mặt vốn có của nó. Từ điểm nhìn với cự li gần của những người trong cuộc, trong giới, các tác giả dựng chân dung đã đi “từ chân trời một người đến chân trời mọi người”, tạo ra sự đồng cảm lớn giữa người đọc và các nhà văn được dựng chân dung cũng như giữa người đọc và người viết chân dung. Với cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền, các tác giả đã góp một góc nhìn của mình về những nghệ sĩ với đầy đủ những khuôn mặt sinh động, hấp dẫn. Sự lựa chọn hướng điểm nhìn từ xa về gần để tiếp cận những người bạn văn đồng cảnh ngộ ấy của các tác giả trước 1986 đã mở đường cho giai đoạn sau 1986. Cùng tư tưởng nhận thức lại và tính dân chủ trong văn học, các nhà văn, nhà thơ đã thực sự thay đổi điểm nhìn, chọn điểm nhìn với cự li cực gần để ngắm nhìn bạn bè, người thân với những ngóc ngách sâu kín nhất, từ đó bày tỏ suy tư, trăn trở, nỗi niềm về những chân dung văn học của mình. Như vậy, với cách tiếp cận ở cự li cực gần về những người đồng cảnh ngộ, bạn bè thân thiết, người thân trong gia đình, các tác giả đã dựng lại chân dung nhiều gương mặt tên tuổi trong văn học Việt Nam hiện đại mà đằng sau những trang viết là số phận, tài năng, tính cách với bao vui buồn, ấm lạnh của một đời người. Từ đó, những bức chân dung văn nghệ sĩ hiện lên chân thực, 15
- ấm áp, gần gũi và cũng đầy ấn tượng, bất ngờ, thú vị. 3.2. Đặc điểm của diễn ngôn thế tục hóa trong thể chân dung văn học Việt Nam đương đại 3.2.1. Từ diễn ngôn thống nhất sang diễn ngôn đa tạp L.X. Turgenev rất có lí khi cho rằng: “Mỗi người nghệ sĩ giống như một con chim. Mỗi loài chim có cấu trúc thanh quản khác nhau. Cũng tượng tự như thế, nhà văn phải biết tạo cho mình một giọng điệu nghệ thuật riêng, giọng điệu ấy chỉ có thể cất lên từ cổ họng của người nghệ sĩ”. Giọng điệu là một trong những yếu tố cấu thành nét đặc trưng cho mỗi lời văn nghệ thuật. Giọng điệu góp phần khu biệt các đặc trưng phong cách ở mỗi nhà văn cũng như khuynh hướng sáng tác. Xét ở góc độ tâm lí, giọng điệu thể hiện trạng thái tình cảm của con người: buồn vui, giận hờn, ghét thương... Giọng điệu là hình thức bộc lộ chủ quan của tác giả, do vậy, qua giọng điệu của tác phẩm văn học, cho phép ta đánh giá về tầm văn hóa, thái độ, tài năng, và phẩm chất của người nghệ sĩ. Muốn hiểu tác phẩm không thể bỏ qua việc khảo sát giọng điệu vì giọng điệu là một trong những thước đo giá trị của sản phẩm tinh thần đó. Khác với văn phong sâu lắng, trầm tư của các cây bút “tiền bối”, Trần Đăng Khoa mang đến cho đời sống phê bình một “luồng gió lạ” bằng những cuộc “đối thoại” bạo dạn, sôi nổi với các chân dung văn học. Bằng lối tiếp cận theo kiểu dựng chân dung phương Tây: áp sát, trực diện, ngẫu hứng và đậm tính chủ quan. Mỗi tác phẩm văn học là một công trình sáng tạo của nhà văn nhà thơ, mang đậm phong cách người nghệ sĩ. Nhiều trang dựng chân dung văn học đem đến cho người đọc cảm giác cuốn hút, càng đọc càng thấy mới. Sức mạnh nghệ thuật đó bắt nguồn từ sự kết hợp linh hoạt của các sắc thái giọng điệu. Có thể nói, điểm độc đáo của thể chân dung văn học là mặc dù minh bạch, rõ ràng, thông suốt về nội dung, sáng tỏ về kết cấu, nhưng lại khá đa dạng về giọng điệu. Giọng điệu không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu đạt của tác phẩm, mà còn là yếu tố giữ vai trò thống nhất 16
- các yếu tố khác tồn tại trong tác phẩm tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật. Các tác phẩm có giá trị đều thể hiện một giọng điệu riêng, tiêu biểu cho thái độ, cảm xúc của tác giả. Trước 1986, các tác giả dựng chân dung chọn diễn ngôn thống nhất là ngợi ca, ngưỡng vọng. Nhưng sau 1986, hàng loạt chân dung được dựng lên thay đổi giọng điệu, từ diễn ngôn thống nhất đã chuyển sang diễn ngôn đa tạp, tạo giọng điệu phong phú hơn cho thể chân dung văn học. Có thể thấy, sự đa tạp giọng điệu tác động không nhỏ đến tình cảm của người đọc, làm cho người đọc hiểu, tin, đồng cảm với nhà văn, nhà thơ. Qua giọng điệu người đọc cảm nhận được sự trân trọng, yêu thương, sự đồng cảm xót thương mà tác giả dành cho nhân vật. Bởi vậy giọng điệu trong tác phẩm văn chương thuộc lĩnh vực hình thức nhưng là hình thức mang tính nội dung. Sự kết hợp linh hoạt các sắc thái giọng điệu khiến tư tưởng, tình cảm của nhà văn được bộc lộ rõ, chân dung văn học nhờ đó mà hiện lên sống động rõ nét. 3.2.2. Từ diễn ngôn sùng bái sang diễn ngôn suồng sã M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Chính vì ngôn ngữ thể hiện tư tưởng, bao bọc tư tưởng, nên vấn đề ngôn ngữ là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi người cầm bút. Ngôn ngữ là chất liệu để xây dựng tác phẩm và nhân vật văn học. Giai đoạn trước 1986, các tác giả dựng chân dung thường sử dụng diễn ngôn sùng bái, đặt đối tượng dựng chân dung ở vị trí cao để ngưỡng vọng. Từ sau 1986, họ có ý thức kéo gần khoảng cách, dùng các diễn ngôn suồng sã, hóm hỉnh để dựng chân dung văn học, khiến các đối tượng dựng chân dung trở nên vô cùng gần gũi, thân thương. 3.2.3. Từ diễn ngôn nghiêm trang sang diễn ngôn hài hước Nếu hội hoạ xây dựng chân dung bằng đường nét, màu sắc, thì văn học dùng chất liệu là ngôn từ, giọng điệu. Dựng chân dung văn học là quá trình đồng hiện hai vẻ đẹp: vẻ đẹp nhân cách nhà văn và vẻ đẹp tài năng người tạo dựng. Do vậy, với thể chân dung văn học luôn cần sự sáng tạo về ngôn từ, giọng điệu. 17
- Do vậy, nếu các chân dung văn học giai đoạn trước 1986 chủ yếu dùng diễn ngôn trang nghiêm, thành kính, thì các chân dung văn học sau 1986 lại chuyển sang diễn ngôn hóm hỉnh, hài hước. Tiểu kết Dựng chân dung văn học là quá trình đồng hiện hai vẻ đẹp: vẻ đẹp nhân cách nhà văn và vẻ đẹp tài năng người tạo dựng. Do vậy, với thể chân dung văn học luôn cần sự sáng tạo về ngôn từ, giọng điệu. Nếu các chân dung văn học giai đoạn trước 1986 chủ yếu dùng diễn ngôn trang nghiêm, thành kính, thì các chân dung văn học sau 1986 lại chuyển sang diễn ngôn hóm hỉnh, hài hước. Với tinh thần dám nhìn thẳng vào quá khứ, vào sự thật, các tác giả dựng chân dung đã dùng diễn ngôn thế tục hóa để đưa người đọc đến những góc nhìn đời thường, những ngóc ngách trong tâm hồn của những nhà thơ, nhà văn lớn. Người dựng chân dung có thể viết với tư cách người cùng thời hoặc kẻ hậu sinh tiếp nhận bài học được truyền lại từ các bậc đàn anh trong văn giới, tiếp cận đối tượng từ điểm nhìn “hôm nay”. Đây chính là điều kiện thuận lợi để nhà văn hồi tưởng đầy đủ, trọn vẹn về những con người một thời, có thể đã mất hoặc vẫn còn sống. Vượt qua mục đích “thanh minh” hoặc “đánh bóng” tên tuổi mình, những tác phẩm chân dung văn học được đón nhận nồng nhiệt và đánh giá cao gần đây mang đến cho “người đương thời” những câu trả lời, những bài học quý giá, đáp ứng nhu cầu nhận thức lại. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 187 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030
27 p | 212 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 279 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 272 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 156 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu tối ưu các thông số hệ thống treo ô tô khách sử dụng tại Việt Nam
24 p | 254 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 223 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 183 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 61 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 151 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 207 | 8
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 185 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 137 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 21 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 124 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 9 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 28 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 173 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn