Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mật độ khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
lượt xem 8
download
Nội dung chính của luận văn gồm: Khảo sát MĐX bằng phương pháp DXA và xác định tỷ lệ loãng xương trong cộng đồng, cùng các yếu tố có liên quan đến loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh. Đánh giá nguy cơ gãy xương trong cộng đồng qua hai mô hình Garvan và FRAX. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mật độ khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y THÁI VIẾT TẶNG NGHIÊN CỨU MẬT ĐỘ KHOÁNG CỦA XƯƠNG VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÃY XƯƠNG Ở PHỤ NỮ MÃN KINH TẠI THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành: Nội khoa Mã số: 9 72 01 07 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI 2019
- Công trình được hoàn thành tại Học Viện Quân Y Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Văn Đệ Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp trường họp tại Học viện Quân y vào hồi: ...giờ...ngày....tháng....năm..... Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện quốc gia Thư viện Học viện Quân Y
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Loãng xương được định nghĩa là bệnh lý với đặc điểm chính là sức mạnh của xương bị suy giảm và dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương. Sức mạnh của xương do hai yếu tố chính là mật độ xương (MĐX) và cấu trúc xương. Ở phụ nữ sau mãn kinh và nam giới trên 50 tuổi, MĐX bị suy giảm theo độ tuổi, và cấu trúc của xương bị suy thoái. Sự suy giảm MĐX và suy thoái cấu trúc xương làm cho xương trở nên yếu và dễ bị gãy khi va chạm với một lực nhỏ (như hắt hơi). Do đó, gãy xương là hệ quả của loãng xương. Gãy xương do loãng xương là một vấn đề y tế lớn ở những người cao tuổi. Trên thế giới, có hơn 8,9 triệu người gãy xương mỗi năm; trong số này nữ chiếm đa số (61%). Gãy xương, nhất là xương đùi, làm tăng nguy cơ tử vong. Những bệnh nhân còn sống sau gãy xương có chất lượng sống bị suy giảm và khó đi lại bình thường. Gãy xương còn là một gánh nặng kinh tế toàn cầu, với chi phí mỗi năm liên quan đến điều trị ở Mỹ là đến 1020 tỷ USD. Ở Anh Quốc 2,7 tỷ EUR. Ở Úc là 7,5 USD. Bệnh nhân bị gãy xương, đặc biệt là cổ xương đùi phải chịu nhiều biến chứng như đau, tàn phế và tử vong 1220% trong năm đầu tiên. Những người còn sống sót thì chất lượng cuộc sống cũng bị giảm sút đi rất nhiều [1] Hiện nay có nhiều phương pháp chẩn đoán loãng xương, trong đó đo MĐX bằng phương pháp DXA được xem là chuẩn vàng.
- 2 Những cá nhân có MĐX suy giảm hơn 2.5 độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình ở độ tuổi 2030 được chẩn đoán là 'loãng xương' (osteoporosis). Những bệnh nhân được chẩn đoán loãng xương được chỉ định điều trị. Ngoài ra, những bệnh nhân có tiền sử gãy xương nhưng chưa bị loãng xương cũng được chỉ định điều trị. Nhưng loãng xương chỉ giải thích một phần tổng số ca gãy xương. Thật vậy, 55% nữ gãy xương và 70% nam gãy xương, nhưng họ không bị loãng xương. Do đó, loãng xương chỉ giải thích khoảng 45% (ở nữ giới) và (ở 30% nam giới) gãy xương. Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng ngoài loãng xương (hay suy giảm MĐX), các yếu tố khác cũng có liên quan đến gãy xương: tuổi cao, nữ giới, hút thuốc lá, dùng bia rượu thái quá, giảm cân nặng, giảm chiều cao, tiền sử gãy xương, dùng corticosteroid dài hạn, viêm khớp dạng thấp, loãng xương thứ phát, và té ngã. Do đó, ngoài MĐX ra, còn 12 yếu tố khác có thể giúp đánh giá nguy cơ gãy xương cho một cá nhân. Trong thời gian 10 năm qua, đã có một số mô hình tiên lượng được xây dựng để đánh giá nguy cơ gãy xương. Hai mô hình phổ biến là Garvan Fracture Risk Calculator (Garvan) và FRAX. Mô hình Garvan dùng 5 yếu tố nguy cơ (tuổi, MĐX, giảm cân nặnng, tiền sử gãy xương, và té ngã); mô hình FRAX dùng 12 yếu tố nguy cơ như mô tả trên. Mô hình Garvan và FRAX dùng các yếu tố nguy cơ để tiên lượng nguy cơ gãy xương trong 10 năm. Theo khuyến cáo của Quỹ Loãng Xương Hoa Kỳ (NOF) và Tổ chức Loãng xương Quốc tế (IOF), cá nhân có nguy cơ gãy xương trên 20% nên chỉ định cho điều trị. Hai mô hình Garvan và FRAX đã được triển khai và đưa vào sử dụng trong việc nhận dạng những cá nhân có nguy cơ cao cho điều trị và phòng bệnh.
- 3 Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về loãng xương ở các nhóm bệnh nhân cụ thể, nhưng nghiên cứu trên cộng đồng dân số còn rất ít. Ngoài ra, chưa có nghiên cứu đánh giá nguy cơ gãy xương trong cộng đồng, và so sánh giá trị tiên lượng của Garvan và FRAX. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài " Nghiên cứu mật độ khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang " nhằm hai mục tiêu như sau: + Khảo sát MĐX bằng phương pháp DXA và xác định tỷ lệ loãng xương trong cộng đồng, cùng các yếu tố có liên quan đến loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh; + Đánh giá nguy cơ gãy xương trong cộng đồng qua hai mô hình Garvan và FRAX. Nghiên cứu cũng so sánh giá trị tiên lượng của hai mô hình Garvan và FRAX, và đối chiếu với chỉ định điều trị theo khuyến cáo và phác đồ điều trị hiện hành. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN + Xác định tỷ lệ hiện hành (prevalence) loãng xương trong cộng đồng. Một kết quả quan trọng và đóng góp của luận án là quy mô loãng xương trong cộng đồng thuộc Thành phố Rạch Giá (Kiên Giang). Nghiên cứu chỉ ra rằng 45% phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương (osteoporosis, 11,2%) hoặc thiếu xương (osteopenia, 34%). + Xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến loãng xương. Nghiên cứu phát hiện các yếu tố sau đây có liên quan đến loãng xương: cao tuổi, tuổi có kinh trên 15, giảm cân nặng, và vô sinh. + Hệ số tương quan về giá trị tiên lượng giữa mô hình Garvan và FRAX là r = 0,7. Kết quả này có ý nghĩa rằng giá trị tiên lượng của mô hình FRAX giải thích 49% những khác biệt về giá trị tiên lượng
- 4 của mô hình Garvan. Kết quả này cho thấy hai mô hình Garvan và FRAX có mức độ tương đồng khá cao. + Dựa vào tiêu chuẩn nguy cơ gãy xương ≥20%, mô hình Garvan dự báo có 59,2% (122 trên 206) có nguy cơ gãy xương cao. Mô hình FRAX dự báo chỉ 7,3% có nguy cơ cao (15 trên 206). + Trong nhóm loãng xương, mô hình Garvan dự báo 100% (23/23) có nguy cơ gãy xương cao; mô hình FRAX dự báo chỉ 60,9% (14/23). Trong nhóm có tiền sử gãy xương, mô hình Garvan tiên lượng 90% có nguy cơ cao (27/30), nhưng mô hình FRAX tiên lượng chỉ 30% (9/30). Những kết quả này cho thấy mô hình Garvan phù hợp với thực tế lâm sàng hơn mô hình FRAX. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN: Luận án gồm 107 trang, bao gồm: Đặt vấn đề: 2 trang. Tổng quan tài liệu: 33 trang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 13 trang. Kết quả nghiên cứu: 28 trang. Bàn luận: 28 trang. Kết luận: 2 trang; Kiến nghị: 1 trang; Luận án có 42 bảng, 6 biểu đồ, 9 hình ảnh, 129 tài liệu tham khảo (cụ thể 11 tài liệu Tiếng Việt, 118 tài liệu Tiếng Anh). TỔNG QUAN TÀI LIỆU Tóm lược sinh học xương Xương là một mô được cấu tạo từ hai loại mô chính: vô cơ và hữu cơ. Thành phần vô cơ chiếm 70% và thành phần hữu cơ chiếm 22% trọng lượng của xương. Thành phần vô cơ chủ yếu là calcium phosphate hydroxyapatite. Thành phần hữu cơ chủ yếu là chất keo loại I (type I collagen), chiếm khoảng 85% , và các protein noncollagen (chiếm khoảng 15%) như osteocalcin, osteopontine, sialoprotein, glycoprotein, proteoglycan và glaprotein.
- 5 Xương là một mô động được tạo ra từ 3 nhóm tế bào chính: osteoblast (tạo xương bào), osteoclast (huỷ xương bào) và osteocyte (xương bào). Hai tế bào chính đóng vai trò quan trọng trong quá trình mô hình hoá và tái mô hình hoá là tạo xương bào và huỷ xương bào. Hai loại tế bào này vận hành chung và lệ thuộc lẫn nhau, chứ không độc lập với nhau. Hai loại tạo xương bào và huỷ xương bào tạo nên một cấu trúc tạm thời có tên là "Đơn vị đa bào cơ bản" (Basic Multicellular Unit, BMU). Mỗi BMU có chiều dài khoảng 12 mm và rộng 0,2 đến 0,4 mm. Trong điều kiện bình thường, các tạo xương bào và hủy xương bào hoạt động nhịp nhàng và bổ sung cho nhau trong BMU. Khi hoạt động bình thường, khối lượng xương đào thải bằng với khối lượng xương tạo ra. Tuy nhiên, ở phụ nữ sau mãn kinh và người lớn tuổi, huỷ xương bào hoạt động mạnh hơn tạo xương bào, và dẫn đến tình trạng mất xương. Mất xương dẫn đến suy giảm sức mạnh của xương và tăng nguy cơ gãy xương. Do đó, đứng trên quan điểm sinh học, có thể xem loãng xương là hệ quả của sự mất cân đối giữa hủy xương bào và tạo xương bào. Định nghĩa loãng xương Loãng xương là một bệnh lý với hai đặc điểm chính là sức mạnh của xương bị suy giảm và cấu trúc xương bị suy thoái, dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương. Sức mạnh của xương chủ yếu được đánh giá qua mật độ chất khoáng trong xương (viết tắt là MĐX). Suy giảm MĐX là yếu tố nguy cơ của gãy xương. Năm 1994,WHO định nghĩa loãng xương là “một bệnh với đặc điểm khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng, dẫn đến tình trạng xương bị yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy xương” [29].
- 6 Loãng xương do đó được chẩn đoán qua đo MĐX. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, khi MĐX suy giảm hơn 2.5 độ lệch chuẩn từ tuổi 2030 được chẩn đoán là loãng xương. Ở Việt Nam, trong vài năm gần đây đã có một số nghiên cứu về qui mô loãng xương trong dân số [3],[4],[79]. Một nghiên cứu trong cộng đồng tại TPHCM cho thấy tỷ lệ loãng xương ở nữ trên 60 tuổi là khoảng 29% [4]. Tuy nhiên, một nghiên cứu trong bệnh viện ở Hà Nội cho thấy gần 60% bệnh nhân bị chẩn đoán loãng [79]. Gãy xương là hệ quả của loãng xương. Trên thế giới, hàng năm loãng xương gây gãy xương ít nhất 8,9 triệu người. Năm 2010 là 158 triệu người gãy xương, dự tính tăng gấp đôi triệu người năm 2040 [60],[61]. Ở Châu Á, ước tính từ năm 20182050 tăng nguy cơ gãy CXĐ gấp 2,28 lần. Chi phí cho bệnh nhân gãy xương tăng hàng tỷ USD mỗi năm [63],[64]. Yếu tố nguy cơ loãng xương Nhiều nghiên cứu dịch tễ học lâm sàng trên thế giới và tại Việt Nam đã nhận ra một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến loãng xương. Các yếu tố này có thể phân chia thành hai nhóm: nhóm có thể can thiệp và nhóm yếu tố không thể can thiệp. Nhóm yếu tố có thể can thiệp bao gồm lối sống (hút thuốc lá, rượu bia thái quá), chế độ dinh dưỡng kém lành mạnh, thiếu luyện tập thể dục, suy giảm hormones giới tính (estrogen, testosterone), giảm cân nặng hay mất cân, chế ăn uống thiếu calcium, thiếu vitamin D, té ngã, và sức khoẻ kém. Nhóm yếu tố không thể can thiệp bao gồm: cao tuổi, nữ giới, di truyền, ti ền s ử gãy xương cá nhân, và tiền sử gãy xương trong gia đình. Yếu tố nguy cơ gãy xương
- 7 Tất cả các yếu tố nguy cơ loãng xương liệt kê trên cũng là những yếu tố nguy cơ gãy xương. Ngoài ra, suy giảm mật độ xương (hay loãng xương) là một yếu tố nguy cơ quan trọng. Các yếu tố trên có tác động cộng hưởng đến nguy cơ gãy xương. Do đó, đối tượng càng có nhiều yếu tố nguy cơ càng tăng nguy cơ gãy xương. Mô hình tiên lượng Mặc dù MĐX là yếu tố nguy cơ gãy xương quan trọng nhất, nhưng MĐX chỉ nhận dạng được 55% nữ và 25% nam gãy xương. Do đó, xu hướng mới trong loãng xương là xây dựng các mô hình tiên lượng để dự báo (tiên lượng) gãy xương trong 10 năm dựa vào các yếu tố nguy cơ của mỗi cá nhân. Hiện nay, có hai mô hình tiên lượng chính là FRAX và Garvan. Mô hình FRAX sử dụng 12 yếu tố nguy cơ, mô hình Garvan sử dụng 5 yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ của FRAX bao gồm: giới, tuổi, tiền sử gãy xương, cân nặng, chiều cao, mật độ xương cổ xương đùi, tiền sử gia đình gãy xương, hút thuốc lá, dùng bia rượu, sử dụng corticosteroid, viêm khớp dạng thấp, và loãng xương thứ phát. Các yếu tố nguy cơ trong mô hình Garvan bao gồm: giới, tuổi, tiền sử gãy xương, tiền sử té ngã, và mật độ xương cổ xương đùi. Tuy nhiên, đánh giá mối tương quan giữa hai mô hình này vẫn còn ít, và chưa có hệ thống. Công trình nghiên cứu được trình bày trong luận án này được thiết kế để cung cấp câu trả lời khoa học cho những câu hỏi sau: + Có bao nhiêu đối tượng sau mãn kinh bị loãng xương trong cộng đồng ở Kiên Giang; và yếu tố nào có liên quan đến loãng xương? + Quy mô gãy xương trong cộng đồng qua mô hình FRAX và
- 8 Garvan là bao nhiêu? + Mức độ nhất quán giữa nguy cơ gãy xương cao (qua mô hình FRAX và Garvan) và chỉ định điều trị? PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện trong cộng đồng thuộc Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Thời gian nghiên cứu từ tháng 11/2012 đến tháng 12/2015. Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu: gồm 206 phụ nữ mãn kinh sống tại Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang đồng ý tham gia nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu là những người được mời từ các hội phụ nữ và hội người cao tuổi. Các đối tượng được giải thích về mục tiêu và quy trình nghiên cứu, và đồng thuận tham gia. Họ được phỏng vấn tại phòng khám Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang và phòng khám Vạn Phước (Cần Thơ). Đo lường MĐX: mỗi đối tượng được đo lường mật độ xương tại xương đùi (femoral neck) dùng máy DXA hiệu Osteocore Station Mobile (MEDII INK, Pháp) tại phòng khám Vạn Phước (Cần Thơ). Giá trị MĐX được chuyển sang chỉ số T. Dựa vào kết quả scan, mỗi phụ nữ được xếp vào một trong 3 nhóm: bình thường (chỉ số T cao hơn 1), thiếu xương (chỉ số T trong 1 đến 2,5), và loãng xương (chỉ số T bằng hoặc thấp hơn 2,5). Dữ liệu thu thập: Mỗi cá nhân cung cấp những thông tin liên quan đến nhân trắc, tiền sử gãy xương, tiền sử tái sản sinh, lối sống, cân nặng, và chiều cao. Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính
- 9 từ cân nặng và chiều cao, và phân thành 3 nhóm: thiếu cân (BMI < 18,5); bình thường (BMI 18,5 đến 24,9), và thừa cân (BMI 25,0 trở lên). Ước tính nguy cơ gãy xương. Dựa trên cơ sở dữ liệu về yếu tố nguy cơ của mỗi đối tượng, xác suất nguy cơ gãy xương 10 năm được tính toán bằng mô hình FRAX và Garvan. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ Loãng xương Quốc gia Hoa Kỳ, xác suất gãy xương (10 năm) trên 20% được xem là "nguy cơ cao". Phân tích dữ liệu: Số liệu được phân tích theo phương pháp thống kê mô tả và hồi qui logistic dùng phần mềm R. Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để ước tính tỷ lệ hiện hành loãng xương và khoảng tin cậy 95%. Mô hình hồi qui logistic được ứng dụng để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tiền sử gãy xương. Dựa vào tham số của mô hình hồi qui logistic, tỷ số chênh và khoảng tin cậy 95% được ước tính. Quy mô gãy xương trong cộng đồng được ước tính qua dự báo nguy cơ gãy xương bằng hai mô hình FRAX và Garvan. Tỷ lệ đối tượng có nguy cơ gãy xương trên 20% được xem là một ước số về quy mô gãy xương trong cộng đồng phụ nữ sau mãn kinh.
- 10 KẾT QUẢ Công trình nghiên cứu được thực hiện trên 206 phụ nữ sau mãn kinh. Tuổi trung vị của đối tượng nghiên cứu là 66 (tối thiểu 48 và tối đa 85 tuổi). Trong số 206 đối tượng, 46% (n = 94) là thừa cân và 2.4% (n = 5) là thiếu cân. Kết quả phân tích chỉ số T cho thấy có: 113 (55%) có MĐX bình thường; 70 (34%) thiếu xương, và 23 (11,2%) loãng xương. Các yếu tố nguy cơ loãng xương được báo cáo trong bảng 1 dưới đây: Yếu tố nguy cơ loãng xương Yếu tố OR 95%CI P Tuổi (+1) 1,15 1,07 – 1,23
- 11 sinh, thời gian sau mãn kinh, và tiền sử gãy xương trong gia đình. Chẳng hạn như mỗi năm tăng tuổi có liên quan đến 15% (tỷ số chênh 1,15; khoảng tin cậy 95% từ 1,07 đến 1,23) tăng odds loãng xương. Tiền sử gãy xương trong gia đình có mức độ tác động lớn nhất đến nguy cơ gãy xương. Trong số 206 đối tượng, có 30 đối tượng có tiền sử gãy xương. Tỷ lệ tiền sử gãy xương là 14,6% (khoảng tin cậy 95%: 10,4 đến 20%). Phân tích đơn biến phát hiện các yếu tố có liên quan đến tiền sử gãy xương (có ý nghĩa thống kê): loãng xương, vô sinh, tiền sử té ngã, và tiền sử gãy xương trong gia đình. Bảng 3.27. Mối liên quan giữa tiền sử gãy xương và loãng xương Tiền sử GX Tiền sử không GX OR, p Nhóm Số Số loãng xương Tỷ lệ % Tỷ lệ % lượng lượng Loãng xương 12 40,0 11 6,25 10,0 (3,86 – (n= 23) 25,9) Không loãng P
- 12 Bảng 3.31. Mối liên quan giữa tiền sử gãy xương và không sinh con Tiền sử GX Tiền sử không OR, p Tình trạng GX sinh con Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ lượng % lượng % Không sinh con 7 23,3 14 8,0 OR=3,52 (n= 21) (1,269,8) Có con p
- 13 Bảng 3.35. Mối liên quan gãy xương và tiền sử gia đình gãy xương Tiền sử gia Tiền sử GX Tiền sử không GX OR, p đình GX Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Có tiền sử OR=6,83 gia đình GX 10 33,3 12 6,8 (2,4918,7) (n=22 ) P=0,001 Không GX 20 66,7 164 93,2 (n=184) Tổng 30 100 176 100 (n=206) Tuy nhiên, phân tích hồi qui logistic đa biến cho thấy sau khi điều chỉnh cho tất cả các yếu tố trong mô hình, chỉ có loãng xương là yếu tố độc lập. Theo đó, đối tượng loãng xương có tỷ số chênh là 6,83 (khoảng tin cậy 95% từ 1,71 đến 23,0).
- 14 Bảng 3.36. Phân tích hồi qui đa biến giữa tiền sử gãy xương và các yếu tố nguy cơ. Yếu tố OR 95%CI P Tuổi ≥ 60 2,85 0,2927,56 0,37 BMI 10 năm 0,46 0,121,74 0,26 Tiền sử té ngã 1,12 0,433,72 0,85 Tiền sử gia đình có người gãy 2,48 0,8010,74 0,19 xương
- 15 Hệ số tương quan r=0,70; p
- 16 Kết quả phân tích mô hình tiên lượng FRAX và Garvan cho thấy hệ số tương quan giữa hai mô hình là r = 0,7, và có ý nghĩa thống kê (P 20%, mô hình FRAX không phát hiện đối tượng có nguy cơ cao, nhưng mô hình Garvan phát hiện 10,2% (n = 21). Dùng ngưỡng xác suất gãy xương đùi >3%, mô hình FRAX phát hiện 7,3% (n = 15) đối tượng có nguy cơ cao, nhưng mô hình Garvan phát hiện 59,2% (n = 122) có nguy cơ cao. Bảng 3.41. So sánh chỉ định điều trị loãng xương và nguy cơ cao dựa vào giá trị tiên lượng gãy xương đùi . Giá trị tiên Tổng số Loãng xương p lượng (n = 206) (n = 23) GX đùi FRAX ≥ 3% 15 (7,3%) 14 (60,9%) p
- 17 cao, nhưng Garvan nhận dạng được 27 đối tượng (90%). Trong số 23 đối tượng loãng xương (tức chỉ định điều trị), mô hình FRAX nhận dạng được 14 đối tượng (60,9%) và Garvan nhận dạng 23 (100%) có nguy cơ cao. Do đó, mô hình Garvan phù hợp với chỉ định điều trị hơn mô hình FRAX. BÀN LUẬN Loãng xương và hệ quả gãy xương là một gánh nặng y tế công cộng trong cộng đồng, đặc biệt là ở phụ nữ mãn kinh và nam giới cao tuổi. Loãng xương là một căn bệnh diễn biến "âm thầm", không có triệu chứng cụ thể, nên việc nhận dạng đối tượng có nguy cơ cao là một khó khăn trong thực tế lâm sàng. Để nhận dạng đối tượng có nguy cơ cao, hiểu biết về mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và loãng xương (và gãy xương) là một điều kiện quan trọng. Hiện nay, trong chuyên ngành loãng xương có hai mô hình phổ biến, FRAX và Garvan, có thể sử dụng để đánh giá nguy cơ gãy xương cho một cá nhân dựa vào các yếu tố nguy cơ, và qua đó có thể nhận dạng các đối tượng cần được can thiệp. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự tương đồng giữa hai mô hình, và tương đồng giữa giá trị tiên lượng và chỉ định điều trị ở Việt Nam vẫn còn rất ít. Nghiên cứu này được thực hiện trên 206 phụ nữ mãn kinh cung cấp 4 thông tin mới như sau: + Tỷ lệ loãng xương và thiếu xương ở những phụ nữ mãn kinh là ~45%; + Các yếu tố có liên quan đến loãng xương bao gồm cao tuổi, BMI thấp, vô sinh, và tiền sử gãy xương trong gia đình; + Tuy nhiên, khi phân tích với tiền sử gãy xương, chỉ có loãng xương (mật độ xương thấp) là yếu tố nguy cơ độc lập;
- 18 + Mô hình Garvan nhận dạng gần 60% đối tượng có nguy cơ gãy xương cao. Mô hình Garvan có giá trị tiên lượng phù hợp với chỉ định điều trị lâm sàng hơn mô hình FRAX. Những thông tin mới từ nghiên cứu này thể hiện một đóng góp vào y văn Việt Nam trong việc quản lí, điều trị và phòng ngừa bệnh loãng xương ở qui mô cộng đồng. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào phụ nữ sau mãn kinh (tuổi trung bình 66,8). Chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là nữ giới bởi vì nữ là đối tượng có nguy cơ loãng xương và gãy xương cao hơn nam giới. Ở nhóm đối tượng này, chúng tôi phát hiện 11% phụ nữ đang ở trong tình trạng loãng xương (chỉ số T bằng hoặc thấp hơn 2.5). Tỷ lệ loãng xương trong nghiên cứu này có phần khác biệt nhưng nằm trong khoảng trung bình so với các nghiên cứu trước đây. Trong một nghiên cứu trên 504 phụ nữ ở Hà Nội, tác giả Đặng Hồng Hoa và cộng sự (2007) [3] ước tính có 9,3% phụ nữ loãng xương. Một nghiên cứu qui mô hơn (n = 2232) cũng trên phụ nữ ở Hà Nội vào năm 2004 cho thấy tỷ lệ loãng xương là 15,4% [2]. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của tác giả Hồ Phạm Thục Lan và cộng sự [4] trên 970 phụ nữ sau mãn kinh được tuyển chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng cho thấy tỷ lệ loãng xương 29%. Ngoài ra, nghiên cứu trên 988 phụ nữ ở Hà Nội (mẫu trong bệnh viện) phát hiện 58,4% loãng xương [79]. Tóm lại, những nghiên cứu vừa đề cập chỉ ra qui mô loãng xương trong cộng đồng có thể dao động từ 9% đến 29%, tuỳ vào độ tuổi và phương pháp đo lường. Nghiên cứu của chúng tôi ước tính tỷ lệ loãng xương 11,2% có thể xem là trung bình thấp so với các nghiên cứu vừa điểm qua.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: An ninh tài chính cho thị trường tài chính Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
25 p | 303 | 51
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy vật lý cho học sinh thông qua phương pháp mô hình với sự hỗ trợ của máy tính trong dạy học chương động lực học chất điểm vật lý lớp 10 trung học phổ thông
219 p | 288 | 35
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Chiến lược Marketing đối với hàng mây tre đan xuất khẩu Việt Nam
27 p | 179 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay
27 p | 266 | 17
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu điều kiện lao động, sức khoẻ và bệnh tật của thuyền viên tàu viễn dương tại 2 công ty vận tải biển Việt Nam năm 2011 - 2012
14 p | 269 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu tính toán ứng suất trong nền đất các công trình giao thông
28 p | 222 | 11
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kinh tế Quốc tế: Rào cản phi thuế quan của Hoa Kỳ đối với xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam
28 p | 175 | 9
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế biển Kiên Giang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
27 p | 53 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn miền Tây Nam bộ: Tình hình, nguyên nhân và phòng ngừa
27 p | 198 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Xã hội học: Vai trò của các tổ chức chính trị xã hội cấp cơ sở trong việc đảm bảo an sinh xã hội cho cư dân nông thôn: Nghiên cứu trường hợp tại 2 xã
28 p | 148 | 7
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phản ứng của nhà đầu tư với thông báo đăng ký giao dịch cổ phiếu của người nội bộ, người liên quan và cổ đông lớn nước ngoài nghiên cứu trên thị trường chứng khoán Việt Nam
32 p | 183 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Quản lý nhà nước đối với giảng viên các trường Đại học công lập ở Việt Nam hiện nay
26 p | 135 | 5
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam thông qua mô hình hấp dẫn thương mại
28 p | 16 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Phương tiện biểu hiện nghĩa tình thái ở hành động hỏi tiếng Anh và tiếng Việt
27 p | 119 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật: Nghiên cứu cơ sở khoa học và khả năng di chuyển của tôm càng xanh (M. rosenbergii) áp dụng cho đường di cư qua đập Phước Hòa
27 p | 8 | 4
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc kỳ hạn nợ phương pháp tiếp cận hồi quy phân vị và phân rã Oaxaca – Blinder
28 p | 27 | 3
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Phát triển sản xuất chè nguyên liệu bền vững trên địa bàn tỉnh Phú Thọ các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản Việt Nam
25 p | 170 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn