intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mật độ khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

38
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của luận văn gồm: Khảo sát MĐX bằng phương pháp DXA và xác định tỷ lệ loãng xương trong cộng đồng, cùng các yếu tố có liên quan đến loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh. Đánh giá nguy cơ gãy xương trong cộng đồng qua hai mô hình Garvan và FRAX. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu mật độ khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ mãn kinh tại Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO       BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y  THÁI VIẾT TẶNG NGHIÊN CỨU MẬT ĐỘ KHOÁNG CỦA XƯƠNG VÀ CÁC  YẾU TỐ NGUY CƠ GÃY XƯƠNG Ở PHỤ NỮ MÃN KINH  TẠI THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành: Nội khoa Mã số: 9 72 01 07  TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC HÀ NỘI ­ 2019
  2. Công trình được hoàn thành tại Học Viện Quân Y Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Văn Đệ Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ  cấp trường họp tại Học viện Quân y vào hồi:  ...giờ...ngày....tháng....năm..... Có thể tìm hiểu luận án tại: ­ Thư viện quốc gia ­ Thư viện Học viện Quân Y
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Loãng xương được định nghĩa là bệnh lý với đặc điểm chính   là sức mạnh của xương bị  suy giảm và dẫn đến gia tăng nguy cơ  gãy xương. Sức mạnh của xương do hai yếu tố  chính là mật độ  xương (MĐX) và cấu trúc xương. Ở phụ  nữ  sau mãn kinh và nam   giới trên 50 tuổi, MĐX bị  suy giảm theo độ  tuổi, và cấu trúc của   xương bị suy thoái. Sự suy giảm MĐX và suy thoái cấu trúc xương   làm cho xương trở nên yếu và dễ  bị  gãy khi va chạm với một lực   nhỏ (như hắt hơi). Do đó, gãy xương là hệ quả của loãng xương.  Gãy   xương   do   loãng   xương   là   một   vấn   đề   y   tế   lớn   ở  những người cao tuổi. Trên thế  giới, có hơn 8,9 triệu người gãy  xương mỗi năm; trong số này nữ  chiếm đa số  (61%). Gãy xương,  nhất là xương đùi, làm tăng nguy cơ tử vong. Những bệnh nhân còn   sống sau gãy xương có chất lượng sống bị suy giảm và khó đi lại   bình thường.  Gãy xương còn là một gánh nặng kinh tế  toàn cầu,   với  chi phí mỗi năm liên quan đến điều trị   ở  Mỹ  là đến 10­20 tỷ  USD.  Ở  Anh Quốc 2,7 tỷ  EUR.  Ở  Úc là 7,5 USD. Bệnh nhân bị  gãy xương, đặc biệt là cổ  xương đùi phải chịu nhiều biến chứng   như  đau, tàn phế  và tử  vong 12­20% trong năm đầu tiên. Những   người còn sống sót thì chất lượng cuộc sống cũng bị  giảm sút đi   rất nhiều [1] Hiện nay có nhiều phương pháp chẩn đoán loãng xương, trong  đó đo MĐX bằng phương pháp DXA được xem là chuẩn vàng.  
  4. 2 Những cá nhân có MĐX suy giảm hơn 2.5 độ lệch chuẩn so với giá  trị  trung bình  ở  độ  tuổi 20­30 được chẩn đoán là 'loãng xương'   (osteoporosis).   Những   bệnh   nhân   được   chẩn   đoán   loãng   xương  được chỉ  định điều trị. Ngoài ra, những bệnh nhân có tiền sử  gãy  xương nhưng chưa bị loãng xương cũng được chỉ định điều trị.  Nhưng loãng xương chỉ  giải thích một phần tổng số  ca gãy  xương.   Thật   vậy,   55%   nữ   gãy  xương  và   70%   nam   gãy  xương,  nhưng họ  không bị loãng xương. Do đó, loãng xương chỉ giải thích  khoảng 45% (ở  nữ  giới) và (ở  30% nam giới) gãy xương. Nhiều  nghiên cứu trên thế  giới chỉ  ra rằng ngoài loãng xương (hay suy  giảm MĐX), các yếu tố  khác cũng có liên quan đến gãy xương:   tuổi cao, nữ  giới, hút thuốc lá, dùng bia rượu thái quá, giảm cân  nặng, giảm chiều cao, tiền sử  gãy xương, dùng corticosteroid dài  hạn, viêm khớp dạng thấp, loãng xương thứ phát, và té ngã. Do đó,  ngoài MĐX ra, còn 12 yếu tố khác có thể giúp đánh giá nguy cơ gãy  xương cho một cá nhân.  Trong thời gian 10 năm qua, đã có một số mô hình tiên lượng  được xây dựng để  đánh giá nguy cơ  gãy xương. Hai mô hình phổ  biến   là   Garvan   Fracture   Risk   Calculator   (Garvan)   và   FRAX.   Mô  hình Garvan dùng 5 yếu tố nguy cơ (tuổi, MĐX, giảm cân nặnng,  tiền sử gãy xương, và té ngã); mô hình FRAX dùng 12 yếu tố nguy  cơ như mô tả trên. Mô hình Garvan và FRAX dùng các yếu tố nguy   cơ  để  tiên lượng nguy cơ  gãy xương trong 10 năm. Theo khuyến  cáo   của   Quỹ   Loãng   Xương   Hoa   Kỳ   (NOF)   và   Tổ   chức   Loãng  xương Quốc tế (IOF), cá nhân có nguy cơ gãy xương trên 20% nên  chỉ  định cho điều trị. Hai mô hình Garvan và FRAX đã được triển   khai và đưa vào sử  dụng trong việc nhận dạng những cá nhân có   nguy cơ cao cho điều trị và phòng bệnh. 
  5. 3 Ở  Việt Nam, đã có một số  nghiên cứu về loãng xương ở  các  nhóm bệnh nhân cụ  thể, nhưng nghiên cứu trên cộng đồng dân số  còn   rất   ít.   Ngoài   ra,   chưa   có   nghiên   cứu   đánh   giá   nguy   cơ   gãy  xương trong cộng đồng, và so sánh giá trị tiên lượng của Garvan và   FRAX. Do đó, chúng tôi thực hiện đề  tài " Nghiên cứu mật độ   khoáng của xương và các yếu tố nguy cơ gãy xương ở phụ nữ   mãn kinh tại Thành phố  Rạch Giá,  tỉnh Kiên Giang " nhằm hai  mục tiêu như sau:   + Khảo sát MĐX bằng phương pháp DXA và xác định tỷ lệ loãng   xương trong cộng đồng, cùng các yếu tố  có liên quan đến loãng   xương ở phụ nữ sau mãn kinh;  + Đánh giá nguy cơ  gãy xương trong cộng đồng qua hai mô hình   Garvan và FRAX.  Nghiên cứu cũng so sánh giá trị  tiên lượng của hai mô hình  Garvan và FRAX, và đối chiếu với chỉ  định điều trị  theo khuyến  cáo và phác đồ điều trị hiện hành.  ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN + Xác định tỷ  lệ  hiện hành (prevalence) loãng xương trong cộng   đồng. Một kết quả quan trọng và đóng góp của luận án là quy mô  loãng xương trong cộng đồng thuộc Thành phố  Rạch Giá (Kiên  Giang). Nghiên cứu chỉ ra rằng 45% phụ nữ sau mãn kinh bị  loãng  xương (osteoporosis, 11,2%) hoặc thiếu xương (osteopenia, 34%).   + Xác định yếu tố nguy cơ liên quan đến loãng xương. Nghiên cứu   phát hiện các yếu tố  sau đây có liên quan đến loãng xương: cao  tuổi, tuổi có kinh trên 15, giảm cân nặng, và vô sinh.  + Hệ  số  tương quan về  giá trị  tiên lượng giữa mô hình Garvan và   FRAX là r = 0,7. Kết quả này có ý nghĩa rằng giá trị tiên lượng của  mô hình FRAX giải thích 49% những khác biệt về giá trị tiên lượng  
  6. 4 của mô hình Garvan. Kết quả này cho thấy hai mô hình Garvan và  FRAX có mức độ tương đồng khá cao.  + Dựa vào tiêu chuẩn nguy cơ  gãy xương ≥20%, mô hình Garvan  dự báo có 59,2% (122 trên 206) có nguy cơ gãy xương cao. Mô hình  FRAX dự báo chỉ 7,3% có nguy cơ cao (15 trên 206).  + Trong nhóm loãng xương, mô hình Garvan dự  báo 100% (23/23)  có   nguy   cơ   gãy   xương   cao;   mô   hình   FRAX   dự   báo   chỉ   60,9%  (14/23). Trong nhóm có tiền sử  gãy xương, mô hình Garvan tiên  lượng   90%   có   nguy   cơ   cao   (27/30),   nhưng   mô   hình   FRAX   tiên  lượng chỉ 30% (9/30). Những kết quả này cho thấy mô hình Garvan  phù hợp với thực tế lâm sàng hơn mô hình FRAX.  BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN: Luận án gồm 107 trang, bao gồm: Đặt vấn đề: 2 trang. Tổng   quan tài liệu: 33 trang. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 13   trang. Kết quả nghiên cứu: 28 trang. Bàn luận: 28 trang. Kết luận:   2 trang; Kiến nghị: 1 trang; Luận án có 42 bảng, 6 biểu đồ, 9 hình   ảnh, 129 tài liệu tham khảo (cụ thể 11 tài liệu Tiếng Việt, 118 tài   liệu Tiếng Anh).  TỔNG QUAN TÀI LIỆU  Tóm lược sinh học xương  Xương là một mô được cấu tạo từ hai loại mô chính: vô cơ  và hữu cơ. Thành phần vô cơ  chiếm 70% và thành phần hữu cơ  chiếm 22% trọng lượng của xương. Thành phần vô cơ  chủ  yếu là  calcium phosphate hydroxyapatite. Thành phần hữu cơ  chủ  yếu là  chất keo loại I (type I collagen), chiếm khoảng 85% ,  và các protein  non­collagen   (chiếm khoảng 15%) như  osteocalcin, osteopontine,   sialoprotein, glycoprotein, proteoglycan và gla­protein.
  7. 5 Xương là một mô động được tạo ra từ 3 nhóm tế bào chính:   osteoblast (tạo xương bào), osteoclast (huỷ xương bào) và osteocyte  (xương bào). Hai tế  bào chính đóng vai trò quan trọng trong quá  trình mô  hình hoá  và  tái  mô  hình hoá  là  tạo xương bào và  huỷ  xương bào. Hai loại tế  bào này vận hành chung và lệ  thuộc lẫn   nhau, chứ không độc lập với nhau. Hai loại tạo xương bào và huỷ  xương bào tạo nên một cấu trúc tạm thời có tên là "Đơn vị đa bào  cơ  bản" (Basic Multicellular Unit, BMU). Mỗi BMU có chiều dài   khoảng 1­2 mm và rộng 0,2 đến 0,4 mm.  Trong  điều   kiện   bình   thường,   các  tạo   xương   bào   và   hủy  xương bào hoạt động nhịp nhàng và bổ sung cho nhau trong BMU.   Khi hoạt động bình thường, khối lượng xương đào thải bằng với   khối lượng xương tạo ra. Tuy nhiên,  ở  phụ  nữ  sau mãn kinh và  người lớn tuổi, huỷ  xương bào hoạt động mạnh hơn tạo xương  bào, và dẫn đến tình trạng mất xương. Mất xương dẫn đến suy   giảm sức mạnh của xương và tăng nguy cơ  gãy xương. Do đó,  đứng trên quan điểm sinh học, có thể  xem loãng xương là hệ  quả  của sự mất cân đối giữa hủy xương bào và tạo xương bào. Định nghĩa loãng xương  Loãng xương là một bệnh lý với hai đặc điểm chính là sức  mạnh của xương bị suy giảm và cấu trúc xương bị suy thoái, dẫn  đến gia tăng nguy cơ gãy xương. Sức mạnh của xương chủ yếu  được đánh giá qua mật độ chất khoáng trong xương (viết tắt là  MĐX). Suy giảm MĐX là yếu tố nguy cơ của gãy xương. Năm  1994,WHO định nghĩa loãng xương là “một bệnh với đặc điểm  khối lượng xương suy giảm, vi cấu trúc của xương bị hư hỏng,  dẫn đến tình trạng xương bị yếu và hệ quả là tăng nguy cơ gãy  xương” [29]. 
  8. 6 Loãng   xương   do   đó   được   chẩn   đoán   qua   đo   MĐX.   Theo  khuyến cáo của Tổ  chức Y tế  Thế  giới, khi MĐX suy giảm hơn   2.5 độ lệch chuẩn từ tuổi 20­30 được chẩn đoán là loãng xương. Ở  Việt Nam, trong vài năm gần đây đã có một số  nghiên cứu về  qui  mô loãng xương trong dân số  [3],[4],[79]. Một nghiên cứu trong  cộng đồng tại TPHCM cho thấy tỷ  lệ  loãng xương  ở  nữ  trên 60  tuổi là khoảng 29% [4]. Tuy nhiên, một nghiên cứu trong bệnh viện   ở Hà Nội cho thấy gần 60% bệnh nhân bị chẩn đoán loãng [79]. Gãy xương là hệ  quả  của loãng xương. Trên thế  giới, hàng  năm loãng xương gây gãy xương ít nhất 8,9 triệu người. Năm 2010  là 158 triệu người gãy xương, dự  tính tăng gấp đôi triệu người   năm 2040 [60],[61].  Ở  Châu Á,  ước tính từ  năm 2018­2050 tăng  nguy cơ gãy CXĐ gấp 2,28 lần. Chi phí cho bệnh nhân gãy xương   tăng hàng tỷ USD mỗi năm [63],[64]. Yếu tố nguy cơ loãng xương  Nhiều nghiên cứu dịch tễ  học lâm sàng trên thế  giới và tại   Việt Nam đã nhận ra một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến loãng  xương. Các yếu tố  này có thể  phân chia thành hai nhóm: nhóm có   thể can thiệp và nhóm yếu tố không thể can thiệp.  Nhóm yếu tố  có thể  can thiệp bao gồm lối sống (hút thuốc  lá, rượu bia thái quá), chế  độ  dinh dưỡng kém lành mạnh, thiếu  luyện   tập   thể   dục,   suy   giảm   hormones   giới   tính   (estrogen,  testosterone),   giảm   cân   nặng   hay   mất   cân,   chế   ăn   uống   thiếu   calcium, thiếu vitamin D, té ngã, và sức khoẻ  kém. Nhóm yếu tố  không thể  can thiệp bao gồm: cao tuổi, nữ giới, di truyền, ti ền s ử  gãy xương cá nhân, và tiền sử gãy xương trong gia đình.  Yếu tố nguy cơ gãy xương 
  9. 7 Tất cả các yếu tố  nguy cơ  loãng xương liệt kê trên cũng là   những   yếu   tố   nguy   cơ   gãy   xương.   Ngoài   ra,   suy   giảm   mật   độ  xương (hay loãng xương) là một yếu tố  nguy cơ  quan trọng. Các  yếu tố  trên có tác động cộng hưởng đến nguy cơ  gãy xương. Do  đó, đối tượng càng có nhiều yếu tố nguy cơ càng tăng nguy cơ gãy  xương.  Mô hình tiên lượng  Mặc dù MĐX là yếu tố nguy cơ gãy xương quan trọng nhất,  nhưng MĐX chỉ nhận dạng được 55% nữ và 25% nam gãy xương.  Do đó, xu hướng mới trong loãng xương là xây dựng các mô hình  tiên lượng để dự báo (tiên lượng) gãy xương trong 10 năm dựa vào  các yếu tố nguy cơ của mỗi cá nhân.  Hiện   nay,   có   hai   mô   hình   tiên   lượng   chính   là   FRAX   và  Garvan.   Mô  hình   FRAX   sử   dụng   12   yếu   tố   nguy   cơ,   mô   hình  Garvan sử dụng 5 yếu tố nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ của FRAX   bao gồm: giới, tuổi, tiền sử  gãy xương, cân nặng, chiều cao, mật  độ  xương cổ xương đùi, tiền sử  gia đình gãy xương, hút thuốc lá,   dùng bia rượu, sử  dụng corticosteroid, viêm khớp dạng thấp, và  loãng xương thứ  phát. Các yếu tố  nguy cơ  trong mô hình Garvan   bao gồm: giới, tuổi, tiền sử gãy xương, tiền sử  té ngã, và mật độ  xương cổ xương đùi. Tuy nhiên, đánh giá mối tương quan giữa hai   mô hình này vẫn còn ít, và chưa có hệ thống.  Công trình nghiên cứu được trình bày trong luận án này được  thiết kế để cung cấp câu trả lời khoa học cho những câu hỏi sau:  + Có bao nhiêu đối tượng sau mãn kinh bị loãng xương trong  cộng đồng  ở  Kiên Giang;  và  yếu tố  nào có liên quan đến loãng  xương?  + Quy mô gãy xương trong cộng đồng qua mô hình FRAX và 
  10. 8 Garvan là bao nhiêu?  + Mức độ  nhất quán giữa nguy cơ  gãy xương cao (qua mô  hình FRAX và Garvan) và chỉ định điều trị?  PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện trong cộng đồng thuộc Thành  phố   Rạch   Giá,   tỉnh   Kiên  Giang.   Thời   gian  nghiên  cứu  từ   tháng  11/2012 đến tháng 12/2015. Nghiên cứu được thiết kế theo mô hình  cắt ngang.  Đối tượng nghiên cứu: gồm 206 phụ  nữ  mãn kinh  sống tại  Thành phố  Rạch Giá tỉnh Kiên Giang đồng ý tham gia nghiên cứu.   Các đối tượng nghiên cứu là những người được mời từ  các hội   phụ  nữ  và hội người cao tuổi. Các đối tượng được giải thích về  mục tiêu và quy trình nghiên cứu, và đồng thuận tham gia. Họ được  phỏng   vấn   tại   phòng   khám   Bệnh   viện   Đa   khoa   Kiên   Giang   và  phòng khám Vạn Phước (Cần Thơ).    Đo   lường   MĐX:   mỗi   đối   tượng   được   đo   lường   mật   độ  xương tại xương đùi (femoral neck) dùng máy DXA hiệu Osteocore   Station   Mobile  (MEDII   INK,   Pháp)   tại   phòng   khám   Vạn   Phước  (Cần Thơ). Giá trị  MĐX được chuyển sang chỉ  số T. Dựa vào kết  quả   scan,   mỗi   phụ   nữ   được   xếp   vào   một   trong   3   nhóm:   bình  thường (chỉ  số  T cao hơn ­1), thiếu xương (chỉ số T trong ­1 đến  ­2,5), và loãng xương (chỉ số T bằng hoặc thấp hơn ­2,5).  Dữ liệu thu thập: Mỗi cá nhân cung cấp những thông tin liên  quan đến nhân trắc, tiền sử  gãy xương, tiền sử  tái sản sinh, lối   sống, cân nặng, và chiều cao. Chỉ số khối cơ thể (BMI) được tính 
  11. 9 từ cân nặng và chiều cao, và phân thành 3 nhóm: thiếu cân (BMI <   18,5); bình thường (BMI 18,5 đến 24,9), và thừa cân (BMI 25,0 trở  lên).  Ước tính nguy cơ gãy xương. Dựa trên cơ sở dữ liệu về yếu  tố nguy cơ của mỗi đối tượng, xác suất nguy cơ gãy xương 10 năm   được tính toán bằng mô hình FRAX và Garvan. Theo khuyến cáo  của Tổ  chức Y tế  Thế  giới và Quỹ  Loãng xương Quốc gia Hoa  Kỳ, xác suất gãy xương (10 năm) trên 20% được xem là "nguy cơ  cao".  Phân tích dữ liệu: Số liệu được phân tích theo phương pháp  thống kê mô tả và hồi qui logistic dùng phần mềm R. Phương pháp  thống kê mô tả  được sử  dụng để   ước tính tỷ  lệ  hiện hành loãng  xương và khoảng tin cậy 95%. Mô hình hồi qui logistic được  ứng   dụng để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ và tiền sử  gãy xương. Dựa vào tham số  của mô hình hồi qui logistic, tỷ  số  chênh và khoảng tin cậy 95% được ước tính.  Quy mô gãy xương trong cộng đồng được  ước tính qua dự  báo nguy cơ gãy xương bằng hai mô hình FRAX và Garvan. Tỷ lệ  đối tượng có nguy cơ  gãy xương trên 20% được xem là một  ước   số về quy mô gãy xương trong cộng đồng phụ nữ sau mãn kinh. 
  12. 10 KẾT QUẢ Công trình nghiên cứu được thực hiện trên 206 phụ nữ sau mãn  kinh. Tuổi trung vị của đối tượng nghiên cứu là 66 (tối thiểu 48 và  tối đa 85 tuổi). Trong số 206 đối tượng, 46% (n = 94) là thừa cân và  2.4% (n = 5) là thiếu cân.  Kết quả phân tích chỉ số T cho thấy có: 113 (55%) có MĐX bình  thường; 70 (34%) thiếu xương, và 23 (11,2%) loãng xương. Các  yếu tố nguy cơ loãng xương được báo cáo trong bảng 1 dưới đây:  Yếu tố nguy cơ loãng xương  Yếu tố OR 95%CI P Tuổi (+1) 1,15  1,07 – 1,23 
  13. 11 sinh, thời gian sau mãn kinh, và tiền sử  gãy xương trong gia đình.  Chẳng hạn như    mỗi năm tăng tuổi có liên quan đến 15% (tỷ  số  chênh 1,15; khoảng tin cậy 95% từ 1,07 đến 1,23) tăng odds loãng  xương. Tiền sử gãy xương trong gia đình có mức độ  tác động lớn   nhất đến nguy cơ gãy xương.  Trong số  206  đối  tượng, có 30 đối  tượng có tiền sử  gãy   xương. Tỷ  lệ  tiền sử  gãy xương là 14,6% (khoảng tin cậy 95%:   10,4 đến 20%). Phân tích đơn biến phát hiện các yếu tố  có liên  quan đến tiền sử gãy xương (có ý nghĩa thống kê): loãng xương, vô   sinh, tiền sử té ngã, và tiền sử gãy xương trong gia đình.  Bảng 3.27. Mối liên quan giữa tiền sử gãy xương và loãng  xương Tiền sử GX Tiền sử không GX OR, p Nhóm Số  Số  loãng xương Tỷ lệ % Tỷ lệ % lượng lượng Loãng xương 12 40,0 11 6,25 10,0   (3,86   –  (n= 23) 25,9) Không loãng  P 
  14. 12 Bảng   3.31.     Mối   liên   quan   giữa   tiền   sử   gãy   xương   và   không sinh con Tiền sử GX Tiền   sử   không  OR, p Tình trạng  GX sinh con Số  Tỷ   lệ Số  Tỷ   lệ   lượng % lượng % Không  sinh con 7 23,3 14 8,0 OR=3,52 (n= 21) (1,26­9,8)  Có con p
  15. 13 Bảng 3.35. Mối liên quan gãy xương và tiền sử gia đình gãy  xương Tiền sử gia  Tiền sử GX Tiền sử không GX OR, p đình GX Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Có tiền sử  OR=6,83 gia đình GX 10 33,3 12 6,8 (2,49­18,7)  (n=22 ) P=0,001 Không GX 20 66,7 164 93,2 (n=184) Tổng  30 100 176 100 (n=206) Tuy nhiên, phân tích hồi qui logistic đa biến cho thấy sau khi điều  chỉnh cho tất cả  các yếu tố  trong mô hình, chỉ  có loãng xương là  yếu tố độc lập. Theo đó, đối tượng loãng xương có tỷ  số chênh là  6,83 (khoảng tin cậy 95% từ 1,71 đến 23,0). 
  16. 14 Bảng 3.36. Phân tích hồi qui đa biến giữa tiền sử gãy xương và  các yếu tố nguy cơ. Yếu tố OR 95%CI P Tuổi ≥ 60 2,85 0,29­27,56 0,37 BMI  10 năm 0,46 0,12­1,74       0,26 Tiền sử té ngã 1,12 0,43­3,72       0,85 Tiền sử gia đình có người gãy  2,48 0,80­10,74       0,19 xương
  17. 15 Hệ số tương quan r=0,70;  p
  18. 16 Kết quả phân tích mô hình tiên lượng FRAX và Garvan cho  thấy hệ số tương quan giữa hai mô hình là r = 0,7, và có ý nghĩa  thống kê (P 20%, mô  hình FRAX không phát hiện đối tượng có nguy cơ cao, nhưng mô  hình Garvan phát hiện 10,2% (n = 21). Dùng ngưỡng xác suất gãy  xương đùi >3%, mô hình FRAX phát hiện 7,3% (n = 15) đối tượng  có nguy cơ cao, nhưng mô hình Garvan phát hiện 59,2% (n = 122)  có nguy cơ cao. Bảng 3.41.  So sánh chỉ  định điều trị  loãng xương và nguy cơ  cao dựa vào giá trị tiên lượng gãy xương đùi . Giá trị tiên   Tổng số Loãng xương p lượng (n = 206) (n = 23) GX đùi FRAX ≥ 3% 15 (7,3%) 14 (60,9%) p
  19. 17 cao, nhưng Garvan nhận dạng được 27 đối tượng (90%). Trong số  23 đối tượng loãng xương (tức chỉ  định điều trị), mô hình FRAX  nhận dạng được 14 đối tượng (60,9%) và Garvan nhận dạng 23   (100%) có nguy cơ  cao. Do đó, mô hình Garvan phù hợp với chỉ  định điều trị hơn mô hình FRAX.                  BÀN LUẬN Loãng xương và hệ  quả  gãy xương là một gánh nặng y tế  công cộng trong cộng đồng, đặc biệt là ở phụ nữ mãn kinh và nam   giới cao tuổi. Loãng xương là một căn bệnh diễn biến "âm thầm",   không có triệu chứng cụ  thể, nên việc nhận dạng đối tượng có  nguy cơ cao là một khó khăn trong thực tế lâm sàng. Để nhận dạng   đối tượng có nguy cơ cao, hiểu biết về mối liên quan giữa các yếu   tố  nguy cơ  và loãng xương (và gãy xương) là một điều kiện quan   trọng. Hiện nay, trong chuyên ngành loãng xương có hai mô hình  phổ  biến, FRAX và Garvan, có thể  sử  dụng để  đánh giá nguy cơ  gãy xương cho một cá nhân dựa vào các yếu tố nguy cơ, và qua đó   có thể  nhận dạng các đối tượng cần được can thiệp. Tuy nhiên,  nghiên cứu về  sự  tương đồng giữa hai mô hình, và tương đồng   giữa giá trị tiên lượng và chỉ định điều trị ở Việt Nam vẫn còn rất  ít. Nghiên cứu này được thực hiện trên 206 phụ  nữ  mãn kinh cung  cấp 4 thông tin mới như sau:  + Tỷ  lệ  loãng xương và thiếu xương  ở  những phụ  nữ  mãn   kinh là ~45%;  + Các yếu tố  có liên quan đến loãng xương   bao gồm   cao  tuổi, BMI thấp, vô sinh, và tiền sử gãy xương trong gia đình; + Tuy nhiên, khi phân tích với tiền sử  gãy xương, chỉ  có  loãng xương (mật độ xương thấp) là yếu tố nguy cơ độc lập; 
  20. 18 + Mô hình Garvan nhận dạng gần 60% đối tượng có nguy cơ  gãy xương cao. Mô hình Garvan có giá trị  tiên lượng phù hợp với  chỉ định điều trị lâm sàng hơn mô hình FRAX.  Những thông tin mới từ  nghiên cứu này thể  hiện một đóng   góp vào y văn Việt Nam trong việc quản lí, điều trị và phòng ngừa   bệnh loãng xương ở qui mô cộng đồng.   Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào phụ nữ sau mãn kinh  (tuổi trung bình 66,8). Chúng tôi chọn đối tượng nghiên cứu là nữ  giới bởi vì nữ là đối tượng có nguy cơ loãng xương và gãy xương   cao hơn nam giới. Ở nhóm đối tượng này, chúng tôi phát hiện 11%  phụ  nữ  đang  ở  trong tình trạng loãng xương (chỉ  số T bằng hoặc   thấp hơn ­2.5). Tỷ  lệ  loãng xương trong nghiên cứu này có phần   khác biệt nhưng nằm trong khoảng trung bình so với các nghiên  cứu trước đây. Trong một nghiên cứu trên 504 phụ  nữ   ở  Hà Nội,  tác giả  Đặng Hồng Hoa và cộng sự  (2007) [3]  ước tính có 9,3%  phụ  nữ  loãng xương. Một nghiên cứu qui mô hơn (n = 2232) cũng  trên phụ nữ ở Hà Nội vào năm 2004 cho thấy tỷ lệ loãng xương là   15,4% [2]. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của tác giả Hồ  Phạm Thục Lan và cộng sự [4] trên 970 phụ nữ sau mãn kinh được   tuyển   chọn   ngẫu   nhiên   trong   cộng   đồng   cho   thấy   tỷ   lệ   loãng  xương 29%. Ngoài ra, nghiên cứu trên 988 phụ nữ ở Hà Nội (mẫu  trong   bệnh   viện)   phát   hiện   58,4%   loãng   xương   [79].   Tóm   lại,  những nghiên cứu vừa đề  cập chỉ  ra qui mô loãng xương trong  cộng đồng có thể  dao động từ  9% đến 29%, tuỳ  vào độ  tuổi và  phương pháp đo lường. Nghiên cứu của chúng tôi  ước tính tỷ  lệ  loãng xương 11,2% có thể xem là trung bình thấp so với các nghiên  cứu vừa điểm qua. 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2