intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Kequaidan2 Kequaidan2 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

111
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tìm hiểu thực trạng trẻ em khuyết tật vận động và thực trạng công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động; tiến hành áp dụng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em khuyết tật vận đông tại xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Công tác xã hội: Công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG TỪ THỊ DUYÊN - C00848 CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NHÓM TRẺ EM KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ HÀ HỒI, HUYỆN THƯỜNG TÍN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI HÀ NỘI - NĂM 2018
  2. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài: Trẻ em là tương lai của đất nước, trẻ khuyết tật vận động là trẻ khuyết tật bị giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động di chuyển, gặp khó khăn trong các vấn đề về cuộc sống. Đây là nhóm trẻ thiệt thòi gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động là một hoạt động chuyên nghiệp của công tác xã hội nhằm trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động giải quyết các vấn đề khó khăn mà các em đang gặp phải từ đó giúp các em phục hồi, phòng ngừa hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của các em để giúp các em hòa nhập xã hội, đồng thời thúc đẩy các điều kiện xã hội để các em tiếp cận được với chính sách, vận động kết nối nguồn lực và hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ tâm lý- xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản và quyền của các em để góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Là con người ai cũng có nhu cầu, mỗi người đều có những nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường rất đa dạng, phong phú và phát triển. Nhu cầu con người phản ánh mong muốn chủ quan hoặc khách quan tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa, nhận thức vị trí xã hội của họ. Trẻ em khuyết tật vận động cũng vậy các em cũng có nhu cầu như những trẻ em bình thường khác. Để tồn tại con người cần phải được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ bản cần cho sự sống như ăn, mặc, nhà ở và chăm sóc y tế… Trẻ em khuyết tật vận động cũng vậy các em cũng cần được vui chơi, cần được giúp đỡ, cần được đến trường học và tham gia các hình thức học tập. Không những thế các em còn cần được tôn trọng, có bạn bè và được yêu thương. Hơn nữa các em cũng cần được tham gia vào các hoạt động của cộng đồng. Trẻ em là hạnh phúc gia đình, là mầm non tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhiều thập kỷ qua, mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng, Nhà nước vẫn luôn quan tâm ưu tiên nguồn lực và thực hiện nhiều chủ 1
  3. trương, chính sách trợ giúp xã hội, bảo đảm các quyền của người khuyết tật và thúc đẩy sự tham gia của người khuyết tật vào đời sống xã hội. Rõ nhất là hệ thống luật pháp, chính sách đối với người khuyết tật ngày càng được hoàn thiện, ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội đã thông qua Luật Người khuyết tật và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011, các văn bản của Chính phủ đã quy định chi tiết và hướng dẫn thị hành một số điều của luật người khuyết tật gồm Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10 tháng 04 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của một số điều của Luật người khuyết tật, Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Các cấp ủy Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc tại địa phương và đơn vị thường xuyên quan tâm, tạo thuận lợi để phát huy năng lực và hỗ trợ trẻ em khuyết tật, trẻ mồ côi cùng với sự chung tay góp sức của toàn xã hội, sự sẻ chia, giúp đỡ của bè bạn quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều trẻ khuyết tật đang sống trong mặc cảm và gặp những trở ngại không nhỏ trong cuộc sống. Điều mà họ mong muốn là có được những cơ hội, điều kiện thuận lợi để vươn lên sống ý nghĩa và có ích cho xã hội. Các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề trợ giúp cho trẻ em khuyết tật nhưng các nghiên cứu đó mới chỉ tập trung vào đối tượng là trẻ em khuyết tật chung, khung pháp lý cho trẻ em khuyết tật, hỗ trợ dịch vụ xã hội cho trẻ em khuyết tật… chứ chưa làm rõ được những khó khăn, nhu cầu thực chất của từng loại khuyết tật, việc hướng dẫn và vận dụng những kỹ năng, phương pháp làm việc cá nhân trong công tác xã hội để trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động. Tuy nhiên, trên thực tế việc chăm sóc trẻ em khuyết tật vận động tại xã Hà Hồi còn gặp một số khó khăn bất cập về chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần. Trước thực trạng trên, trong những năm gần đây chính quyền, Đảng bộ các cấp và nhân dân trên địa bàn xã đã có nhiều cố gắng trong việc quan tâm, chăm lo mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần đối với người khuyết tật đặc biệt 2
  4. là trẻ em khuyết tật vận động và gia đình của họ bằng nhiều việc làm thiết thực như giúp gia đình họ vay vốn để phát triển kinh tế, phẫu thuật miễn phí, chăm sóc sức khỏe…và những việc làm này bước đầu nó đã mang màu sắc của công tác xã hội. Song, với điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, cộng thêm vào đó là các hoạt động trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động còn mang nặng tính hình thức. Bởi vậy, việc chăm sóc, giúp đỡ trẻ em khuyết tật vận động mới chỉ có thể đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của họ mà chưa thể đáp ứng những nhu cầu đa dạng khác. Từ đó, ta nhận thấy rằng đời sống của trẻ em khuyết tật vận động còn nhiều khó khăn mà các hoạt động công tác xã hội vẫn chưa hướng tới được vì vậy chúng ta cần phải nghiên cứu để đưa hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động vào địa phương, đồng thời thúc đẩy hoạt động này tại địa phương được tốt hơn. Từ những lý do trên tôi chọn đề tài: “Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà Hồi- huyện Thường Tín – thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của tôi. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục đích: Nghiên cứu lí luận, tìm hiểu thực trạng trẻ em khuyết tật vận động và thực trạng công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động. Tiến hành áp dụng công tác xã hội nhóm đối với trẻ em khuyết tật vận động tại xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động từ thực tiễn trên địa bàn xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. 2.2. Nhiệm vụ: Điểm luận những công trình nghiên cứu liên quan về trẻ em khuyết tật, trẻ khuyết tật vận động, công tác xã hội với trẻ khuyết tật vận động để làm cơ sở cho nghiên cứu đề tài. Phân tích, đánh giá thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động từ thực tiễn trên địa bàn xã Hà Hồi, 3
  5. huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Tiến hành áp dụng công tác xã hội nhóm đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Từ thực trạng đưa ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động từ thực tiễn trên địa bàn xã Hà Hồi. 3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 3.1. Nghiên cứu quốc tế Hiện nay, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều ấn phẩm được đề cập trên các báo, luận án, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đề cập đến vấn đề hỗ trợ cho người khuyết tật. Social work with disabled people (Thomas, 2012) – Công tác xã hội với người khuyết tật. Trong tài liệu này, tác giả đã trình bày những vấn đề tổng quan về người khuyết tật cũng như những mô hình và phương pháp can thiệp hiệu quả của công tác xã hội trong việc hỗ trợ người khuyết tật. Một điểm hay của tài liệu là các dạng khuyết tật được trình bày rõ ràng kết hợp với những phương pháp công tác xã hội phù hợp từ đó mang lại hiệu quả rõ nét hơn với từng nhóm người khuyết tật trong đó có trẻ khuyết tật vận động [35]. Social Work with Disabled Children – Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật (Kelly, 2005). Những phát triển mới về khuyết tật có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực công tác xã hội. Những phát triển lý thuyết này đã nhấn mạnh những giả định cá nhân và nghề nghiệp về khuyết tật có ý nghĩa quan trọng tới các nhà cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong việc ra các quyết định ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ khuyết tật. Nghiên cứu dựa trên kết quả từ một nghiên cứu về các dịch vụ hỗ trợ gia đình cho trẻ em khuyết tật ở Bắc Ailen để minh hoạ các vấn đề về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xã hội trong việc can thiệp và hỗ trợ trẻ khuyết tật. [36] Families with Children with Disabilities - Inequalities and the Social work Model – Gia đình trẻ khuyết tật – Sự bất bình đẳng và mô hình can thiệp công tác xã hội (Monica, 2010). Nghiên cứu cho thấy rằng các gia đình có trẻ 4
  6. khuyết tật trải qua hàng loạt những bất bình đẳng mà các gia đình có con không bị khuyết tật không bị ảnh hưởng. Kết quả nghiên cứu cho thấy cuộc sống của những gia đình này thường có những khó khăn về tài chính, căng thẳng và lo lắng do các rào cản xã hội, thành kiến và cung cấp dịch vụ kém. Mô hình công tác xã hội về người khuyết tật thường được rút ra để minh họa cho cách tổ chức và hỗ trợ các gia đình của trẻ khuyết tật một cách toàn diện. Bằng cách áp dụng mô hình này, những cách thức mới để tạo ra các thực tiễn và chính sách cho những gia đình này có thể được phát triển, kết hợp quan điểm của họ vào quá trình hoạch định chính sách [37]. Synnove Karvinen – Niinikoski, tác phẩm “Nhân quyền, quyền xã hội công dân và phương pháp cá nhân cùng tham gia trong công tác xã hội với người khuyết tật” [38], đã viết các cách thức của công tác xã hội đối với người khuyết tật có trong các tuyên bố nhân quyền hoặc được đưa vào các chương trình chính sách khuyết tật của Phần Lan. Tuy nhiên, trên thực tế người khuyết tật không thể thực hiện các quyền và tự do của họ hoặc thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình. Brenda Gannon and Brian Nolan (2011), Nghiên cứu khuyết tật hòa nhập xã hội ở Ieland, Brenda Gannon and Brian Nolan đã xem xét người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn khi hòa nhập xã hội, trong nghiên cứu đã thu thập trình độ học vấn, kinh tế và tham gia xã hội… Đồng thời chỉ ra mặc cảm tự ti là một trong những yếu tố cản trở người khuyết tật tham gia hòa nhập xã hội và cuộc sống hàng ngày. Đây chính là sự khác biệt giữa người khuyết tật và người bình thường trong việc tham gia hòa nhập cộng đồng. Thống kê các số liệu thu thập được để đánh giá mức độ nghèo, sự tham gia vào giáo dục, y tế, việc làm… của người khuyết tật. Nghiên cứu còn nhấn mạnh tới yếu tố người khuyết tật ảnh hưởng tới đời sống của mình, thiết kế nơi làm việc không phù hợp, sự kỳ thị của cộng đồng, sự tiếp cận các phương tiện đi lại gây khó khăn cho người khuyết tật [39]. Năm 2012, Benjamin Dieffenbach nghiên cứu về “Developmental 5
  7. Disabilities and Independent Living: A Systematic Literature Review (Khuyết tật Phát triển và sống độc lập: Tổng quan tài liệu)”. Nghiên cứu này cho tác giả thấy được người khuyết tật với cuộc sống bán độc lập sẽ có những trải nghiệm so với những người khuyết tật sống tại nhà theo cách truyền thống. Tác giả biết thêm được những lợi ích mà cuộc sống bán độc lập đem lại cho người khuyết tật là rất nhiều vượt xa so với việc phụ thuộc vào gia đình [40]. Năm 2014, đề tài nghiên cứu của nhóm tác giả: Natasha Ann Layton - Master of Health Science về: “Assistive technology solutions as mediators of equal outcomes for people living with disability”(Các giải pháp công nghệ giúp đỡ người khuyết tật). Qua bài nghiên cứu tác giả thấy được sự bình đẳng của người khuyết tật Úc qua đó có cái nhìn khách quan hơn về bình đẳng của người khuyết tật trong xã hội. [41] Trong phạm vi điểm luận các nghiên cứu, tôi nhận thấy những nghiên cứu ở trên chủ yếu nghiên cứu về những vấn đề những khó khăn, những chính sách, những hỗ trợ tài chính, hỗ trợ hoà nhập cộng đồng tránh kỳ thị…..cho người khuyết tật. Đây là những nghiên cứu hỗ trợ hướng nghiên cứu luận văn khi làm việc với trẻ khuyết tật tại xã Hà Hồi. 3.2. Tài liệu nghiên cứu trong nước Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật trong nhiều thập niên qua, Đảng nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ chương trinh sách và tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng cao đời sống cho trẻ em khuyết tật. Các ngành, các cấp luôn xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên xây dựng triển khai các kế hoạch của địa phương và các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt. Công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động là một vấn đề được quan tâm nhằm giúp cho các em có được điều kiện tốt nhất đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, học tập, nâng cao năng lực và phát huy được thế mạnh của bản thân, vượt qua mặc cảm tự ti để vươn lên trong cuộc sống cho nên vấn đề này được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong các khâu xây 6
  8. dựng, triển khai thì lại chưa gắn được các hoạt động trợ giúp của công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động vào thực tiễn Năm 2003, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội phối hợp với Qũy nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF). đã tiến hành một cuộc khảo sát chọn mẫu tại Việt Nam về tình hình trẻ em khuyết tật ở Việt Nam. Cuộc nghiên cứu khảo sát cũng đã cung cấp số liệu về trẻ em khuyết tật, tỷ lệ phổ biến của khuyết tật tại các vùng miền, đời sống, việc làm của các trẻ em khuyết tật … Qua những thông tin trên, cuộc khảo sát đã có cái nhìn khá cụ thể và đầy đủ về tình hình trẻ em khuyết tật tại Việt Nam [1]. Theo tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến (2005), “Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho Giáo dục hòa nhập ở Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục. Trong nghiên cứu này tác giả đã phân tích được những vấn đề về nguồn nhân lực trong phát triển và giáo dục hòa nhập ở Việt Nam đối với một số nhóm đối tượng đặc thù trong đó có trẻ em khuyết tật [34]; Tác giả Nguyễn Thị Bảo (2007), “Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đã chỉ ra những hạn chế về quyền của người khuyết tật trong một số khía cạnh mà chính sách đang có. Nghiên cứu cũng đề xuất được những giải pháp nhằm bổ sung những nội dung về luật pháp trong việc thực hiện quyền của người khuyết tật [06]; Nghiên cứu của Lê Văn Tạc (2007), “Giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật”, Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục. Tác giả đã tập trung phân tích các vấn đề về hòa nhập của người khuyết tật hiện nay. Tác giả chỉ ra được người khuyết tật đang gặp nhiều hạn chế trong việc hòa nhập khi xã hội còn những nhận định chưa đúng đắn về người khuyết tật và quan trọng hơn là bản thân người khuyết tật cũng còn tự kỳ thị mình khiến họ chưa chủ động tham gia vào quá trình hòa nhập [31] ; Nguyễn Ngọc Toản (2009). Trợ giúp xã hội cho cá nhân và hộ gia đình nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người khuyết tật. Tạp chí Lao động và Xã hội. 7
  9. Tác giả đã đánh giá và đưa ra được những khuyến nghị về các nội dung trợ giúp xã hội đối với cá nhân và các gia đình người khuyết tật. Nghiên cứu chỉ ra việc trợ giúp xã hội cần phải toàn diện và đặt người khuyết tật làm trọng tâm trong các hoạt động trợ giúp họ [29]; Đặng Thị Mỹ Phương (2012), “Dạy học trẻ khiếm thính tiểu học theo tiếp cận cá nhân để học hòa nhập”, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. Luận án đã chỉ ra những hoạt động trợ giúp cho trẻ em khiếm thính theo cách tiếp cận cá nhân để có thể hòa nhập tốt hơn trong quá trình học tập và phát triển [21]; Ngày 18/7/2015, Học viện Khoa học xã hội đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học với chủ đề: “Cơ sở lý luận và thực tiễn ngành công tác xã hội với người khuyết tật” do tác giả Hà Thị Thư trình bày. Trong bài thuyết trình của mình, diễn giả đã phân tích vai trò của nhân viên xã hội trong trợ giúp người khuyết tật, cụ thể: nhân viên xã hội có thể tham gia các chương trình can thiệp sớm cho người khuyết tật; chương trình giúp người khuyết tật trong hòa nhập giáo dục; tham gia vào việc phục hồi chức năng cho người khuyết tật dựa vào cộng đồng [28]. Tác giả Đỗ Thị Liên, Công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn thành phố Thanh Hóa, Học viện Khoa học xã hội. Luận văn đã đánh giá thực trạng hỗ trợ người khuyết tật tại thành phố Thanh Hóa và đưa những dịch vụ trợ giúp cho người khuyết tật tại đây, đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những đề xuất những giải pháp phù hợp để thực hiện quá trình trợ giúp cho người khuyết tật [14]. Trong nghiên cứu của Bùi Thị Huệ, (2011), “Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc giải quyết vấn đề của người khuyết tật”. Kết quả nghiên cứu chỉ ra nhân viên công tác xã hội có vai trò hết sức thiết thực và cụ thể hỗ trợ trực tiếp can thiệp giúp người khuyết tật phục hồi chức năng. Đồng thời, nhân viên công tác xã hội chính là cầu nối để người khuyết tật có thể tiếp cận được các chính sách và nguồn lực hỗ trợ từ xã hội. Hỗ trợ người khuyết tật, gia đình người khuyết tật giải quyết các vấn đề khó khăn của họ thông qua việc tìm kiếm 8
  10. cung cấp dịch vụ cần thiết cho người khuyết tật. Hỗ trợ về mặt tâm lý (hiểu được tâm lý của người khuyết tật, ảnh hưởng của sự khuyết tật đối với gia đình của người khuyết tật, tác động của sự khuyết tật đến vai trò và mối quan hệ của các thành viên trong gia đình, và cả những rắc rối cá nhân hay vấn đề xã hội khác). Phối hợp, Vận động tìm nguồn lực, nguồn tài nguyên hỗ trợ cho người khuyết tật, gia đình người khuyết tật [13]. Năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Thu đã thực hiện 1 nghiên cứu với chủ đề “Công tác xã hội nhóm đối với trẻ khuyết tật vận động từ thực tiễn trung tâm phục hồi chức năng và trợ giúp trẻ tàn tật tại thành phố Hồ Chí Minh”. Nghiên cứu đã đánh giá được những vấn đề cơ bản về thực trạng trẻ khuyết tật vận động và các hoạt động nhóm trong việc hỗ trợ trẻ khuyết tật vận động. Kết quả cho thấy nếu lựa chọn các hoạt động công tác xã hội nhóm phù hợp thì hiệu quả đạt được là rất tích cực [27] Các công trình nghiên cứu trên ít nhiều đã đề cập đến vấn đề hỗ trợ, giáo dục cho người khuyết tật dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn, nhưng chưa có công trình nào đề cập cụ thể đến vấn đề trợ giúp trực tiếp cho trẻ em khuyết tật vận động dưới góc nhìn của một nghề, một khoa học về công tác xã hội đối với việc trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động. Những công trình cũng chưa chỉ ra được vai trò, tầm quan trọng của công tác xã hội nhóm trong vấn đề trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động. Một điều đặc biệt quan trọng là hiện nay cũng chưa có tài liệu nghiên cứu nào thuộc lĩnh vực công tác xã hội nhóm trong việc trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà hồi, vì vậy, đề tài mà tôi lựa chọn ngoài việc kế thừa, chọn lọc từ các thành tựu đã có, đề tài đi sâu vào việc tìm hiểu hoạt động trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động tại Ủy ban nhân dân xã Hà Hồi dưới góc nhìn công tác xã hội. Từ đó, đề tài nhấn mạnh đến vai trò của công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ em khuyết tật vận động trong sinh hoạt, lao động và học tập. 4. Đóng góp mới của khóa luận 9
  11. Luận văn đã điểm luận các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề trẻ khuyết tật vận động. Luận văn đã tìm hiểu thực trạng thực hiện chính sách hiện hành đối với trẻ em khuyết tật ở cấp xã hiện nay, nhằm phân tích, dự báo nhu cầu trợ giúp xã hội với nhóm đối tượng này. Luận văn đã tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng về hiệu quả, bất cập hiện nay. Luận văn đã xác định các nhân tố ảnh hưởng việc thực hiện các chính sách trợ giúp đến người khuyết tật, trẻ em khuyết tật. Đồng thời, kiểm chứng sự tương quan giữa quy định của Đảng, Nhà nước với thực tiễn vận dụng thực hiện ở cấp xã. Luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách trợ giúp người khuyết tật, trẻ em khuyết tật vận động ở cấp xã. 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 5.1. Ý nghĩa khoa học Luận văn là nghiên cứu đầu tiên ở xã Hà Hồi nghiên cứu về hoạt động công tác xã hội đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động và có những đóng góp mới sau đây: - Điểm luận các nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt đọng công tác xã hội tại xã Hà Hồi. - Tiến hành công tác xã hội với một nhóm trẻ khuyết tật vận động. - Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện công tác xã hội và từ đó nâng cao nhận thức cả xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động. - 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nhỏ vào các nghiên cứu về công tác xã hội với trẻ bị khuyết tật, làm tài liệu tham khảo tham khảo cho các nghiên cứu sau này về lĩnh vực trẻ em khuyết tật, nhóm trẻ em khuyết tật vận động và chính sách chăm sóc sức khỏe cho trẻ em khuyết tật, khuyết tật vận động ở Việt Nam nói chung, xã Hà Hồi nói riêng. 6. Đối tượng nghiên cứu 10
  12. Công tác xã hội nhóm đối với nhóm trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã Hà Hồi. 7. Khách thể nghiên cứu - Làm nhóm với 05 trẻ bị khuyết tật vận động từ 6 đến đến 16 tuổi. Đây là lứa tuổi các em cắp sách tới trường đang phụ thuộc vào gia đình. Do cơ thể có nhiều khiếm khuyết, nên việc đáp ứng, tự đáp ứng nhu cầu của trẻ em khuyết tật vận động đang gặp rất nhiều khó khăn. Bởi hiện tại trẻ em khuyết tật vận động rất khó khăn về nhiều mặt trong đó có học tập, việc làm, kỳ thị… - Phỏng vấn điều tra 05 Cán bộ chính quyền địa phương gồm các ban ngành đoàn thể, cán bộ chính sách và cán bộ thôn, xóm. - Phỏng vấn điều tra 05 giáo viên ở các Trường có các em khuyết tật học, 05 gia đình trẻ em thuộc nghiên cứu, 05 người sống xung quanh những em khuyết tật cận điều tra. 8. Câu hỏi nghiên cứu - Thực trạng trẻ em khuyết tật hiện nay ở Hà Hồi như thế nào? Thực trạng công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động hiện nay như thế nào và tại xã Hà Hồi ra sao? - Công tác xã hội với nhóm trẻ em khuyết tật vận động tại xã Hà Hồi được triển khai như thế nào? - Những biện pháp nào sẽ hỗ trợ cho hoạt động công tác xã hội tại Hà Hồi được hiệu quả? 9. Giả thuyết nghiên cứu Trẻ em khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống sinh hoạt và học tập. Hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động còn chưa rõ nét. Nếu được áp dụng công tác xã hội chuyên nghiệp tại xã Hà Hồi thì việc hỗ trợ cho trẻ em khuyết tật vận động sẽ được hiệu quả hơn. 10. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung: Công tác xã hội nhóm đối với trẻ em khuyết tật vận động. - Địa bàn: tại xã Hà Hồi, Thường Tín, Hà Nội 11
  13. - Thời gian: Từ tháng 04/2018 đến 10/2018 11. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ những đánh giá thực trạng về đời sống của trẻ em khuyết tật vận động, thực trạng của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn rút ra được những lý luận và đưa ra được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động trên địa bàn xã. Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống tiếp cận chỉnh thể: nghiên cứu hệ thống những lý thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như dịch vụ hỗ trợ của công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động, hệ thống chính sách đối với trẻ em khuyết tật vận động... 11.1. Phương pháp phân tích tài liệu Là phương pháp sử dụng các kỹ thuật chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, tài liệu từ các nguồn tài liệu đã được công bố hoặc rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu tôi sử dụng phương pháp phân tích tài liệu: - Đọc và tìm hiểu các giáo trình, tài liệu có liên quan đến công tác xã hội như: Nhập môn công tác xã hội, Phát triển cộng đồng, Lý thuyết công tác xã hội… - Đọc, tìm hiểu và phân tích, đánh giá các tài liệu liên quan đến chính sách hỗ trợ đối với trẻ em khuyết tật vận động và các biện pháp can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ các em trên địa bàn xã Hà Hồi. 11.2. Phương pháp điều tra xã hội học Là phương pháp dựa trên hình thức hỏi đáp dựa trên bảng các câu hỏi được soạn thảo trước, điều tra viên tiến hành phỏng vấn trực tiếp, hướng dẫn thống nhất cách trả lời các câu hỏi, người được hỏi tự đọc các câu hỏi trong bảng hỏi rồi ghi cách trả lời của mình vào phiếu hỏi rồi gửi lại cho các điều tra viên. Với phương pháp này, đề tài sẽ phát bảng hỏi dành cho 10 trẻ em tại xã Hà Hồi để tìm hiểu, thu thập thông tin chung về thực trạng đời sống của trẻ em 12
  14. khuyết tật vận động như điều kiện về nhà ở, kinh tế gia đình, các nhu cầu của trẻ em khuyết tật vận động …, tìm hiểu về thực trạng hoạt động công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động như các hoạt động hỗ trợ xã hội, hỗ trợ các nguồn lực, hoạt động tuyên truyền… của cán bộ công tác xã hội đối với trẻ em khuyết tật vận động. 11.3. Phương pháp công tác xã hội Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu sâu sắc về các phản ứng, suy nghĩ, thái độ tình cảm, động cơ, quan điểm, chính kiến của các đối tượng được phỏng vấn đối với các vấn đề liên quan. Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu để tìm hiểu về đời sống, tâm tư nguyện vọng cũng như nhu cầu của trẻ em khuyết tật vận động và thuận lợi, khó khăn gặp phải của đội ngũ cán bộ khi thực hiện chính sách trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động tại xã Hà Hồi cụ thể phỏng vấn 01 cán bộ làm việc với trẻ em khuyết tật vận động, 02 cán bộ lãnh đạo ở địa phương, 05 trẻ em khuyết tật vận động. Quan sát thu thập thông tin của nghiên cứu thông qua các tri giác như nghe, nhìn, …để thu thập các thông tin từ thực tế xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp quan sát để tìm hiểu sâu hơn về thực trạng đời sống của trẻ em khuyết tật vận động tại xã Hà Hồi. 13
  15. PHẦN II: NỘI DUNG Chương 1: PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LÝ THUYẾT ÁP DỤNG TRONG CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NHÓM TRẺ EM KHUYẾT TẬT VẬN ĐỘNG. 1. Khái niệm nghiên cứu: 1.1. Khái niệm trẻ em: Theo quan điểm của một số tổ chức quốc tế trực thuộc Liên hiệp quốc như Quỹ Dân số (UNFPA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (UNESCO) xác định trẻ em là người dưới 15 tuổi. Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em của Liên hiệp quốc công bố năm 1989 xác định “Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi sớm hơn”. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi vận dụng khái niệm trẻ em theo Luật Trẻ em vừa được kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 5/4/2016 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2017. Tại điều 1 của Luật trẻ định nghĩa rằng “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” (Luật trẻ em, 2016). 1.2. Khái niệm Người khuyết tật: - Theo Công ước Quốc tế về các quyền của người khuyết tật, Đại hội đồng Liên hợp quốc, 2006 nêu rõ “ người khuyết tật (people with disabilities) bao gồm những người có những khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội”; - Theo Luật người khuyết tật được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 17/6/2010 “người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc vài bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. - Khái niệm “người khuyết tật vận động”: Là những người bị khuyết tật ở 14
  16. cơ quan vận động (cơ, xương, khớp, thần kinh ngoại vi) những khuyết tật trên làm cho người khuyết tật khó khăn trong việc đi đứng làm việc như: + Mất đoạn, biến dạng, lệch trục chi thể sau chấn thương, vết thương. + Dính khớp, biến dạng khớp do di chứng các bệnh lý khớp. + Dị dạng bẩm sinh: bàn chân khèo, trật khớp hang bẩm sinh, gai đôi…. + Bại, Liệt trong di chứng bại não, bại liệt, liệt dây thần kinh ngoại vi, viêm não màng não, tủy sống, tai biến mạch não. + Teo cơ, cứng khớp ở những bệnh nhân bị bệnh mãn tính phải nằm lâu ngày ở một tư thế. 1.3. Khái niệm “Trẻ em khuyết tật”: Theo Điều 2 của luật người khuyết tật thông qua ngày 17/06/2010, Trẻ em khuyêt tật là trẻ có khiếm khuyết về cấu trúc, sai lệch về chức năng dẫn đến gặp khó khăn nhất định trong hoạt động cá nhân, hoạt động xã hội và học tập theo chương trình giáo dục phổ thông. Sự thiếu hụt về cấu trúc và hạn chế về chức năng ở trẻ khuyết tật biểu hiện ở nhiều mức độ khác nhau; 1.4. Khái niệm Trẻ em khuyết tật vận động Trẻ khuyết tật vận động là những trẻ do các nguyên nhân khác nhau gây ra sự tổn thất các chức năng vận động làm cản trở đến việc di chuyển, sinh hoạt và học tập. Trẻ khuyết tật vận động có thể phân ra làm hai dạng: - Trẻ bị hội chứng não nặng dẫn đến khuyết tật vận động. Những trẻ thuộc loại này thường là trẻ gặp rất nhiều khó khăn trong học tập. - Trẻ khuyết tật vận động do chấn thương nhẹ hay do bênh bại liệt gây ra làm khoèo, liệt chân, tay,... nhưng não bộ của trẻ vẫn bình thường, trẻ vẫn học tập tốt, chỉ cần giúp trẻ các phương tiện tới trường. Ngay từ lúc nhỏ nếu trẻ được rèn luyện và phát triển các chức năng vận động vẫn có thể cho kết quả phục hồi nhanh chóng. 1.4.1. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu của trẻ em khuyết tật vận động * Đặc điểm tâm lý của trẻ em khuyết tật vận động: Tâm lý của khá đông trẻ em khuyết tật nói chung và trẻ em khuyết tật vận 15
  17. động nói riêng là mặc cảm, tự đánh giá thấp bản thân mình so với những người bình thường khác. * Nhu cầu của trẻ khuyết tật vận động: Mỗi người đều có nhu cầu nhất định để tồn tại và phát triển. Đó là những nhu cầu về vật chất và tinh thần, nó được phát sinh bởi nhiều yếu tố, kích thích. Các nhân tố kích thích nhu cầu đó là đòi hỏi những cá nhân về những cái cần thiết để tồn tại và phát triển. Chẳng hạn như cảm giác đói khát muốn có cái gì đó để ăn mặc hoặc giảm bớt đi cơn khát. Nhu cầu có thể trở thành động cơ thúc đẩy con người hành động các kích thích bên ngoài. Mọi trẻ em khuyết tật vận động lớn lên cũng có những nhu cầu giống như những đứa trẻ khác. Trẻ em khuyết tật vận động cũng có nhu cầu ăn, mặc, ở, vui chơi học hành… trẻ khuyết tật vận động và trẻ bình thường đều có những nhu cầu như nhau: nhu cầu của loài người. 1.4.2. Một số điểm cần chú ý khi làm việc và trợ giúp cho trẻ em khuyết tật vận động: Khi làm việc hay trợ giúp trẻ em khuyết tật vận động cần chú ý nói chuyện một cách tôn trọng với những trẻ em khuyết tật nói chung hay trẻ em khuyết tật vận động nói riêng, việc tránh dùng những lời lẽ miệt thị là rất quan trọng. Trẻ em khuyết tật vận động cũng có cảm xúc, cũng muốn được vui chơi, được yêu thương gia đình, cũng có sở thích của riêng mình. Bằng cách này, các em sẽ cảm thấy mình và người đó cũng giống nhau, không mang tâm lý bị kì thị, phân biệt. Trẻ em khuyết tật vận động cần nhiều sự hỗ trợ từ các phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe lắc, nạng và cả người trợ giúp đối với trẻ em khuyết tật nặng. Với trẻ em khuyết tật vận động dạng nhẹ, khuyết tật tay, một bên chân… các em có thể tự mình di chuyển chậm với sự hỗ trợ của nạng, các dụng cụ tự chế hay bất kỳ thứ gì có thể giúp họ di chuyển được. Những em liệt hai chân thì cần đến xe lăn, xe điện. Với những em liệt nửa người, thậm chí là toàn thân, ngoài xe lăn thì cần có một người trợ giúp luôn túc trực để giúp các em giải quyết các vấn đề, kể cả vệ sinh cá nhân trong quá trình học tập, giao lưu, hòa nhập. Đây là một vấn 16
  18. đề quan trọng để khi giao tiếp với trẻ em khuyết tật vận động cần có thái độ gần gũi, cởi mở, lắng nghe, tôn trọng và chấp nhận đối tượng. Với trẻ em bị khuyết tật vận động bẩm sinh, người bị khuyết tật do tai nạn, rất cần được can thiệp về y học, phục hồi chức năng mang tính chuyên khoa sâu, đồng bộ và lâu dài và bắt đầu sớm. Vì vậy cần phải xác định mục tiêu trong công tác xã hội với trẻ em khuyết tật vận động và gia đình các em trong việc chăm sóc, phục hồi chức năng, hỗ trợ tâm lý, vận động và kết nối nguồn lực, hỗ trợ tiếp cận chính sách cho trẻ em khuyết tật vận động. 1.5. Khái niệm công tác xã hội Có nhiều khái niệm về công tác xã hội được đưa ra ở các góc độ khác nhau: Hiệp hội công tác xã hội quốc tế và các trường đào tạo công tác xã hội quốc tế (2011) thống nhất một định nghĩa về công tác xã hội như sau: Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. công tác xã hội sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với môi trường sống. Theo IFSW (Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Quốc tế), Tháng 07/2000, Montreal, Canada: "Công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, công tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề". Theo từ điển Bách khoa ngành công tác xã hội (1995) có ghi “Công tác xã hội là một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”. Công tác xã hội ở Việt Nam cũng được các tác giả xem xét từ những khía 17
  19. cạnh khác nhau điển hình có tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng: “Công tác xã hội là hoạt động thực tiễn, mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc, phương pháp hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. Công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội”. Công tác xã hội tại Việt Nam cũng được xem như là sự vận dụng các lý thuyết khoa học về hành vi con người, về hệ thống xã hội nhằm khôi phục lại các chức năng xã hội và thúc đẩy sự thay đổi vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế hướng tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đây là lĩnh vực cung cấp các dịch vụ chuyên môn góp phần giải quyết những vấn đề xã hội liên quan tới con người để thỏa mãn những nhu cầu căn bản, mặt khác góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai trò xã hội của mình.Và như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất theo như định nghĩa của tác giả Bùi Thị Xuân Mai:“Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội, góp phần đảm bảo an sinh xã hội”. 1.6. Công tác xã hội nhóm Theo các tác giả Toseland và Rivas (1998) có nhiều cách tiếp cận với công tác xã hội nhóm và mỗi cách tiếp cận có những điểm mạnh và những ứng dụng thực hành cụ thể. Vì vậy, các tác giả này đưa ra một định nghĩa bao quát được bản chất của công tác xã hội nhóm và tổng hợp những điểm riêng biệt của các cách tiếp cận với công tác xã hội nhóm như sau: “công tác xã hội nhóm là hoạt động có mục đích với các nhóm nhiệm vụ và trị liệu nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu về tình cảm xã hội và hoàn thành nhiệm vụ. Hoạt động này hướng trực tiếp tới cá nhân các thành viên trong nhóm và tới toàn thể nhóm trong một hệ thống cung cấp dịch vụ”. Hoạt động có mục đích được các tác giả này nhấn mạnh là hoạt động có kế hoạch đúng trật tự, hướng tới nhiều mục đích khác nhau, ví dụ 18
  20. như để hỗ trợ hay giáo dục nhóm giúp các thành viên trong nhóm giao tiếp và phát triển cá nhân. Định nghĩa này cũng nhấn mạnh hoạt động có định hướng không chỉ với cá nhân thành viên trong nhóm mà với cả toàn thể nhóm. Trong từ điển công tác xã hội của Barker (1995), công tác xã hội nhóm được định nghĩa là: “Một định hướng và phương pháp can thiệp công tác xã hội, trong đó các thành viên chia sẻ những mối quan tâm và những vấn đề chung họp mặt thường xuyên và tham gia vào các hoạt động đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể. Đối lập với trị liệu tâm lý nhóm, mục tiêu công tác xã hội nhóm không chỉ là trị liệu những vấn đề về tâm lý, tình cảm mà còn là trao đổi thông tin, phát triển kỹ năng xã hội và lao động, thay đổi các định hướng giá trị và làm chuyển biến các hành vi chống lại xã hội thành các nguồn lực hiệu quả. Các kỹ thuật can thiệp đều được đưa vào quá trình công tác xã hội nhóm nhưng không hạn chế kiểm soát những trao đổi về trị liệu”. Tác giả Nguyễn Thị Oanh (1998) đưa ra khái niệm trị liệu nhóm mô tả rõ nét hơn thân chủ và yêu cầu của cán bộ chuyên môn trong trị liệu nhóm. Theo tác giả, trị liệu nhóm nhằm trị liệu cá nhân các bệnh tâm thần, những người bị rối loạn, ức chế tâm lý khá sâu. Mối tương tác giữa bệnh nhân được dùng để hỗ trợ quá trình trị liệu, nhưng công tác này đòi hỏi kiến thức chuyên sâu về tâm lý, tâm lý trị liệu và tâm thần học. Theo tác giả Nguyễn Thị Thái Lan (2008), công tác xã hội nhóm tập trung vào một nhóm thân chủ không chỉ là cá nhân thân chủ. Phương thức và cách tiếp cận của công tác xã hội nhóm là làm việc với thân chủ khác với làm việc cho thân chủ. Các hoạt động tập thể thể hiện trong tiến trình Công tác xã hội nhóm khác với nhân viên xã hội làm việc theo phương thức một - một với cá nhân. Công tác xã hội nhóm đặt trọng tâm vào sự phát triển của cá nhân và xã hội, đặc biệt là những đóng góp của xã hội với các thân chủ. Nhìn chung, cách tiếp cận này được nhìn nhận trên quan điểm mở hơn, mang tính hệ thống và theo quan điểm sinh thái hơn, không chỉ tập trung vào những vấn đề của cá nhân. Vậy, Công tác xã hội nhóm là phương pháp trong Công tác xã hội nhằm 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2