intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn: Tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần" đi sâu phân tích những tư tưởng biện chứng của các thiền sư và thiền phái trong Phật giáo thời Lý – Trần nhằm khẳng định giá trị của những tư tưởng đó trong Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong văn hóa Việt Nam nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn: Tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG NGUYỄN THỊ THU HÀ TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.80 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng – Năm 2014
  2. Công trình được hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu Phản biện 1: TS. Trần Hồng Lưu Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn, họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 06 tháng 01 năm 2014. Có thể tìm luận văn tại: - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Kinh Tế, Đại học Đà Nẵng
  3. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo lớn nhất trên thế giới, có lịch sử phát triển lâu đời cùng với hệ thống giáo lý đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo khắp thế giới. Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VI trước Công nguyên. Đây là thời kỳ xã hội Ấn Độ diễn ra sự phân chia đẳng cấp và mâu thuẫn giữa các đẳng cấp rất sâu sắc. Cùng thời điểm này Ấn Độ đã và đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu tranh giữa các tôn giáo, bởi lẽ bên cạnh sự thống trị của đạo Bà la môn còn có sự hiện diện của Phật đà giáo và một số giáo phái khác, đồng thời tư tưởng duy vật thô sơ và tư duy biện chứng đã xuất hiện. Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là khổ, hai là sự giải thoát ra khỏi khổ ấy. Khổ là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì khỏi khổ, mà muốn thoát khỏi vòng luân hồi thì phải bỏ hết tham, sân, si. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con người mới chứng được trạng thái Niết bàn, Cực lạc. Ở Việt Nam, Phật giáo cũng có lịch sử lâu đời, đồng hành cùng với lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng Phật giáo vào Việt Nam vào thế kỷ I với trung tâm Phật giáo nổi tiếng là Luy Lâu. Trải qua quá trình hình thành và phát triển những tư tưởng của Phật giáo được nhân dân Việt Nam tiếp thu và Việt hóa. Đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường xâm lược, không phải do sự cưỡng chế mà thông qua đường giao thương buôn bán. Đạo Phật đến bằng con đường hòa bình, những giáo lý của đạo Phật về bình đẳng, bác ái, cứu khổ cứu
  4. 2 nạn…gần gũi với cư dân Việt Nam do đó dễ được chấp nhận. Mặt khác thời kỳ này còn có các tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, đạo Lão được Trung Quốc truyền vào, tuy nhiên các tín ngưỡng, tôn giáo đó còn có nhiều mặt khuyết thiếu đối với đời sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt đấy. Vì vậy đạo Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa cùng các tín ngưỡng, tôn giáo khác. Phật giáo được truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên không do áp đặt của chính quyền, cả khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo. Sự tồn tại lâu dài của Phật giáo trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đã đem lại những đóng góp đáng kể cho văn hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị trong tiến trình lịch sử Việt Nam, đặc biệt là ở thời Lý -Trần - thời kỳ phát triển đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam. Mặc dù tiếp thu và chịu ảnh hưởng của cả Phật giáo từ Ấn Độ và Trung Hoa nhưng với tinh thần độc lập tự chủ các nhà sư Lý- Trần đã sáng lập ra những thiền phái đậm màu sắc Việt Nam như thiền phái Thảo Đường và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử… Thời kỳ này cũng xuất hiện các thiền sư xuất chúng của Phật giáo Việt Nam như: Thảo Đường, Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang… Vì vậy những tư tưởng của Phật giáo trong thời kỳ này vừa là sự kế thừa tư tưởng của Phật giáo Ấn, Trung vừa mang những nét đặc trưng của tư tưởng Việt Nam. Phật giáo thời Lý – Trần đã kế thừa tư duy biện chứng của Phật giáo khi bàn đến các vấn đề như vô thường, vô ngã, luân hồi nghiệp báo, giải thoát…Tuy
  5. 3 nhiên nếu Phật giáo bàn đến những vấn đề đó với tinh thần xuất thế thì Phật giáo thời Lý – Trần bàn đến nó bằng tinh thần nhập thế, chính vì vậy nó có ảnh hưởng to lớn đối với tư tưởng và hành động của con người Việt Nam lúc bấy giờ. Điều đó góp phần tạo nên nét đặc sắc của Phật giáo thời Lý – Trần – giai đoạn cực thịnh của Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài đi sâu phân tích những tư tưởng biện chứng của các thiền sư và thiền phái trong Phật giáo thời Lý – Trần nhằm khẳng định giá trị của những tư tưởng đó trong Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong văn hóa Việt Nam nói chung. Để thực hiện được mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ: - Thứ nhất: Trình bày và phân tích được những tiền đề kinh tế - xã hội, tiền đề tư tưởng lý luận hình thành tư tưởng biện chứng của Phật giáo thời Lý – Trần. - Thứ hai: Trình bày và phân tích được nội dung cơ bản của những tư tưởng biện chứng trong Phật giáo thời Lý – Trần. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu những tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần. - Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi của luận văn, đề tài chỉ đi sâu phân tích một
  6. 4 tư tưởng mang tính biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần đó là: - Tư tưởng vô thường - Tư tưởng về mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng - Tư tưởng về nhân quả, luân hồi nghiệp báo - Tư tưởng giải thoát 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: sử học, hệ thống hóa, lôgic và lịch sử, so sánh và đối chiếu, phân tích, tổng hợp. Luận văn chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ lịch sử triết học. 5. Bố cục đề tài Ngoài phần Mở đầu, kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được trình bày thành 2 chương: Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng biện chứng của Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần 1.1. Cơ sở lý luận 1.2. Cơ sở thực tiễn Chương 2: Nội dung tư tưởng biện chứng của Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần 2.1. Triết lý vô thường 2.2. Quan niệm về mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng 2.3. Quan niệm về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi 2.4. Quan niệm về giải thoát
  7. 5 6. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo ở giai đoạn Lý – Trần luôn thu hút sự quan tâm đầu tư của nhiều tác giả trong nước. Hàng loạt những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo Việt Nam thời Lý – Trần nói riêng, đã ra đời mà điển hình là một số công trình sau đây: Trước hết là các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam dưới góc độ tư tưởng văn hóa, tôn giáo mà tiêu biểu là các tác phẩm: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (3 tập) của Nguyễn Lang, Nxb Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 2000; “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do PGS. Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,1993; “Lược sử Phật giáo Việt Nam” của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, 1993; Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993; Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (3 tập) của Lê Mạnh Phát, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2002; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999; Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1989; Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966;… Các tác phẩm kể trên đã trình bày, phân tích sâu sắc tiến trình lịch sử và đặc điểm của Phật giáo Việt Nam, đặc điểm, vai trò, vị trí của Phật giáo thời Lý - Trần trong tiến trình phát triển của Phật giáo dân tộc cũng như trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Thứ hai là các tác phẩm nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam và Phật giáo thời Lý - Trần dưới góc độ tư tưởng triết học, như các tác phẩm: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, của Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 1993; Đại cương triết học Phật giáo
  8. 6 Việt Nam, tập 1 từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Đại cương lịch sử triết học Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2010; Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002; Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, do Doãn Chính - Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2006. Các công trình trên đã khái quát, hệ thống hóa vai trò của Phật giáo Việt Nam nói chung, Phật giáo thời Lý - Trần nói riêng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong cuốn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” do PGS. Nguyễn Tài Thư chủ biên, khi trình bày về lịch sử tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, cuốn sách đã có hẳn một chương để viết về Phật giáo và triết học của Thiền sư. Trong phần này, có tác giả dành sự quan tâm nhiều hơn đến việc trình bày những tư tưởng triết học của các thiền sư thời Lý - Trần. Đặc biệt trong tác phẩm Đại cương lịch sử triết học Việt Nam tác giả Nguyễn Hùng Hậu đã dành một phần viết về tư tưởng triết học Việt Nam trong thời kỳ phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập (thế kỷ X - XIV) trong đó tư tưởng triết học Phật giáo thời Lý - Trần là một nội dung quan trọng. Trong phần V của tác phẩm này, tác giả Nguyễn Hùng Hậu đã trình bày một cách hệ thống về điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý - Trần - tiền đề cho sự hình thành tư tưởng triết học Phật giáo thời kỳ này, nội dung tư tưởng triết học của các thiền sư và thiền phái thời Lý - Trần, bước đầu đánh giá những giá trị và hạn chế của các tư tưởng đó trong
  9. 7 lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Ngoài ra, trên một số tạp chí nghiên cứu điển hình là Tạp chí Triết học cũng có một số bài nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam, chẳng hạn bài Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão trong lịch sử tư tưởng Việt Nam của tác giả Nguyễn Tài Thư đăng trên Tạp chí Triết học số 1-1982, bài “Thử bàn về một số tư tưởng Phật giáo” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu đăng trên Tạp chí Triết học số 143- 1989… Các công trình trên thực sự là những tài liệu bổ ích cho những người nghiên cứu về lịch sử triết học Việt Nam nói chung và triết học Phật giáo Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên do mục đích, phạm vi nghiên cứu của mỗi công trình là khác nhau nên chưa có công trình nào riêng biệt bàn về tư tưởng biện chứng trong Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần. Kế thừa những thành quả trên, trong luận văn của mình, tôi muốn đi sâu tìm hiểu và trình bày một cách có hệ thống những tư tưởng mang tính biện chứng trong Phật giáo thời Lý - Trần. Từ đó khẳng định giá trị của những tư tưởng đó trong Phật giáo Lý – Trần nói riêng, trong lịch sử triết học Phật giáo Việt Nam nói chung.
  10. 8 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1.Tư tưởng biện chứng của Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo vô thần, không quan niệm về đấng sáng tạo ra thế giới. Về mặt triết học, Phật giáo có nhiều tư tưởng mang tính duy vật và tính biện chứng sơ khai. Điều đó được thể hiện trong một số nội dung cơ bản sau: a. Tư tưởng vô thường, vô ngã Vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh là một trong ba nguyên lý cơ bản của Phật giáo. Vô thường theo Phật giáo được hiểu là một biện chứng pháp nói lên được tính chất của mọi sự vật hiện tượng là luôn vận động, biến đổi. Vô thường, không nên hiểu một cách hạn chế là sự thay đổi vị trí trong không gian, mà cần phải hiểu theo nghĩa chung nhất của nó là vận động hay biến đổi. Điều đó được thể hiện trong cách nhìn nhận về thế giới của Phật giáo. Trước hết trong quan điểm về thế giới, Phật giáo cho rằng thế giới chỉ là một dòng biến ảo vô thường, không do một vị thần nào sáng tạo ra cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới (vạn vật nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp (mỗi một sự vật hiện tượng, hay một lớp các sự vật hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Tác phẩm “thanh dung thực luận” của kinh phật viết: có người cố chấp có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc
  11. 9 nào cũng thường định ra chu pháp, đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi phối bởi luật nhân quả, biến hóa vô thường, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn. Do vậy trong thế giới không có gì là thường hằng, bất biến hay là vô thường. Có hai loại vô thường: Sátna vô thường chỉ sự biến hóa trong từng sátna (đơn vị thời gian của nhà Phật, một ngày 24 giờ có 6.499.99.980.000.000 sát-na (kṣaṇas) và tương tục vô thường (hay còn gọi là sanh diệt vô thường) chỉ trong một chu kỳ có bốn tướng sinh trụ dị diệt nối tiếp nhau. Theo tư tưởng nghiệp báo luân hồi của Phật giáo thì trong cuộc đời, con người phải chịu hậu quả của kiếp sống này và từ kiếp trước, sang kiếp sau. Nghiệp báo trong cuộc đời con người là do nghiệp gây ra ở kiếp trước, kiếp này và nó quyết định kiếp sau tốt hay xấu. Tóm lại, theo triết lý Phật giáo, đã tạo nghiệp, đã gieo nhân tất phải gặp quả, có thể ở lúc này, nơi khác hay lúc khác, nơi khác, ở hiện tại hay trong tương lai. b. Thuyết nhân duyên, luân hồi nghiệp báo Theo triết lý Phật giáo sở dĩ mọi vật trong thế giới đều biến hóa vô thường bởi vì chúng đều chịu sự chi phối của luật nhân quả. Trong học thuyết nhân quả có ba khái niệm chủ yếu là: nhân (hetu), duyên (pratitya) và quả (phala). Nhân là cái phát động ra ở vật, làm cho nó biến đổi, gây ra một hay nhiều kết quả. Cái được tập kết lại bởi một hay nhiều nhân được gọi là quả. Duyên là điều kiện, là mối liên hệ hay trợ giúp cho nhân biến thành quả. Duyên không chỉ là một cái gì đó xác định mà còn là điều kiện, sự tương hợp tương sinh nói chung giúp cho vạn pháp sinh thành, biến đổi. Ví dụ: Hạt
  12. 10 lúa cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành. Hạt lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những nhân tố đó chính là duyên. Vũ trụ nhân sinh luôn chuyển biến vận hành trong mọi thời khắc. Ngay cả bản thân chúng ta, hoạt động tâm lý và tất cả các pháp đang chuyển biến liên tục, không dừng trụ dầu chỉ một sát-na. Quá khứ, hiện tại và vị lai luôn chuyển biến theo chiều hướng nhân quả. Nhân quả cũng tức là vô thường, là chiều thời gian chuyển biến liên tục trong tự thân của vật thể và trong hoạt động tâm lý của con người. Vũ trụ nhân sinh chuyển biến vận hành theo một quy luật chung, đó là luật nhân quả. Nó vận hành một cách âm thầm nhưng chi phối cả đời sống vật chất và tinh thần của con người. Tóm lại, theo triết lý Phật giáo, đã tạo nghiệp, đã gieo nhân tất phải gặp quả, có thể ở lúc này, nơi khác hay lúc khác, nơi khác, ở hiện tại hay trong tương lai. 1.1.2. Tư tưởng của Phật giáo thời Lý-Trần Những tư tưởng biện chứng trong Phật giáo thời Lý - Trần còn được bắt nguồn và nuôi dưỡng trong hệ thống tư tưởng Phật giáo thời kỳ này. Đạo phật thật sự đã được gieo mầm từ lâu và đã trải qua hàng bao thế kỷ, nó đã thích nghi với con người và đất nước Việt Nam, đến thời Lý - Trần là đỉnh cao của nó, Phật giáo đã trở thành cốt tuỷ và hoà nhập với nền văn hóa dân tộc. Do đó nó hoàn toàn phù hợp với tâm tư nguyện vọng của một dân tộc khao khát hoà bình, yêu thích tự do độc lập. Khi chiến tranh chống ngoại xâm, đạo Phật trí tuệ tập hợp những tâm hồn yêu nước, thương dân, đoàn kết một lòng
  13. 11 mọi người với ông Bụt từ bi, với Quan Âm cứu khổ và giáo lý thực tiễn không tách rời cuộc sống bằng thân, khẩu, ý. Có thể nói rằng các vị vua, các thiền sư đã sử dụng đúng tiềm năng của đạo Phật, khiến cho nó trở thành Phật giáo Việt Nam mà không phải Phật giáo Trung Hoa hay Ấn Độ từ cái nhìn cho đến hành động. Phật giáo Lý - Trần có sự hỗn dung. Trước hết là sự hỗn dung giữa các tông phái. Phật giáo truyền bá vào nước ta chủ yếu là ba tông phái lớn: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thực trạng Phật giáo thời Lý - Trần cho thấy sự hỗn dung tư tưởng và tín ngưỡng giữa các tông phái này. Trong đó xu hướng phát triển của Thiền tông là nổi bật về mặt tư tưởng triết lý nhân sinh, còn Tịnh độ tông và Mật tông thiên về lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo. Người ta khó có thể xác định đặc điểm riêng cho từng tông phái. Ta chỉ có thể nói một khuynh hướng nào đó nổi trội hơn. Vì các tông phái này tồn tại song song trong một thời gian dài và tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Phật giáo thời Lý - Trần còn có sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian. Sự kết hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa tạo nên cái mà người ta gọi là “dòng Phật giáo dân gian” và nó cũng đã tồn tại lâu dài trong lịch sử Việt Nam. Phật giáo Lý - Trần là một nền Phật giáo nhập thế tích cực. Tùy nghi, tùy thời, nhâm vận, đó là hành động của những người đã giác ngộ ở một đất nước trong lúc mọi người đều hăm hở, hăng hái chống giặc, nếu cứ ôm khư khư giáo lý nhà Phật, đóng kín cửa chùa, thì thật chẳng hợp thời đúng lúc chút nào. Tính nhập thế của Phật giáo Lý - Trần còn được biểu hiện ở việc tham gia chính sự của các nhà sư. Nhiều thiền sư đã tham gia tích cực vào đời sống chính trị xã hội, uy tín và địa vị cao trong
  14. 12 triều đình, là những cố vấn, những người trợ giúp đắc lực cho nhà vua. Triều đình đã sử dụng các nhà sư vào mục đích chính trị, nhất là vào việc bang giao. Với những đặc điểm đó Phật giáo thời Lý - Trần đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Trong thời Lý - Trần, Phật giáo đã đứng đầu trong tam giáo và có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Phật giáo Lý - Trần không chỉ phát huy được vai trò tích cực trong lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến đạo đức, văn hoá, giáo dục, lối sống, phong tục… Sự phát triển cực thịnh của Phật giáo Lý - Trần cũng như ảnh hưởng của các tăng lữ trong thời kỳ này đã chi phối đến giáo dục, khoa cử (thi tam giáo). Phật giáo thời Lý - Trần còn ảnh hưởng đến nguồn cảm hứng sáng tác văn học của các tác giả thời kì này. Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, Phật giáo Lý - Trần đã thấm sâu vào mọi cơ tầng xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của Phật giáo vua quan quý tộc thời Lý - Trần đã không ngừng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của nó đến mọi miền của Tổ quốc. Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc làm nền những chiến thắng vĩ đại thời Lý - Trần. Phật giáo thời Lý - Trần là Phật giáo Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam, dấu ấn Việt Nam 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1. Điều kiện chính trị, kinh tế-xã hội Việt Nam thời Lý - Trần Là một hình thái ý thức xã hội, những tư tưởng triết học trong Phật giáo thời Lý - Trần ra đời trên cơ sở tồn tại xã hội lúc bấy
  15. 13 giờ hay nói cách khác điều kiện kinh tế xã hội thời Lý - Trần là cơ sở thực tiễn cho sự hình thành những tư tưởng của Phật giáo lúc đó. Về kinh tế, thời Lý - Trần kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo và là cơ sở của mọi hoạt động trong nước. Sự phát triển của nông nghiệp đã tạo điều kiện cho các nghề thủ công phát triển. Đó là những nghề truyền thống như dệt, gốm sứ, luyện kim, mỹ nghệ, chạm khắc, đúc đổng, v.v... Thích hợp với quan hệ kinh tế đó là một xã hội có kết cấu giai cấp tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị là tầng lớp quý tộc và quan liêu, đại biểu là vua nắm mọi quyền hành ở triều đình và trong xã hội. Tiếp đó là tầng lớp địa chủ lúc đầu còn ít nhưng về sau tăng dần lên. Tăng lữ là một tầng lớp xã hội đáng kể và là một lực lượng đông đảo từ cuối Bắc thuộc đến đầu thời Trần. Nhà nước phong kiến đã sử dụng tầng lớp này cùng với tầng lớp Nho sĩ mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền lực triều đình. Đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị gồm nông dân, nông nô, nô tỳ. Việc phân chia đẳng cấp trong xã hội bắt đầu từ thời Lý vẫn tiếp tục được củng cố trong thời Trần. Quá trình xây dựng, củng cố chính quyền quý tộc quân chủ thời Trần đã làm cho quá trình phân hóa đẳng cấp ngày càng mạnh mẽ. Nhìn chung trong thời Trần, tồn tại ba đẳng cấp chính là: Đẳng cấp quý tộc, tôn thất - quan lại trong chính quyền quân chủ; Đẳng cấp những người bình dân (nông dân, thợ thủ công, thương nhân, địa chủ…); Đẳng cấp nô tỳ. Những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những cơ sở vật chất vững vàng cho sự tồn tại quốc gia độc lập tự chủ và mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc.
  16. 14 1.2.2. Văn hóa thời Lý-Trần Văn hóa trong thời Lý - Trần có bước phát triển mạnh mẽ so với các triều đại trước đó. Điều này thể hiện ở hệ thống giáo dục và văn học thời kỳ này. Văn học trong thời kỳ Lý - Trần cũng có bước phát triển vượt bậc, không chỉ đa dạng về thể loại mà còn phong phú về nội dung. Chủ đề của những áng thơ văn thời Lý - Trần không những xoay quanh vấn đề của Phật giáo, mà còn xoay quanh những vấn đề của đạo Nho và nhất là của đời sống hiện thực. Những sáng tác trong thời kỳ này phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung cùng với những công trình nghiên cứu về tự nhiên và xã hội. Trong đó nổi bật lên là những áng văn thơ thể hiện tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong công cuộc chống ngoại xâm. Đặc biệt sự ra đời của chữ Nôm phản ánh tinh thần độc lập tự cường của dân tộc ta lúc bấy giờ. Ngành sử học ra đời, việc soạn những bộ sử của đất nước đã được chú trọng ở thời Trần. Nhiều bộ sử đã xuất hiện thời Trần như Việt sử lược, An Nam chí lược, Việt sử cương mục… đáng chú ý nhất là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Đặc biệt trong thời kỳ này còn xuất hiện một số bộ sử chuyên ngành, dã sử và truyền thuyết của dân tộc như tác phẩm Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái… Trong thời Lý - Trần, cả Nho - Phật - Lão đều phát triển nhưng hưng thịnh nhất vẫn là Phật giáo. Phật giáo Việt Nam vốn chịu ảnh hưởng của cả Phật giáo Ấn Độ và Trung Hoa, đến thời nhà Lý do muốn có một hệ tư tưởng của riêng mình nên thiền phái Thảo Đường ra đời, đến thời nhà Trần, Trần Nhân Tông đã lập ra thiền
  17. 15 phái Trúc Lâm Yên Tử mang đậm màu sắc Việt Nam. Sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hoá của Đại Việt thời Lý - Trần là cơ sở điều kiện cho vườn hoa tư tưởng của thời Lý - Trần nói riêng, của dân tộc nói chung tươi tốt và có nhiều hương sắc.
  18. 16 CHƯƠNG 2 NỘI DUNG TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI LÝ – TRẦN 2.1. TRIẾT LÝ VÔ THƯỜNG Quy luật vô thường của nhà Phật cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều không thường hằng, mà luôn luôn biến đổi. Sinh lão bệnh tử, sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không, không có gì là tồn tại vĩnh viễn. Phật giáo Lý - Trần cũng tiếp thu tư tưởng đó về cơ bản. Nhưng mỗi trường phái có cách nhìn nhận khác nhau… Hầu hết các thiền phái, thiền sư trong thời Lý - Trần đều có bàn đến vô thường ở những mức độ khác nhau và nói đến sự vô thường của vạn vật cũng là để làm rõ sự vô thường của cuộc đời con người. Họ chủ yếu bàn về vô thường trong cách nhìn nhận đời sống con người. Về luật vô thường, Trần Thái Tông viết: “Quang cảnh trăm năm toàn ở sátna, thân dối bốn đại, há được trường cửu. Suốt ngày long đong vội vã, một mai lưới nghiệp mênh mang. Không biết một tính sáng tròn, luống sinh sáu căn tham muốn. Công danh cái thế chỉ là mộng lớn một trường; phú quý khinh người, khó tránh vô thường hai chữ. Ta người tranh chấp rốt cuộc thành không, hay giỏi khoe khoang cuối cùng chẳng thực” [21, tr. 61]. Có thể hiểu theo ông vạn vật, con người luôn luôn biến đổi vụt mất, vụt còn không có gì là trường cửu. Vậy mà con người không hiểu được cứ suốt ngày long đong vội vã, nảy sinh ham muốn chiếm đoạt những cái chẳng có thực. Trong quan niệm về vô thường Tuệ Trung Thượng Sĩ có cái nhìn tương đối toàn diện. Theo ông, từ con người đến quốc gia dân
  19. 17 tộc, từ không gian đến thời gian đều biến đổi không ngừng, sự vật hiện tượng, từ cái to lớn đến cái nhỏ bé đều luôn biến đổi không ngừng. Trần Nhân Tông là người sáng lập dòng thiền mang đậm màu sắc Việt Nam - thiền Trúc Lâm Yên Tử cũng kế tiếp tư tưởng vô thường của Phật giáo. Ông cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều biến đổi rất nhanh chóng. Kế tiếp tư tưởng vô thường của Phật giáo Trần Nhân Tông cho rằng mọi sự vật hiện tượng và cả thói đời đều biến đổi không ngừng. Ông không bác bỏ tính hiện thực của thế giới hiện tượng sông ông cũng không thừa nhận tính bền vững, bất biến của nó. Thế giới hiện tượng mờ mờ ảo ảo nhưng người vô minh cứ tưởng là thật. Thế giới hiện tượng khiến cho con người cứ luẩn quẩn trong vòng nhận thức mê lầm, buộc con người phải lao đao, điên đảo chạy theo những cái ảo. Qua những quan điểm trên ta thấy rằng các nhà tư tưởng Phật giáo thời Lý-Trần đều tiếp thu tư tưởng vô thường của Phật giáo, nhìn nhận thế giới trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng. Tuy nhiên họ mới chỉ thấy được trạng thái vận động, tuyệt đối hóa vận động, chưa thấy được đứng im tương đối của sự vật hiện tượng..... 2.2. QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA BẢN THỂ VÀ HIỆN TƯỢNG Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi cho rằng bản thể và thế giới hiện tượng có liên quan mật thiết với nhau, không tách rời nhau giống như nước và sóng. Bản thể biến thành hiện tượng cũng như nước biến thành sóng.
  20. 18 Thế giới hiện tượng (vạn tượng) đều từ bản thể (chân thân) mà sinh ra. Vạn tượng phản ánh bản thể, ở góc độ nào đó nó cũng chính là bản thể. Bản thể - chân thân cũng là chân tính, phật tính, nó bất sinh bất diệt. Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi chưa dùng khái niệm bản thể mà họ mới dùng khái niệm “diệu bản” để chỉ bản thể. Theo thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, trong quan hệ giữa bản thể và hiện tượng thì bản thể là cái tồn tại vĩnh viễn, là thực còn hiện tượng là không thật nó chỉ là phản chiếu bản thể. Thế giới hiện tượng là hư huyễn không thực nhưng do vô minh nên con người cứ tưởng là thực,cho nó là thường hằng, bất biến nên họ gặp thất vọng vì sự huyễn hoặc ấy. Về mối quan hệ giữa bản thể và thế giới, thiền phái Vô Ngôn Thông cũng đồng quan điểm với thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi cho rằng bản thể và thế giới hiện tượng không tách rời nhau. Nhưng nếu thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi nhấn mạnh nguồn gốc của thế giới hiện tượng thì thiền phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít, không tách rời giữa bản thể và thế giới hiện tượng. Theo họ bản thể (diệu thể) và thế giới hiện tượng liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, chúng không là một nhưng cũng không là hai. Sự liên hệ giữa chúng xoắn xuýt đến mức ai có ý đồ, toan tính muốn phân biệt thì cũng vô lý như cành hoa trong lò lửa đỏ, hay lông rùa, sừng thỏ. Trong thiền phái Vô Ngôn Thông bản thể là cái không hiển hiện (không đến, không đi, không hình, không tướng...) nhưng có ở khắp nơi, trong mọi người. Thế giới hiện tượng, vạn pháp đều do tâm sinh ra. Các pháp đó nhìn bề ngoài tựa như là tồn tại nhưng đều dựa vào tâm mà tồn tại, nó tồn tại nhưng không thực. Thế giới hiện tượng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2