Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng
lượt xem 4
download
Mục đích chung của luận văn là tìm ra các phương diện đảm bảo cho quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, đi sâu phân tích các ưu khuyết điểm và sự tiếp cận lý luận vào thực tiễn. Xây dựng nền văn hóa nhân quyền trong xã hội nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, thúc đẩy sự phát triển bảo vệ các giá trị và hướng tới mở rộng quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------/-------- -----/----- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN VĂN DÂN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – 2018
- Luận văn được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TƢỜNG DUY KIÊN Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Quốc Sửu Phản biện 2: PGS.TS. Đào Trí Úc Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp 401, tầng 4 Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi 15h30 ngày 13 tháng 11 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Ban Quản lý Đào tạo Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới, là tiếng nói chung của toàn nhân loại mục đích bảo vệ nhân phẩm và hành phúc của con người. Quyền con người mang tính phổ quát, thuộc về bản chất, gắn liền với các hoạt động xã hội, các mối quan hệ xã hội và các phương thức sống của cá nhân. Quyền con người là biểu hiện của các tiêu chí tác động qua lại, củng cố các mối liên hệ, phối hợp hành động và hoạt động giữa con người và con người, ngăn ngừa các mâu thuẫn đối đầu và xung đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do của những người khác, với hoạt động bình thường của Nhà nước và xã hội. Bảo đảm quyền con người là vấn đề rất quan trọng luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân quan tâm, bảo vệ bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Hiến pháp, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự v.v... Nhà nước ta đã chính thức ghi nhận và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, coi đó là những chế định quan trọng và là mục tiêu cuối cùng của chế độ. Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta đã ghi nhận, bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua nhiều chế định khác nhau.. Bắt người, tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Nhưng khi áp dụng các biện pháp này rất dễ tạo những ảnh hưởng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Biện pháp cưỡng chế này chỉ có thể do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng với bị can, bị cáo và người bị bắt trong các trường hợp quả tang, khẩn cấp nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, không để tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật, cản trở điều tra, truy tố, xét xử 1
- và thi hành án. Do nhận thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động bắt người, tạm giữ, tạm giam cũng như các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án làm cho việc vận dụng thiếu chính xác dễ dẫn đến những hoạt động tùy tiện, trái pháp luật xâm hại đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Để đảm bảo được quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tố tụng cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, không ngừng bồi dưỡng nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị và đạo đức công vụ cho những cán bộ này, đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan có thẩm quyền và nhân dân. Mục đích của biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Để đảm bảo quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng” là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài “Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng”, chúng tôi thấy các nhà khoa học đã tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau: Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp và trong tố tụng hình sự đã được nhiều độc giả nghiên cứu từ những góc độ và cấp độ khác nhau. Từ góc độ khoa học luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hoặc tư pháp hình sự được công bố cụ thể: Sách chuyên khảo: “Quyền con người”, năm 2015 và “Cơ chế 2
- bảo đảm và bảo vệ quyền con người”, năm 2011 do Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB khoa học xã hội; "Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người" - đề tài nghiên cứu khoa học, chủ trì Nguyễn Ngọc Chí - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam", của Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2008; "Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam" do Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản đồng chủ biên, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006; "Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của Nguyễn Huy Hoàng, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2005; "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam", sách chuyên khảo của Trần Quang Tiệp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004;.... Từ góc độ nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong NNPQ có các công trình của các tác giả sau: Tường Duy Kiên, "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người", Nhà xuất bản Nghề luật, 2004; Trần Ngọc Đường, "Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2004; Đinh Văn Mậu, "Quyền lực Nhà nước và quyền con người", Nhà xuất bản Tư pháp, 2003.... Trong các công trình này tác giả đã nghiên cứu khái niệm và các đặc điểm NNPQ nói chung, NNPQXHCN nói riêng; nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân; nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người từ góc độ triết học, xã hội học hoặc lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Tuy có cách nhìn không hoàn toàn giống nhau và nghiên cứu ở các mức độ khác nhau nhưng các tác giả đều đưa ra các cơ chế bảo đảm quyền con người trong NNPQ nói chung mà chưa đưa ra các cơ chế bảo đảm quyền con người trong NNPQ địa bàn thành phố Hải Phòng. Tình hình nghiên cứu trên đây cho thấy, các công trình khoa học, các bài 3
- báo, luận văn, luận án, sách chuyên khảo trong chừng mực nhất định đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng, luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về Bảo đảm Quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm ra các phương diện đảm bảo cho quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, đi sâu phân tích các ưu khuyết điểm và sự tiếp cận lý luận vào thực tiễn. Xây dựng nền văn hóa nhân quyền trong xã hội nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng, thúc đẩy sự phát triển bảo vệ các giá trị và hướng tới mở rộng quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam. Luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thực trạng bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam để đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam địa bàn thành phố Hải Phòng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận về quyền con người trong việc bắt, tạm giữ tạm giam thông qua việc làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung và sự cần thiết phải bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam; xác định các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Thứ hai, phân tích thực trạng bảo đảm quyền con người trong việc bắt, 4
- tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian từ 2013 đến nay, qua đó đánh giá về những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém này. Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp toàn diện, có hệ thống và tính khả thi nhằm bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu về quyền con người bị hạn chế tự do, bị tước tự do xét trên bình diện các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam ở địa bàn thành phố Hải Phòng. Người bị hạn chế tự do, bị tước tự do như người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam được đưa ra xem xét là những giá trị cơ bản nhất đối với họ, đồng thời cũng xem xét sự đảm bảo của mỗi quốc gia và quốc tế khi thực hiện quyền con người đối với những người này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Dưới góc độ nghiên cứu của Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng là vấn đề có nội dung rộng lớn và phức tạp. Vì vậy, về không gian luận văn nghiên cứu quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian từ 2013 đến nay. Về nội dung, luận văn nghiên cứu về các quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật hình sự. Dưới góc độ pháp lý: Xem xét các quy định của pháp luật quốc tế và của quốc gia quy định về quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Những quy định này xuất phát từ tiêu chuẩn quốc tế, về nhân quyền nói chung và cơ chế bảo đảm các quyền đó. Nghiên cứu trong phạm vi thực tiễn: Luận văn phân tích trước hết là 5
- thực trạng tình hình quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Các phân tích đánh giá những quy định nào phù hợp, quy định nào vẫn còn bất cập cần phải xem xét so với pháp luật quốc gia cũng như tiêu chuẩn về nhân quyền của pháp luật quốc tế. Từ đó đánh giá đúng đắn, mức độ phù hợp của các quy định pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn pháp lý về nhân quyền. Trên cơ sở đó có những phân tích để hoàn thiện các quy định và những căn cứ thực tế để thực thi các quy định đó một cách hiệu quả. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tạm giữ, tạm giam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Xuất phát từ mục đích và nội dung nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật, dự báo diễn dịch, xâu chuỗi để chọn lọc những tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn về bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam ở các địa phương có điều kiện tự nhiên, văn hóa pháp lý tương đồng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về lý luận, những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào lý luận và thực tiễn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam - một nhóm chủ thể dễ bị tổn thương bị tước bỏ quyền tự do đi lại và một số quyền khác. Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu về quyền con người; về hoạt động 6
- tố tụng hình sự. Những giải pháp được luận giải thuyết phục từ cơ sở đề xuất đến nội dung giải pháp và các điều kiện bảo đảm thực hiện từng giải pháp trong luận văn sẽ giúp các nhà quản lý trong tham mưu, đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Chương 2: Thực trạng quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 7
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM 1.1. Quyền con ngƣời trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam 1.1.1. Khái niệm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam là những giá trị cơ bản của con người chỉ dành cho con người khi họ bị bắt,tạm giữ, tạm giam mà Nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Có thể thấy đó là các quyền: Quyền được bào chữa, được nhận các quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật; quyền được xét xử trong thời gian luật định; quyền không bị truy bức, nhục hình; quyền bình đẳng trước pháp luật; bình đẳng trước tòa án v.v… 1.1.2. Nội dung quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam Bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân là bảo đảm các quyền đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật bầu cử, Bộ luật dân sự, luật hôn nhân gia đình, Bộ luật TTHS, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam…. Là con người và chỉ bị tạm thời hạn chế một số quyền con người, quyền công dân nên bị can, bị cáo có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền được pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TTHS. 1.1.2.1.Quyền không bị bắt giam tùy tiện Quyền tự do thân thể, không bị bắt, giam giữ tùy tiện, trái pháp luật là một trong những quyền cơ bản nhất của con người được nhân loại thừa nhận. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định 1.1.2.2. Quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng Để bảo đảm quyền bình đẳng thì TTHS không những chỉ bảo vệ quyền 8
- cho bị cáo, bị can mà còn phải bảo vệ cả các quyền cho người bị tình nghi, chống phân biệt đối xử kể cả những tội phạm chiến tranh. Tất cả những người bị tình nghi phải được bảo đảm về quyền của họ trong suốt quá trình tố tụng. Khi giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại thì quyền bình đẳng của người bị hại hoặc những người bảo vệ quyền lợi cho họ cũng phải bình đẳng đối với bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo, người bị tình nghi. Có như vậy thì người bị hại mới không bị "gây thiệt hại" một lần nữa do sự chậm chễ, kéo dài của tố tụng hoặc chính tố tụng lại tạo ra sự bất bình đẳng trong bảo vệ quyền của người bị hại. Như vậy, có thể thấy các lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh trong đó có tư pháp hình sự thì bình đẳng chỉ có được khi chú ý đến việc từng cá nhân có giá trị và được đối xử bình đẳng với các cá nhân khác trong xã hội. 1.1.2.3. Quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục được đề cập trước hết trong điều 5 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (UDHR), trong đó nêu rằng, không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Điều 7 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) cụ thể hóa Điều 5 UDHR. Bên cạnh các quy định trên của UDHR và ICCPR, vấn đề chống tra tấn còn được đề cập trong Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1983). 1.1.2.4. Quyền được coi là vô tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý và được nhiều nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi 9
- lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. 1.1.2.5. Quyền được bào chữa Quyền bào chữa là quyền mang tính tự nhiên của con người khi xuất hiện một cáo buộc trong TTHS là cáo buộc từ phía nhà nước. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định: “ Quyền bào chữa của bị cáo được đảm bảo. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Hiến pháp 2013 quy định cụ thể hơn: Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. 1.1.3. Sự cần thiết bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Chúng ta đang xây dựng NNPQ của dân, do dân và vì dân, một trong những đặc điểm của NNPQ đó là quyền con người trong đó có quyền con người trong các lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam được ghi nhận và bảo vệ. Chính vì vậy ý nghĩa đầu tiên của việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam là thể hiện và cụ thể hóa đặc điểm của NNPQ mà chúng ta đang xây dựng. Pháp luật TTHS có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người thông qua việc chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, hướng tới mục đích góp phần bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. - Bảo đảm quyền của người trong bắt, tạm giữ, tạm giam thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp vì quyền con người 10
- - Bảo đảm quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm hướng tới một nền tư pháp hiện đại, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người - Bảo đảm quyền con người trong bắt, - Bảo đảm quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam góp phần thực hiện đúng đắn nội dung các quy định và thực hiện các nguyên tắc trong TTHS - Bảo đảm quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm giam. 1.2. Bảo đảm quyền con ngƣời trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam 1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp, cách thức nhằm giúp cho những người này có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định. 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là một bộ phận hợp thành bảo đảm quyền con người trong TTHS. Vì vậy bảo đảm quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam có đặc điểm của bảo đảm quyền con người trong TTHS. Quyền con người trong TTHS thực chất là những quyền của con người được thể hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và nó có những biểu hiện đặc thù về phạm vi, chủ thể, nội dung. Quyền con người trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam được bảo đảm bằng nhiều yếu tố khác nhau trong đó có pháp luật. Sự vi phạm pháp luật TTHS trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là biểu hiện của sự vi phạm quyền con người, vì vậy thực hiện đúng pháp luật TTHS trong hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam là đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền con người. 11
- 1.2.3. Cách thức bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam Một là, tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giải thích Hiến pháp, pháp luật để nâng cao nhận thức của người dân nói chung và người bị bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. Hai là, hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam… Ba là, đối với cơ quan công an, cơ quan điều tra nói chung và các điều tra viên nói riêng, thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, giáo dục ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. Bốn là, đối với Viện kiểm sát, chỉ phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam khi đã xác định rõ căn cứ chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng.. Năm là, trang bị cơ sở vật chất phục vụ việc ghi âm, ghi hình trong hoạt động điều tra. 1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền con ngƣời trong bắt, tạm giữ, tạm giam 1.3.1. Thể chế pháp lý Bảo vệ quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam là nhiệm vụ rất quan trọng của nhà nước, việc bảo vệ quyền con người trước hết phải bằng thể chế pháp lý. Đó chính là các quy định của pháp luật làm nền tảng cho việc bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam. Chính vì vậy pháp luật có liên quan chặt chẽ đến việc thi hành pháp luật trong bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. 1.3.2. Tổ chức bộ máy Bảo vệ quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam ngoài thể chế pháp lý không thể bỏ còn phải có tổ chức bộ máy các cơ quan có trách nhiệm bảo vệ quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam. Các cơ quan này bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan Điều tra và các cơ quan thực hiện nhiệm 12
- vụ thi hành bắt, tạm giữ, tạm giam. Đối với Tòa án, việc đảm bảo cho Tòa án được xem là vấn đề đầu tiên và cơ bản nhất. Tòa án là biểu tượng của công lý là thành lũy cuối cùng trong vấn đề bảo vệ các giá trị của con người hay nói chính xác hơn là quyền của con người. Các thẩm phán và thành viên của Hội đồng xét xử phải có vai trò độc lập với nhau và độc lập với bên ngoài. Đối với Viện kiểm sát, việc bảo vệ quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam thể hiện ở chức năng kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Cơ quan này có nhiệm vụ bảo đảm cho việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong bắt, tạm giữ, tạm giam, 1.3.3. Đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên Trước sự gia tăng về số lượng các vụ phạm tội và người phạm tội kéo theo số lượng những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam cao đòi hỏi cần đảm bảo về chất lượng của cán bộ tức là cán bộ tiến hành tố tụng trước hết là đội ngũ điều tra viên, kiểm sát viên. Chất lượng của đội ngũ này xem xét dưới các góc độ trình độ chuyên môn cả về pháp luật và nghiệp vụ, bên cạnh đó đòi hỏi rất quan trọng đó là phẩm chất đạo đức và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ này. Phải có đủ năng lực và trình độ hiểu biết về pháp luật, giỏi về nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm cao và phẩm chất đạo đức tốt. 1.3.4. Cơ sở vật chất và nguồn lực kinh phí Quyền con người trong bắt, tạm giữ, tạm giam có được đảm bảo hay không còn phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất, nguồn kinh phí phục vụ công tác bắt, tạm giữ, tạm giam. Phương tiện kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong công tác giải quyết vụ án hình sự nói chung và đảm bảo quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng. 13
- Tiểu kết Chƣơng 1 Khi tham gia vào quan hệ bắt, tạm giữ, tạm giam và quan hệ pháp luật tố tụng, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam luôn ở thế yếu vì để phục vụ công tác điều tra và mục đích đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, họ bị áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền. Trong NNPQ các quan hệ trên đều phải tuân theo pháp luật, do vậy pháp luật ghi nhận người bị bắt, tam giam, tạm giữ có các quyền năng khi tham gia quan hệ tố tụng ở các giai đoạn trong TTHS. Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền xã hội”, tất yếu cần được pháp luật bảo vệ. Trong TTHS, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là những người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là người bị cơ quan tiến hành tố tụng coi là người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm. Tùy theo giai đoạn tố tụng khác nhau mà tên gọi cũng như địa vị pháp lý của người đó cũng khác nhau . 14
- Chƣơng 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Khái quát về ngƣời bị bắt, tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, cơ sở vật chất tại các cơ sở tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng Hải Phòng là thành phố ven biển nằm ở phía đông miền duyên hải Bắc Bộ cách thủ đô Hà Nội 102km, phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và phía Đông là bờ biển chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ phía Đông đảo Cát Hải đến cửa sông Thái Bình. Đây là thành phố lớn thứ 3 Việt Nam và là một trong 5 thành phố trực thuộc trung ương. Về tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật: Năm 2016, Cơ quan cảnh sát điều tra cấp thành phố và Cơ quan cảnh sát điều tra cấp quận, huyện đã giải quyết xong 1.642/1.685 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đạt tỉ lệ 88%. Điều kiện cơ sở vật chất tạm giữ, tạm giam:Thành phố Hải Phòng hiện nay có 01 trại giam Xuân Nguyên thuộc Tổng cục 8 Bộ Công an, 01 trại tạm giam Trần Phú và 13 nhà tạm giữ thuộc công an các quận, huyện. Trại tạm giam được thiết kế, xây dựng kiên cố, có đủ ánh sáng bảo đảm vệ sinh môi trường và sức khoẻ cho người bị tạm giam, tạm giữ, an toàn phòng cháy, chữa cháy, phù hợp với đặc điểm khí hậu của từng địa phương và yêu cầu an toàn của công tác quản lý giam, giữ. 2.1.2. Tình hình người bị bắt, tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng Về người bị bắt và tạm giữ: Nhìn chung các trường hợp bắt, tạm giữ đều theo quy định của pháp luật; các trường hợp bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ đều được Cơ quan điều tra chuyển đến Viện kiểm sát để phê chuẩn theo quy định của pháp luật, đối với những trường hợp Viện kiểm sát không phê chuẩn, 15
- Cơ quan điều tra ra quyết định trả tự do. Việc tạm giam và xử lý người bị tạm giam được thực hiện theo quy định của pháp luật. Công tác quản lý người bị tạm giam tại các nhà tạm giữ, trại tạm giam trong tỉnh đã có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất một số nơi đã được đầu tư, phần nào giảm bớt áp lực cho công tác quản lý giam giữ 2.2. Phân tích thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời trong tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng 2.2.1. Bảo đảm quyền không bị bắt giam tùy tiện Bất khả xâm phạm về thân thể là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nước ta. Đặc biệt, trong TTHS, nơi mà pháp luật cho phép trong những trường hợp nhất định các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung, biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể có thể được áp dụng nhằm đạt được mục đích phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội . 2.2.2. Bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng Không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng được hiểu là sự thể hiện ở vị trí như nhau của mọi công dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước và xã hội mà không có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào. Người nào phạm tội đều bị xử lý theo một trình tự, thủ tục tố tụng như nhau theo quy định của BLTTHS; người thực hiện hành vi phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo các điều khoản tương ứng của BLHS, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội 2.2.3. Bảo đảm quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục Trong thời gian qua trên địa bàn thành phố Hải Phòng không có trường hợp nào bị đánh đập, bức cung nhục hình dẫn đến tình trạng oan sai mà các cơ quan tiến hành tố tụng gây nên. Tại các trại tạm giam đã tổ chức lắp đặt hệ thống máy quay, máy ghi âm trong các phòng hỏi cung để ngăn chặn tình trạng bức cung nhục hình. 16
- 2.2.4. Bảo đảm quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án Thực tiễn khởi tố, điều tra trong những năm qua cho thấy còn nhiều trường hợp VKS phải ra quyết định đình chỉ vụ án vì những lý do khác nhau mà chủ yếu là do CQĐT phải ra quyết định đình chỉ vụ án không đúng như: - Sau khi có sự kiện phạm tội xảy ra, do thỏa mãn với lời nhận tội của bị can, đồng thời không xem xét toàn diện hệ thống chứng cứ; - Áp dụng các văn bản pháp luật và giải thích pháp luật không chính xác nên dẫn đến việc khởi tố sai. 2.2.5. Bảo đảm quyền được bào chữa Tinh thần cải cách tư pháp đã có ý nghĩa tác động tích cực đến thái độ và tư duy của đội ngũ những người THTT. Người bào chữa được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi tham gia tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Chất lượng luật sư bào chữa cũng được chú trọng, tạo hiệu quả trong công tác bào chữa, nâng cao chất lượng xét xử vụ án. Báo cáo của TANDTC và các đoàn luật sư cho thấy, sự tham gia bào chữa của luật sư trong các vụ án hình sự ngày càng tăng, khiến giảm bớt số lượng các vụ việc bị kháng cáo hoặc kháng nghị ...vv 2.3. Đánh giá chung về thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời trong tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng 2.3.1. Những kết quả đã đạt được - Về bắt, tạm giữ: Từ thực tiễn thi hành tạm giữ, tạm giam ở thành phố Hải Phòng có thể đánh giá nhìn chung các trường hợp bắt, tạm giữ đúng quy định của pháp luật về thủ tục, hồ sơ, các trường hợp bắt đưa vào tạm giữ đều có đầy đủ biên bản bắt. - Về tạm giam: Trong tạm giam, không để xảy ra các trường hợp bắt tạm giam oan, sai, bức cung, nhục hình. 2.3.2. Những hạn chế, yếu kém - Về thủ tục tạm giữ, tạm giam: vẫn còn nhiều trường hợp nhà tạm giữ, trại tạm giam chưa cập nhật đầy đủ tài liệu của cơ quan tiến hành tố tụng đối 17
- với người bị giam, giữ - Về phân loại, xử lý các trường hợp tạm giữ - Về chế độ tạm giữ đối với người bị tạm giữ vấn đề tồn tại nổi cộm là trường hợp người bị tạm giữ phải ở một diện tích quá chật hẹp ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người bị tạm giữ. - Về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giữ : Đối với quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa gần như không được thực hiện trên thực tế. - Về quản lý người bị tạm giữ, tạm giam: Nhiều Nhà tạm giữ chưa kịp thời phát hiện ra các vi phạm trong các Lệnh, Quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng - Công tác quản lý người bị giam giữ tại các nhà tạm giữ trong thời gian qua còn để xảy ra việc người bị tạm giữ, tạm giam trốn khỏi nơi giam giữ, - Chưa có chế độ phụ cấp đối với cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam nên phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng công việc - Sự phối hợp công tác trong Ngành và sự phối hợp giữa kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự với các Cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan quản lý giam giữ, Cơ quan Thi hành án hình sự, Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự chưa chặt chẽ, thường xuyên 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém - Tình hình tội phạm trong thời gian qua diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng gia tăng các loại tội phạm có tổ chức liên quan đến nhiều địa phương, ngành, số lượng người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, năm sau tăng hơn năm trước trong khi điều kiện cơ sở vật chất nơi giam, giữ chưa đáp ứng đủ với quy mô và yêu cầu quản lý giam giữ. - Nguyên nhân do trình độ, năng lực và quan điểm, nhận thức của người tiến hành tố tụng còn có nhiều hạn chế. Một người được coi là không có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là nguyên tắc quan trọng của TTHS. Còn bị can, bị cáo mới chỉ là người bị nghi 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn