Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế đó. Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM MỸ DUNG BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số : 8 60 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2018
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HƯƠNG Phản biện 1: PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp D, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội Thời gian: vào hồi 9 giờ 45, ngày 01 tháng 11 năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Xã hội nào cũng đặt nhiều kì vọng ở lớp người trẻ tuổi. Trong bức thư gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân dịp Tết Nguyên đán năm 1946, ngay sau thời điểm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Qua đó, có thể thấy được vị thế và vai trò vô cùng quan trọng của thế hệ trẻ hiện nay. Trẻ em – thế hệ mang trên vai trọng trách là những vị chủ nhân của tương lai, có sứ mệnh kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của quốc gia, của dân tộc. Bằng tài năng và trí tuệ của mình chắp nên những ngòi bút lịch sử ghi dấu ấn quan trọng, khẳng định vị thế của quốc gia, của dân tộc trên sa trường quốc tế. Tuy nhiên, trẻ em cũng thuộc nhóm người dễ bị tổn thương cần nhận được sự định hướng và quan tâm đúng mức. Đó không phải là vấn đề độc lập, riêng biệt của bất kì quốc gia nào mà phải được xác định là vấn đề trọng tâm với sự ủng hộ và thống nhất liên quốc gia. Qua vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, chúng ta có thể đánh giá được trình độ văn minh và phần nào bản chất của một xã hội. Giai đoạn hiện nay, vấn đề này đã và đang được cộng đồng quốc tế dành sự quan tâm xứng đáng. Năm 1989, Công ước Liên hợp quốc về Quyền Trẻ em ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của trẻ em. Công ước này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là điều kiện cần thiết để trẻ em được phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thương và cảm thông. Trong toàn bộ các quyền đã được ghi nhận cụ thể trong Công ước, thì quyền riêng tư là một quyền trừu tượng, nhạy cảm dễ bị bỏ qua song lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Là trách nhiệm của toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi giúp trẻ được học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách trong môi trường an toàn, lành mạnh. Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường song hành với đó là xu hướng phát triển bùng nổ của các cuộc đại cách mạng về công nghệ và thông tin. Truyền thông đóng vai trò tích cực có nhiệm vụ kết nối công dân toàn cầu hoà nhịp chung trong thế giới phẳng. Mặt khác, tiềm tàng nội tại là vấn đề bí mật riêng tư có nguy cơ dễ dàng bị tiết lộ. Trong bối cảnh chung này, trẻ em là đối tượng dễ bị xâm phạm về quyền riêng tư dưới nhiều hình thức khác nhau bởi các em còn nhỏ tuổi, chưa ý thức được về các quyền của bản thân và cũng thiếu khả năng tự bảo vệ khi bị xâm phạm quyền riêng tư. Tôn trọng những điều riêng tư của trẻ, chính là tôn trọng nhân cách, sự phát triển lành mạnh của trẻ. Các nhà tâm lý học giáo dục đã cảnh báo, nhiều trẻ bị tổn thương nặng nề, nhiều em mất cơ hội học tập, sống không yên ổn sau khi bị xâm phạm thô bạo về quyền riêng tư. Việt Nam đã ký kết và tham gia các tuyên ngôn, công ước của Liên hợp quốc về quyền con người, trong đó những văn bản đề cập đến quyền riêng tư và quyền riêng tư của trẻ em có: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR - Việt Nam tham gia ngày 24-12-1982); Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (CRC - Việt Nam tham gia ngày 26-1-1990, phê chuẩn ngày 28-2-1990). Luật Trẻ em năm 2016, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/06/2017, quy định về quyền riêng tư của trẻ em. Cụ thể, tại Điều 21 về “Quyền bí mật đời sống riêng tư” quy định: “1. Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 2. Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư”. Khoản 11, Điều 6 về “Các hành vi bị nghiêm cấm” quy định cụ thể một trong các hành vi đó là: “Công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em” . 1
- Mặc dù vậy, trên thực tế quy định mới về quyền riêng tư còn của trẻ em vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của cộng đồng và gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực thi, nên chưa đạt được hiệu quả thực sự. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, lại là hồi chuông cảnh tỉnh với cộng đồng về những hành động “lợi bất cập hại” gây ảnh hưởng đến trẻ, khi thông tin bị rò rỉ, tạo điều kiện cho các đối tượng tiêu cực sẽ diễn ra hệ lụy rất khôn lường. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trong các lĩnh vực quan hệ xã hội, trên cơ sở hành lang pháp lý tìm ra những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng những quy định này trên thực tế; từ đó đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật với vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, nhằm bảo vệ quyền của trẻ trong gia đình trước diễn biến phức tạp của xã hội là rất cần thiết. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Tình hình nghiên cứu bảo đảm quyền trẻ em hiện nay trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng nhận được sự quan tâm và diễn ra rất phổ biến. Có rất nhiều công trình nghiên cứu, các dự án hay những báo cáo về bảo đảm quyền của trẻ. Tuy nhiên nghiên cứu một cách hệ thống trên góc độ Luật học riêng về nhóm quyền riêng tư của trẻ em thì tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu cụ thể. Quyền riêng tư của trẻ được lồng ghép với những báo cáo thường niên của Việt Nam với Liên hợp quốc về việc thực hiện Công ước về quyền trẻ em năm 1989. Ở cấp độ luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ có một số tác giả nghiên cứu về quyền trẻ em. Bao gồm: -Luận án Tiến sĩ “Sự cần thiết của việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng Internet”năm 2008 của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Tường, Học viện Tâm lý, Đại học Tây Nam, Trung Quốc. Tuy nhiên, luận án chỉ nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền riêng tư cho trẻ trên lĩnh vực chịu ảnh hưởng của Internet chứ không đề cập ngoài phạm vi chịu sự tác động của toàn bộ các thiết chế trong đời sống xã hội. - Luận văn Thạc sĩ Luật học của học viên Nguyễn Thị Huyền Trang, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2014 về vấn đề “Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”. Luận văn nghiên cứu những vấn đề xung quanh quyền được bảo vệ đời tư dưới góc độ luật nhân quyền được quy định trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Nghiên cứu chung chung vấn đề bảo đảm quyền riêng tư cho toàn bộ các đối tượng chứ không đi sâu phân tích về trẻ em – nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. - Luận án Tiến sĩ “Quản lý nhà nước về bảo vệ quyền của trẻ em ở Việt Nam” năm 2016 của nghiên cứu sinh Phạm Thị Hải Hà, Học viện Hành chính quốc gia. Luận án nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền trẻ em của Việt Nam. Nhưng không đi sâu phân tích cụ thể về quyền riêng tư của trẻ mà nghiên cứu tổng thể tất cả quyền của trẻ em. Như vậy, vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam cũng đã được một số tác giả đề cập đến nhưng vẫn là những nghiên cứu chung, chưa mang tính cụ thể riêng cho lĩnh vực này. Luận văn của tác giả sẽ là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên và là một công trình nghiên cứu độc lập có tính hệ thống thông qua lăng kính nhân quyền về vấn đề “Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay”. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý về quyền riêng tư, nhận định được tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em, trên cơ sở đó, đưa ra những phương hướng và giải pháp phù hợp để bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. 2
- - Nhiệm vụ: + Hệ thống hóa sơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em thông qua việc làm sáng tỏ những khái niệm trẻ em, khái niệm quyền riêng tư của trẻ em và khái niệm đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em cũng như các yếu tố và thiết chế bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. + Đánh giá có hệ thống và khái quát về thực trạng pháp luật và thực trạng bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. Nêu rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế đó. + Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: + Về nội dung: Các hoạt động xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. + Về không gian: Trên lãnh thổ Việt Nam + Về thời gian: Từ khi có Hiến pháp năm 2013 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lenin; các nguyên tắc nền tảng của luật nhân quyền quốc tế; các quan điểm về quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam nóiriêng và trẻ em nói chung trên thế giới. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đánh giá... để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, đồng thời học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các nhà nghiên cứu về vấn đề quyền riêng tư của trẻ em. Cụ thể: Chương 1: Sử dụng những phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm rõ hơn phần lý luận của đề tài. Chương 2: Sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh để đánh giá thực trạng pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em và thực tiễn bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích để đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền riêng tư của trẻ theo pháp luật Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa học cơ bản mang tính lý luận được nhìn nhận dưới góc độ quyền con người về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ; giúp người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền và bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em. - Luận văn cũng nêu bật được hiện trạng về vấn đề quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam đang rất dễ bị bỏ qua hay bị xâm phạm; đồng thời tìm hiểu thực trạng của việc đảm bảo quyền của trẻ em, rút ra nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đối tượng này. Từ đó, là cơ sở cho việc 3
- nghiên cứu, bổ sung để hoàn chỉnh hơn các quyền, cách thức đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em ở Việt Nam hiện nay. - Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan đến bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm 3 phần chính: Mở đầu, Nội dung và Kết luận. Trong đó phần nội dung bao gồm các chương sau: Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay Chương 3. Phương hướng và giải pháp tiếp tục bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM 1.1. QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM 1.1.1. Quan niệm về trẻ em Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của Liên Hợp quốc sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Điều 1 Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the child - CRC) có quy định như sau: Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Và tại Điều 2 trong Công ước số 182 - Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, năm 1999 có quy định: Trong Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi. Ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “trẻ em” và độ tuổi của trẻ em được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật, nhưng không có sự thống nhất, rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo nhau khi định nghĩa về độ tuổi của trẻ em, đến khi nào thì không còn là trẻ em. Điều này cũng đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể: Theo Điều 1 Luật Trẻ em của Việt Nam năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy, quy định về tuổi trẻ em trong Luật Trẻ em của Việt Nam vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em. Theo Điều 1, Luật Thanh niên năm 2005 quy định thì: “Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi”. Trong khi đó, Điều 20 và Điều 21, Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Khoản 1, Điều 3 Bộ Luật Lao động năm 2012 quy định về người lao động như sau: “Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động”. Theo quy định trên thì người lao động có thể là người chưa thành niên, nói cách khác là có thể vẫn còn là trẻ em. 4
- Điểm a, khoản 1, Điều 5 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 cũng xác định đối tượng xử phạt hành chính phải từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính”. Quy định này đồng nghĩa với việc coi trẻ em là 14 thay vì 16 như quy định chung. Cách đây hơn 25 năm, vào ngày 20/02/1990, Việt Nam đã chính thức trở thành nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em, Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên thế giới đã ban hành Luật Trẻ em. 1.1.2. Quan niệm về quyền trẻ em 1.1.2.1. Khái niệm về quyền trẻ em Có rất nhiều quan niệm về quyền trẻ em, một số nhà nghiên cứu cho rằng khái niệm về quyền trẻ em đến thời điểm hiện tại vẫn không được định nghĩa rõ ràng, với ít nhất một đề xuất rằng không có định nghĩa hay lý thuyết về quyền của trẻ em được chấp nhận là duy nhất. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Tiếng Việt: “Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trẻ em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn, mà các em là những thành viên tham gia tích cực vào quá trình phát triển. Bao gồm quyền được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt mà mọi người, mọi gia đình dành cho trẻ emvà cả quyền được cha mẹ ruột yêu thương, cũng như những nhu cầu căn bản: được ăn uống, được giáo dục phổ quát do nhà nước trả tiền, được chăm sóc sức khoẻ và các điều luật hình sự thích hợp với độ tuổi và sự phát triển của trẻ em”. 1.1.2.2. Đặc điểm về quyền trẻ em Đặc điểm thứ nhất là tính đặc thù của đối tượng sở hữu quyền. Trẻ em là những người chưa thực sự trưởng thành về mọi mặt, từ thể chất cho đến trí tuệ cũng như năng lực hành vi dân sự. Vì thế trách nhiệm của cha mẹ cùng toàn xã hội là bảo vệ và chăm sóc trẻ em, thực hiện các quyền trẻ em, có quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp với từng giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ. Đặc điểm thứ hai, quyền trẻ em được hình thành trên một số nhu cầu cơ bản có tính thiết yếu đối với sự phát triển của trẻ em. Ví dụ như: Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển; Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh; Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân; Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Đặc điểm thứ ba, quyền trẻ em gắn với nghĩa vụ, bổn phận cụ thể của trẻ em phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân được nhà nước bảo vệ và tạo điều kiện bảo đảm thực hiện. 1.1.3. Quyền riêng tư của trẻ em 1.1.3.1. Khái niệm và đặc điểm Quyền riêng tư là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng vì trẻ em thuộc “nhóm người dễ bị tổn thương”, chưa phát triển đầy đủ về nhận thức, thể chất để có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi tác động, xâm hại đến mình. Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền riêng tư là một trong những quyền dân sự cơ bản nhất của con người, là quyền bất khả xâm phạm, như khoản 1 Điều 21 Hiến pháp quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. 5
- Như mọi công dân khác trong xã hội, trẻ em phải được đối xử công bằng, được tôn trọng và được bảo vệ các quyền cơ bản, trong đó có quyền riêng tư. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em (người dưới 16 tuổi) được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37). Từ quy định của Hiến pháp, các quyền này của trẻ em đã được luật hóa thông qua Luật Trẻ em năm 2016. Từ những phân tích trên đây, có thể định nghĩa: Quyền riêng tư của trẻ em là quyền của cá nhân trẻ em được phép giữ kín những thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư của mình, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nơi ở, về thư tín, điện thoại, điện tín và các thông tin điện tử khác mà không một chủ thể nào có quyền tiếp cận, công khai trừ trường hợp được chính người này đồng ý hoặc được bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, quyền riêng tư của trẻ em có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, quyền được phép giữ kín những thông tin, tư liệu, sự kiện, hoàn cảnh liên quan đến đời tư của mình và không có nghĩa vụ phải công khai; quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín và các thông tin điện tử khác. Thứ hai, cá nhân và các chủ thể khác không được tự ý tiếp cận và công bố các thông tin về đời tư cũng như không được kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các thông tin điện tử khác của cá nhân khi chưa sự đồng ý của “chủ sở hữu” hoặc sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.1.3.2. Nội dung quyền riêng tư của trẻ em Một là, sự riêng tư về thông tin cá nhân: Bao gồm việc ban hành các quy tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá nhân như thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu trữ về công dân đó. Nó còn được gọi là “bảo vệ dữ liệu”. Hai là, sự riêng tư về cơ thể: Liên quan đến việc bảo vệ thân thể (vật chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể. Ba là, sự riêng tư về thông tin liên lạc: Bao gồm bảo mật và riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền thông khác. Bốn là, sự riêng tư về nơi cư trú: Liên quan đến việc ban hành các giới hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm việc hoặc không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm thông tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân. 1.2. BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em 1.2.1.1. Khái niệm Bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội, văn hóa... và thực hiện các biện pháp để trẻ em có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các quyền riêng tư về thân thể, thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn liền với cuộc sống của trẻ em được tôn trọng, bảo vệ và duy trì. 1.2.1.2. Đặc điểm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam - Tính phức tạp trong việc xác định chủ thể và phạm vi bảo đảm Bảo đảm quyền riêng tư vẫn đang là một vấn đề đặc thù và phức tạp, gây nhiều tranh luận không chỉ tại Việt Nam mà còn ở rất nhiều các quốc gia trên thế giới. Ranh giới giữa bảo vệ lợi ích và tôn trọng riêng tư cho con trẻ vẫn là một giới hạn rất mong manh. Bởi lẽ năng lực dân sự và trách nhiệm pháp lý của đối tượng trẻ em chưa được hoàn thiện. Các em chưa đủ nhận thức về những hiểm nguy của xã hội diễn biến 6
- xung quanh mình, các em là đối tượng dễ bị xâm phạm và tổn thương nhất. Chính vì lẽ đó, dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định nhận thức, phương thức điều chỉnh, xác định đối tượng và phạm vi đảm bảo của các chủ thể, thiết chế xung quanh các em, từ gia đình, nhà trường, các tổ chức xã hội đối với quyền riêng tư của các em - Không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh của chuẩn mực đạo đức Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản và vốn có của con người. Trong quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, những quyền và lợi ích của con người nói chung, quyền riêng tư nói riêng nằm trong nội hàm quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tuỳ tiện bởi bất cứ chủ thể và thiết chế nào. Kể cả Nhà nước và pháp luật. Trước khi có văn bản pháp luật quy định cụ thể về bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em, điều chỉnh hành vi của các chủ thể là quy chuẩn đạo đức, trên cơ sở các chuẩn mực đạo đức mà các chủ thể lựa chọn tôn trọng hay thực hiện các hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em. - Tính đặc thù của mỗi quốc gia Mặc dù theo Tuyên ngôn Nhân quyền và tinh thần của Công ước Quốc tế, trẻ em ở tất cả các quốc gia không phân biệt màu da, dân tộc, giới tính, tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân. Dù ở trong những chế độ xã hội riêng biệt, sống trên những địa phận lãnh thổ khác nhau vẫn được công nhận là con người và được bảo đảm những quyền và sự tự do cơ bản, trong đó có quyền riêng tư. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia, tuỳ vào điều kiện và trình độ phát triển với những đặc trưng văn hoá riêng. Vấn đề bảo đảm quyền riêng tư lại được áp dụng và điều chỉnh theo những phương hướng và cách thức khác nhau. - Có sự liên hệ và phụ thuộc giữa các quyền con người Quyền riêng tư là một trong số những quyền tất yếu của con người cần được bảo đảm và tôn trọng, tất cả các quyền con người đều có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện bảo đảm tốt quyền này sẽ là tiền đề thực hiện quyền kia. Ngược lại khi một quyền lợi bị xâm phạm sẽ gây ra mức độ ảnh hưởng nhất định đến các quyền khác. 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý và điều hành xã hội. Đối với các vấn đề nội tại diễn biến khôn lường của xã hội nói chung và vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Pháp luật là công cụ chủ yếu để Nhà nước đưa ra quyết định, điều chỉnh mọi sự ảnh hưởng với quyền và lợi ích chính đáng của bản thân mỗi trẻ em tồn tại trong quốc gia đó. Nhà nước xây dựng và ban hành những chủ trương, chính sách phù hợp với thực tế cuộc sống, bắt nguồn từ cuộc sống trên cơ sở tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của các thành viên trong xã hội về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp và quyền riêng tư của trẻ em. Bằng pháp luật và các chế tài xử phạt, nhân danh quyền lực nhà nước, đảm bảo thực hiện các đường lối, chính sách ấy trên cơ sở kỉ cương và nghiêm túc. Bên cạnh đó, Nhà nước có vai trò ngoại giao kết nối, kí kết các công ước, hiệp ước. Cam kết thực hiện các điều khoản khi trở thành thành viên, tham gia và chung tay với cộng đồng trên toàn thế giới vì mục tiêu chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Đối với vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước ta đã có những phương thức hoạt động cụ thể sau: 1.2.2.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em Để bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em trước hết phải thông qua hoạt động xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật vì không có pháp luật thì không có cơ sở pháp lý để bảo vệ, bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em bởi lẽ không có gì thúc đẩy sự vi phạm quyền riêng tư của trẻ em hơn là tình trạng thiếu pháp luật hoặc pháp luật dựa trên cơ sở không khoa học. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em không chỉ nhằm ghi nhận các quyền con người tự nhiên, vốn có của trẻ em mà còn 7
- tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các biện pháp thúc đẩy và bảo vệ các quyền riêng tư của trẻ em trên thực tế. Bằng các quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân và gia đình thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình đảm bảo trẻ em được tiếp cận và hưởng thụ đầy đủ các quyền riêng tư hợp pháp đồng thời là công cụ hữu hiệu để trẻ em tự bảo vệ quyền lợi của mình. Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong xây dựng hệ thống pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em. Hiến pháp là đạo luật có giá giá trị pháp lý cao nhất, trong đó quyền riêng tư của trẻ em được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm; là cơ sở, là tiền đề cho các hoạt động bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, của nhà trường, gia đình và của chính bản thân trẻ em. Quốc hội ban hành các đạo luật quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc cho việc bảo đảm quyền của trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng như: Luật Trẻ em, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Lao động, Bộ Luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Hộ tịch, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Hòa giải ở cơ sở... Trong đó, Luật Trẻ em là tiền đề quan trọng cho việc triển khai, xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan đến bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. 1.2.2.2. Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em Thứ nhất, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Thứ hai, tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm hành chính về quyền riêng tư của trẻ em Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế Thứ tư, thực hiện các hoạt động tố tụng bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em 1.2.3. Các thiết chế xã hội bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam 1.2.3.1. Gia đình Gia đình luôn giữ vai trò hàng đầu và là yếu tố quyết định đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối với nguyên tắc tôn trọng quyền riêng tư, nhiều bậc phụ huynh chưa nhận ra được tầm quan trọng, sự cần thiết và cách hiểu đúng đắn về vấn đề này, gây ra sự phức tạp trong diễn biến tâm lý của con trẻ, đặc biệt ở giai đoạn dậy thì và dẫn đến mâu thuẫn giữa phụ huynh và trẻ em. Bước vào giai đoạn vị thành niên, hình thành nhân cách và cá tính riêng biệt, trẻ dần tách khỏi cha mẹ và trở nên độc lập hơn. Giống như những người trưởng thành, các em cũng có những bí mật muốn giữ cho riêng mình. Khi ấy cha mẹ cần phải tư duy để phân định đúng đắn, rạch ròi giữa ranh giới của sự “quan tâm” và “kiểm soát”. Đặt mình vào vị trí của con trẻ, thấu hiểu tâm lý, tôn trọng quyền riêng tư của con trên cơ sở của sự quan tâm và chăm sóc. Nhưng vẫn dành cho con không gian riêng để tự khám phá chính mình. Chính vì vậy, trong gia đình, việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được thực hiện một cách khoa học, với những kiến thức, kỹ năng phù hợp. 1.2.3.2. Trường học Trường học chính là nơi chiếm thời gian lớn nhất trong quỹ thời gian toàn phần của trẻ. Nói đến vấn đề giáo dục, hình thành tư duy, nhận thức và nhân cách cho trẻ em, bên cạnh gia đình không thể bỏ qua trường học. Sự phối kết hợp giữa hai nhân tố này có vai trò vô cùng to lớn ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ và lựa chọn phản ứng, hành xử của con trẻ trước các vấn đề trong cuộc sống. Chính vì vậy, tại nơi con trẻ dành nhiều thời gian nhất với tầm ảnh hưởng về giáo dục, định hướng quan trọng nhất. Vấn đề tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em tại trường học càng nên được đề cao và thực hiện một cách khoa học, đúng đắn. Bởi bảo đảm quyền riêng tư tại môi trường này không đơn giản 8
- chỉ là một cách hành xử thể hiện sự tôn trọng có văn hoá, mà còn trở thành bài học giáo dục có hệ thống cho trẻ em trên toàn xã hội. 1.2.3.3. Các tổ chức xã hội Hiện nay, trên thế giới và tại Việt Nam có rất nhiều các tổ chức quan tâm đến vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Có thể kể tên như Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF, Mạng bảo vệ quyền trẻ em (CRnet), Các tổ chức bảo vệ trẻ em trên không gian mạng (CHI – Đường dây hỗ trợ trẻ em quốc tế), Hội bảo trợ quyền trẻ em Việt Nam… có vai trò gây dựng nên một cộng đồng nhỏ tồn tại trong lòng cộng đồng lớn để kêu gọi, tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em – đối tượng dễ bị tổn thương cần sự quan tâm đặc biệt từ xã hội. Thông qua các hình thức tổ chức của mình, trước hết thực hiện tuyên truyền, vận động, giáo dục về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; phát triển phúc lợi xã hội cho trẻ em, tạo cơ hội thuận lợi để trẻ em thực hiện quyền, bổn phận và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; cung cấp dịch vụ chăm sóc, trợ giúp trẻ em. Bên cạnh đó, các tổ chức đóng vai trò là một thiết chế xã hội đặc biệt tạo ra tiếng nói riêng đại diện cho lợi ích của con trẻ, góp phần đóng góp ý kiến trực quan, bổ sung và thay đổi tư duy của các nhà quản lý, cơ quan chức năng và nhà làm luật để điều chỉnh và đưa ra được những quy phạm cụ thể, hợp lý sát với tình hình thực tiễn, bảo đảm pháp luật luôn vì con người nói chung và vì sự an toàn và phát triển của trẻ em nói riêng. 1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM 1.3.1. Yếu tố nhận thức Có nhiều lý do chứng minh suy nghĩ chủ quan dẫn đến hành động của trẻ về vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của chính bản thân mình là nhân tố đặc biệt quan trọng. Trước tiên, trẻ em cần có nhận thức đúng đắn về vấn đề bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Các em phải phân biệt rành mạch được giữa những hoạt động cần sự độc lập và riêng tư với những hoạt động nên tham khảo ý kiến của những người trưởng thành Sự nhận thức dẫn đến suy nghĩ, quyết định và sự tham gia ý kiến của trẻ em vào vấn đề bảo đảm quyền riêng tư. Sự tham gia của trẻ em cũng ghi nhận thay đổi từ quan điểm trẻ em “là người hưởng lợi” của các can thiệp của người lớn sang quan điểm tôn trọng nguyên tắc trẻ em cũng có quyền. Đồng thời, sự tham gia là một phương tiện quan trọng để trẻ em đươc sống trong xã hội như những công dân năng động và góp phần thay đổi mối quan hệ quyền lực giữa trẻ em và người lớn. Để xác định được đâu là lợi ích tốt nhất cho trẻ em, điều quan trọng là bản thân đứa trẻ phải có quyền được nêu ý kiến của mình, được tôn trọng và phải được lắng nghe. Càng lớn và trưởng thành hơn, trẻ em càng phải được có quyền hơn trong việc gây tác động và trực tiếp quyết định. Để quyết định như thế nào là lợi ích tốt nhất cho trẻ em luôn cần có sự tham gia thực sự của các em trong quá trình ra quyết định, nếu không tham khảo ý kiến của trẻ sẽ dẫn đến những kết luận mang tính sai lệch và cho kết quả không tốt cho các em. 1.3.2. Yếu tố truyền thống Tình cảm gia đình là giá trị bền chặt gắn kết các thành viên trong gia đình lại với nhau, mọi sự hành xử xảy ra trong môi trường gia đình chúng ta vẫn luôn lầm tưởng đó chỉ là sự quan tâm và chăm sóc. Có thể làm rõ điều đó thông qua so sánh sự khác biệt trong tư tưởng giữa văn hoá phương Tây và văn hoá phương Đông. Thứ nhất, là về phương thức sống, kể từ khi mới sinh, người phương Tây đã giáo dục con cái của mình theo lối sống tự lập, nhưng người phương Đông quan niệm phải luôn theo sát, giúp đỡ con trẻ. 9
- Thứ hai, là cách thức giao tiếp với con trẻ, người phương Tây xác định tư tưởng coi con cái giống như một người bạn của mình, họ đối xử với con mình bình đẳng như một người trưởng thành. Còn với người phương Đông, gia đình có gia phong là gia đình mà con trẻ phải biết lề lối trên dưới. Chính sự yêu thương ấy dẫn đến tư tưởng phải quan tâm đùm bọc, bảo vệ con trẻ từ những chi tiết rất nhỏ, người lớn cho mình quyền chi phối toàn bộ quyết định của con trẻ với tinh thần “bảo đảm sự an toàn” cho các em. Và có những hành động xâm phạm đến quyền riêng tư của trẻ em bằng chính những yêu thương đó mà không hề hay biết. 1.3.3. Yếu tố kinh tế Sự chuyển đổi tất yếu của kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã đem đến những thành tựu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống mang lại những ảnh hưởng tích cực, tạo ra sự phát triển của đời sống xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày một nâng cao. Nhưng mặt khác, kinh tế thị trường cũng đem đến những tác động tiêu cực đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là nhận thức về quyền riêng tư như: (i) Tôn trọng quyền tự do dân chủ cá nhân là điều luật pháp bảo vệ và mọi công dân phải chấp hành, là một nguyên tắc xây dựng gia đình hiện đại ở nước ta. Nhưng sự đòi hỏi về quyền, lợi ích, tự do cá nhân của con cái có trường hợp đã bị đẩy lên thành chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, từ sự thiếu hiểu biết, chín chắn của trẻ, từ việc chúng nghe theo lời bạn bè thúc đẩy, trong việc học hành, chọn nghề, vui chơi, đòi tiền cha mẹ chi tiêu, đòi sắm những thứ đắt tiền...; (ii) Con cái thường có xu hướng muốn tách khỏi sự kiểm soát của cha mẹ, mặc dù còn đi học, chưa trưởng thành. Đây là sự tiếp thu không phù hợp với thực tế từ văn hoá phương Tây. Con cái 15, 16 tuổi đã thích cha mẹ cho ở riêng, cha mẹ phải thuê căn hộ riêng cho con sống và cung cấp tài chính để chúng ăn học, sinh hoạt. Hiện nay, ở Việt Nam, đã có một số gia đình công chức cao cấp, nhà buôn giàu có thuê những căn hộ riêng cho con cái ở, mặc dù chúng còn đang học hành, còn sống phụ thuộc vào cha mẹ về tài chính. Và nhiều bậc cha mẹ đã bị “sốc” trước những sự cố, như sự sa sút đạo đức, tư cách của con cái khi chúng trở thành những kẻ hư hỏng, chơi bời và phạm tội; (iii) Quá trình xã hội hóa trẻ em, đó là quá trình cá thể hóa con người, hình thành nhân cách cá nhân, hình thành cái tôi riêng biệt. Trước sự đòi hỏi tăng lên của quyền tự quyết cá nhân, gia đình cần cố gắng thỏa mãn trong điều kiện cho phép, tuỳ theo lứa tuổi. Bởi vì, điều đó ảnh hưởng đến sự hình thành đầu óc suy nghĩ độc lập, sáng tạo của con cái cũng như lòng yêu thương, tin cậy của chúng đối với cha mẹ. 1.3.4. Yếu tố ý thức pháp luật Thực tế không thể phủ nhận, ngày nay đời sống của các tầng lớp nhân dân đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự nâng lên của trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói riêng. Nhân dân ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có những tiến bộ rõ rệt. Người dân đã tiếp thu khá nhiệt tình, tích cực sự tuyên truyền pháp luật từ phía các cơ quan, ban ngành cũng như hưởng ứng nhiệt tình các cuộc vận động pháp luật. Vì vậy, nhân dân đã nhận thức sâu sắc hơn hành vi của mình để có thể thực hiện tốt hơn những quy định của pháp luật. Tuy vậy, bên cạnh đó ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, trình độ nhận thức pháp luật còn yếu kém. Kiến thức pháp luật của nhân dân, đặc biệt những vùng nông thôn, miền núi còn thấp. Rất nhiều người tham gia pháp luật mà không biết những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Chính vì vậy, tình trạng người dân vi phạm pháp luật ở nước ta ngày càng tăng. Tất cả những điều đó đã và đang giáng một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay ở nước ta. Những vi phạm đó phải chăng xuất phát rất nhiều từ vấn đề ý thức pháp luật của quần chúng. 10
- Chính vì vậy, trong bối cảnh tâm lý truyền thống về sự yêu thương, quan tâm con cái trong gia đình cùng với ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế, dẫn đến sự bảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp của Trẻ em nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng chưa được đảm bảo thực hiện một cách nghiêm túc. Tiểu kết chương 1 Quyền riêng tư là một trong những cơ bản của con người, là nền tảng để tôn trọng phẩm giá con người cùng với các giá trị khác, được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo vệ. Như mọi công dân khác trong xã hội, trẻ em phải được đối xử công bằng, được tôn trọng các quyền cơ bản trong đó có quyền riêng tư. Đặc biệt trong bối cảnh của sự phát triển và hội nhập của thời kì công nghệ số hiện nay, quyền riêng tư của trẻ em – nhóm đối tượng dễ bị tổn thương cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc và được dành nhiều sự quan tâm hơn nữa. Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích, tại chương này, này Luận văn đã chỉ ra khái niệm cũng như đặc điểm quyền riêng tư của trẻ em, nội dung cũng như các thiết chế xã hội và các yếu tố để bảo đảm quyền này được thực hiện. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM 2.1.1. Các quy định về quyền riêng tư của trẻ em Việt Nam là một trong những quốc gia sớm quan tâm đến việc bảo vệ quyền trẻ em, là nước đầu tiên của Châu Á và là nước thứ hai thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Điều 16, Công ước Quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “1. Không trẻ em nào phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh của các em. 2. Trẻ em có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp hay công kích như vậy”. Về vấn đề bảo đảm bảo quyền riêng tư, Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định: "(1) Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đinh; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của minh. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đỉnh được pháp luật bảo đảm an toàn. (2) Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hỉnh thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hỉnh thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác". Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác (khoản 1, khoản 2 Điều 38). Luật Trẻ em năm 2016, chính thức có hiệu lực từ ngày 1/6/2017 đây là cơ sở pháp lý và cũng là việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện các quyền trẻ em trong tình hình mới; đồng thời cũng quy định trách nhiệm thực hiện các cam kết theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em của Việt Nam. Luật quy định trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, 11
- bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư (Điều 21). Khoản 2 Điều 54 Luật này quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em theo quy định của pháp luật”. Theo Điều 6 Luật Trẻ em năm 2016, hành vi công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em là hành vi bị nghiêm cấm. Luật Trẻ em 2016 có điểm mới đáng chú ý nhất là chương “Trách nhiệm bảo vệ trẻ em trong môi trường mạng”. Đây là vấn đề xã hội mới giữa bối cảnh nhà nhà đều kết nối internet và sử dụng điện thoại thông minh. Thế nhưng, thực thi điều ấy như thế nào, lại là câu hỏi không đơn giản. Ngày 9/5/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 1/7/2017, quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em. Điều 33 giải thích rõ thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: Tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em. Khoản 3 Điều 35 trong Nghị định 56/2017 cũng nhấn mạnh: “Doanh nghiệp kinh doanh, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng phải cảnh báo hoặc gỡ bỏ thông tin, dịch vụ gây hại cho trẻ em, thông tin, dịch vụ giả mạo, xuyên tạc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em”. Như vậy, cộng đồng cũng có cơ sở để góp tay thực hiện Luật Trẻ em. Khi phát hiện những biểu hiện vi phạm Luật Trẻ em ai cũng có quyền yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ mạng gỡ bỏ thông tin, hình ảnh mà không cần văn bản đề nghị của cơ quan chức năng. 2.1.2. Các quy định về các biện pháp chế tài với hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em Hiện nay chưa có Nghị định mới về xử phạt vi phạm hành chính về quyền trẻ em, trong đó có hành vi vi phạm về quyền riêng tư của trẻ em. Nghị định 144/2013/NĐ-CP hiện hành quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em không có quy định cụ thể về xử lý hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em. Tuy vậy, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, có thể căn cứ vào những quy định pháp luật khác có liên quan để xử lý đối với hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em. Chẳng hạn, đối với hành vi vi phạm quyền riêng tư của trẻ em trên môi trường mạng, có thể căn cứ vào Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 49/2017/NĐ-CP). Theo đó, đối với vi phạm về trang thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tổng hợp liên quan đến hành vi tiết lộ bí mật đời tư hoặc bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức có liên quan trừ trường hợp pháp luật quy định thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng (điểm b khoản 2 Điều 64). Đối với vi phạm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội liên quan đến hành vi tiết lộ bí mật đời tư hoặc bí mật khác khi chưa được sự đồng ý của cá nhân, tổ chức có liên quan trừ trường hợp pháp luật quy định thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. 12
- Đối với vi phạm của thành viên gia đình tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình (trong đó có trẻ em) nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình; phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân thì bị xử phạt từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với mỗi hành vi vi phạm theo khoản 2 Điều 51 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. 2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2.1. Từ phía gia đình Thực tế những năm gần đây cho thấy, các quyền này của trẻ em chưa thật sự được tôn trọng, và tình trạng trẻ em bị xâm phạm quyền riêng tư diễn ra ngày càng có xu hướng nghiêm trọng. Đáng nói, người xâm phạm quyền riêng tư của trẻ có khi lại là chính bố mẹ, người thân mà chính bản thân họ không hề hay biết. Nguyên nhân xuất phát và bắt nguồn từ 3 phương diện từ “tình cảm”, “tâm lý” dẫn đến“hành vi”. Trước hết về yếu tố “tình cảm” trong mối quan hệ gia đình. Khởi nguồn văn hoá cộng đồng của người Việt Nam, với lối sống gắn bó và trọng ân nghĩa. Ở phương diện pháp luật, có nhiều mối quan hệ tình cảm được phân xử và điều chỉnh rõ ràng bằng văn bản quy định cụ thể. Nhưng mặt khác, rất khó để đem pháp luật ra để điều chỉnh những hành động xuất phát từ tình cảm ruột thịt giữa cha mẹ - con cái. Từ “tình cảm” dẫn đến phương diện thứ hai đó là “tâm lý”, chính vì thế một số cha mẹ có khuynh hướng bao bọc hay bảo vệ con cái cách thái quá. Và đôi khi sự quá khích trong hành xử sự việc đó sẽ là một sai lầm thực sự. Các vị phụ huynh cần nắm vững đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ để làm căn cứ hành xử trong mối quan hệ gia đình để làm sao vẫn có thể quan tâm các em sát sao, kịp thời, đúng lúc nhưng vẫn bảo đảm tôn trọng quyền riêng tư của con em mình. Chính vì vậy, phụ huynh cần tìm hiểu và nhận biết tâm lý con trẻ qua từng thời kì, từng giai đoạn, từng môi trường trong các bối cảnh phát triển cụ thể của xã hội để định hướng hài hoà nhân cách cho các em. Nếu hiểu không đúng, vô tình cổ vũ những thói hư tật xấu, đi ngược với chuẩn mực đạo đức và thuần phong mỹ tục của Việt Nam hoặc phản ứng trái chiều là cấm đoán vô lối, vi phạm quyền riêng tư của trẻ dù trong tâm lý không hề ý thức được điều này. Có 4 nguyên tắc nên tuân thủ trong giao tiếp và đối thoại với trẻ: 1. Hiểu biết về trẻ và vấn đề của trẻ; 2. Làm bạn và chia sẻ với trẻ (không dạy dỗ kiểu thuyết giáo, bề trên); 3. Thật lòng với trẻ; 4. Vì lợi ích của trẻ. Thứ ba là “hành vi”, từ “tình cảm” “gần gũi, gắn bó với “tâm lý” lo lắng, bao bọc. Dẫn đến hành vi của phụ huynh với quan niệm cho rằng “con mình thì mình có quyền” cho nên không ít phụ huynh khá thoải mái trong cách cư xử với con tại ngôi nhà của mình. Bên cạnh đó, các em ở lứa tuổi vị thành niên cũng có quyền được giữ sự riêng tư về mặt cảm xúc. Các bậc cha mẹ nên tôn trọng sự riêng tư này, không nên cố khai thác những điều mà trẻ hoàn toàn không muốn chia sẻ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bỏ rơi trẻ, hãy quan sát diễn biến tâm lý của trẻ để luôn theo dõi và xử lý kịp thời những vấn đề đang xảy ra xung quanh các em Như vậy có thể thấy rằng, quyền riêng tư, bí mật đời tư là quyền của tất cả mọi người, ai cũng có quyền này, không riêng gì trẻ em. Tôn trọng quyền riêng tư, bí mật đời tư góp phần bảo vệ nhân phẩm, sự tự do và an toàn cho bản thân cũng như người khác. 2.2.2. Từ phía trường học Hành động vi phạm quyền riêng tư phát sinh từ những hành động tưởng chừng như vô hại trong môi trường giáo dục. Giai đoạn gần đây, truyền thông tưởng chừng như bội thực với những nguồn tin không mấy 13
- tích cực tại học đường về vấn đề thành tích. Nhiều ý kiến cho rằng ngành giáo dục không nên công khai điểm số, hạnh kiểm, điểm thi của học sinh. Đó là một cách tôn trọng quyền riêng tư của học sinh. Thực tế, năm nay Bộ GD - ĐT cũng lường trước phản ứng trái chiều của dư luận về việc công khai điểm thi, nên mỗi thí sinh được cấp một mã số báo danh, mật khẩu để biết thông tin của mình. Tuy nhiên, để đảm bảo yếu tố minh bạch, tránh việc người đậu, kẻ rớt sẽ có sự nghi kỵ lẫn nhau và nghi ngờ về sự minh bạch của công tác chấm thi, nên cho phép tra cứu điểm thi theo số báo danh hoặc họ tên mà không cần mật khẩu. Đặc biệt, một số Sở đã gửi các dữ liệu điểm thi cho báo chí, để thí sinh có thể tra cứu điểm thi trên các trang báo. Chính việc này đã gây tranh cãi trong dư luận những ngày qua. Tuy nhiên bên cạnh quan điểm đó cũng có những luồng ý kiến trái chiều. Chia sẻ quan điểm của mình, với tư cách là những thí sinh vừa trải qua kỳ thi THPT quốc gia một số em học sinh lại cho rằng việc công khai điểm thi là cần thiết, để đảm bảo tính rõ ràng và minh bạch. Theo các em, điều quan trọng nhất là thái độ ứng xử của mọi người trước những thông tin về điểm số ấy. Nếu bỏ qua sự ganh tị, tâm lý mặc cảm, thì những bạn đạt điểm cao có cơ hội được tôn vinh, còn những bạn có điểm thấp sẽ lấy đó làm động lực để cố gắng hơn nữa. 2.2.3. Từ phía xã hội Một trong những vấn đề nổi cộm, cần chú ý nằm trong nội hàm bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em. Đó là vấn đề xâm hại trẻ em, vấn nạn ngày càng trở nên nhức nhối hơn bao giờ hết bởi rất nhiều vụ việc được phanh phui. Những câu chuyện đau lòng chính là hồi chuông báo động cho những ai làm cha làm mẹ, cho cộng đồng xã hội và hệ thống pháp luật Nhà nước cần phải quan tâm đến từng cá nhân dễ bị tổn thương và xâm hại trong cộng đồng này. Đây là sự việc mà khi nhắc đến, bất cứ ai cũng phải sôi sục. Nhưng trong xã hội, người ta vẫn còn thấy quá nhiều biểu hiện của sự im lặng. Chia sẻ về vấn đề này nhiều người cho đây là vấn đề đơn giản, là câu chuyện của trẻ con, không đáng bận tâm nên vẫn tồn tại sự im lặng đến vô cảm. Nhưng thực chất, đây là vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Có hàng trăm câu chuyện vô cùng đau xót của nhiều gia đình, có người tìm được công lý, nhưng cũng có người quá mệt mỏi, tuyệt vọng mà phải chịu thua. Bên cạnh đó, trẻ em vừa là đối tượng phản ánh của báo chí, vừa là đối tượng hưởng thụ các sản phẩm của báo chí và truyền thông, đồng thời cũng là đối tượng tham gia sáng tạo các sản phẩm của báo chí. Như vậy, trẻ em là nhóm công chúng đặc biệt của báo chí, truyền thông nói chung và hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam nói riêng. Vì vậy, thông qua việc đăng tải thông tin vi phạm các quyền riêng tư của trẻ mà báo chí cũng được xếp vào nhóm có khả năng gây nhiều tổn thương cho trẻ. Từ hệ lụy khó lường của việc xâm phạm quyền riêng tư của con trẻ, bên cạnh sự hỗ trợ của luật pháp, thì chính cha mẹ các em cần tự ý thức về nguy cơ con mình có thể bị xâm hại quyền riêng tư bất cứ lúc nào, để từ đó, giáo dục và định hướng cho con em các kỹ năng sống cần thiết, cũng như ý thức về giá trị của bản thân để tự bảo vệ, ngăn chặn nguy cơ xâm phạm quyền riêng tư của mình. 2.2.4. Từ phía Nhà nước Bên cạnh việc tham gia Công ước về Quyền trẻ em và tiến hành đưa nội dung các quy phạm điều ước quốc tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước thông qua việc xây dựng, ban hành (sửa đổi, bồ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới) văn bản quy phạm pháp luật trong nước để có nội dung pháp lý đúng với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết về vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Mặt khác, Nhà nước đã và đang có các biện pháp hỗ trợ các tổ chức tăng tối đa sự tham gia của người chưa thành niên một cách dân chủ, giúp cho người chưa thành niên phát triển các kỹ năng sống cần thiết, 14
- tăng cường sự tự tin, cung cấp không gian cần thiết cho các em được bảo đảm và tôn trọng quyền riêng tư, tham gia ý kiến một cách độc lập và tích cực vào đời sống xã hội. Ngoài ra, Nhà nước cũng đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Song song với việc khuyến khích, tạo điều kiện đảm bảo và tôn trọng quyền riêng tư, tạo ra một môi trường thân thiện để các em phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Nhà nước còn đảm nhận vai trò tham gia giám sát của mình trong việc đấu tranh phòng chống, ngăn chặn các nguồn thông tin có hại cho lợi ích, sự phát triển của trẻ em nói riêng và xã hội nói chung 2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân 2.3.1.1. Ưu điểm Thứ nhất, hệ thống luật pháp, chính sách không ngừng được hoàn thiện theo hướng tiếp cận toàn diện dựa trên quyền trẻ em. Thứ hai, trong hệ thống pháp luật đã có quy định cụ thể về quyền riêng tư của trẻ em Thứ ba, ngân sách nhà nước và những nguồn lực khác đã dành một khoản đầu tư đặc biệt cho công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2.3.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm Một là, xác định vấn đề bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Hai là, trong bối cảnh môi trường nhiều biến động, nhận định được tầm quan trọng của quyền riêng tư. Là một trong những quyền con người, quyền công dân cơ bản được pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia công nhận và bảo vệ. Quyền riêng tư đối với trẻ em lại càng được đặc biệt chú trọng. Ba là, nhận thức về vai trò của bảo đảm quyền riêng tư nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung từ cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân đang dần hoàn thiện, xác định nhiệm vụ bảo đảm quyền và lợi ích của các em là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không còn là trách nhiệm riêng của Nhà nước, Trung ương. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong quy định pháp luật về quyền trẻ em và quyền của người chưa thành niên. Thứ hai, pháp luật Việt Nam chưa có quy định riêng biệt về bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng về mức độ can thiệp của cha mẹ, người giám hộ trong việc bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em. Thứ tư, chưa có quy định về trách nhiệm của báo chí, truyền thông trong việc khai thác thông tin về đời tư của trẻ em. Thứ năm, phạm vi và nội hàm đặc trưng của bảo đảm quyền riêng tư không được quy định rõ ràng dẫn tới có nhiều vướng mắc trên thực tiễn. Thứ sáu, việc xác định các hành vi nào là xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em hay không xâm phạm còn chưa có những hướng dẫn, tiêu chí cụ thể mà chủ yếu nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành. Thứ bảy, chưa có chế tài cụ thể để làm căn cứ xử lý hành vi vi phạm. 15
- 2.3.2.2. Nguyên nhân Một là, quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể. “Quyền riêng tư” không đồng nhất với “quyền bí mật đời tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề ở quyền riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc phù pháp luật vẫn bảo hộ những quyền này. Vậy nên việc xác định được nội dung của quyền riêng tư, phạm vi bảo đảm quyền vẫn còn nhiều khó khăn, khúc mắc. Dẫn đến việc, pháp luật Việt Nam mới chỉ có chế tài điều chỉnh về quyền bí mật đời tư. Hai là, trên cơ sở phân tích yếu tố văn hoá đặc trưng của người phương Đông, việc chăm lo quan tâm con cái dường như là thiên chức của những người làm cha làm mẹ. Mối quan hệ thân thiết của truyền thống gia đình. Nhận định của họ giữa việc tôn trọng sự riêng tư của con và bảo vệ con cái của mình trước những hiểm nguy của xã hội vẫn chưa thực sự rạch ròi. Ba là, trong thế giới của báo chí, trẻ em được sống trong những nhịp đập nóng hổi của thời đại, quốc gia, cộng đồng. Nhờ báo chí, trẻ em có điều kiện tiếp xúc kịp thời, tích cực trước những sự kiện chính trị - kinh tế - văn hoá - xã hội của thế giới, đất nước. Báo chí có sức mạnh tập hợp sự quan tâm của cộng đồng vô cùng to lớn đến con trẻ. Bốn là, việc xác định nội hàm về đặc trưng của bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em chưa được quy định rõ ràng sở dĩ vấn đề về bảo đảm quyền riêng tư còn chưa đi đến sự thống nhất. Tiểu kết chương 2 Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa của vấn đề bảo đảm quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư của trẻ em nói riêng đối với sự phát triển của xã hội. Tại phần này, luận văn nêu và phân tích một cách toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam, các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư và thực trạng áp dụng pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở đó, Luận văn đã chỉ ra và phân tích những nguyên nhân làm phát sinh thực trạng trên, trong đó đặc biệt chú trọng đến những nguyên nhân về mặt pháp lý. Cụ thể là do quy định về quyền riêng tư của trẻ em trong các văn bản thiếu sự thống nhất và đồng bộ tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, các quy định mới chỉ dừng lại ở tính nguyên tắc, có rất ít các quy định mang tính cụ thể hướng dẫn việc bảo đảm quyền này, một số quy định về quyền này không đủ tính khái quát và dự báo sự phát triển của xã hội nên tồn tại khoảng trống trong đó có những quan hệ xã hội liên quan đến quyền không được pháp luật điều chỉnh. Ngoài ra, các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền cũng như các chế tài để xử lý hành vi xâm phạm trên thực tế còn thiếu và chưa đủ tính răn đe người có hành vi xâm phạm. Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG TIẾP TỤC BẢO ĐẢM QUYỀN RIÊNG TƯ CỦA TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền riêng tư của trẻ em Thứ nhất, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về bảo đảm quyền riêng tư cho trẻ em theo hướng mở rộng trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, trợ giúp xã hội, vui chơi, giải trí, thể thao, du lịch, thông tin, truyền thông. Xem xét và bổ sung nguyên tắc bảo đảm quyền riêng tư nói chung và quyền riêng tư 16
- của trẻ em nói riêng trên tất cả các lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật chứ không chỉ riêng vấn đề bảo đảm quyền riêng tư trong môi trường mạng mà Luật Trẻ em quy định hiện hành. Thứ hai, trong phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân gia đình nên xây dựng nguyên tắc tôn trọng ý kiến của trẻ em làm một trong những nguyên tắc cơ bản. Thứ ba, để đảm bảo quyền riêng tư của trẻ em trong các lĩnh vực cần bổ sung thêm điều khoản: Cử người giám hộ cho người chưa thành niên, hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Thứ tư, trong lĩnh vực truyền thông, cần sửa đổi Luật Báo chí theo hướng quy định chặt chẽ quy trình, thủ tục thu thập, xử lý và đăng tải thông tin thuộc quyền riêng tư. Thứ năm, trong lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính, bổ sung quy định cho phép người chưa thành niên tham gia vào trong các quyết định xử lý hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của các em như trong quá trình quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường… Thứ sáu, trong lĩnh vực điều chỉnh của Luật Tố cáo cần có văn bản hướng dẫn cơ chế thực hiện quyền tố cáo phù hợp với các đặc điểm đặc thù của người chưa thành niên. Thứ bảy, trong lĩnh vực hình sự nên bổ sung thêm điều khoản về cơ chế bảo vệ nhân chứng, bảo đảm bí mật thông tin đời tư trường hợp nhân chứng là trẻ em. Thứ tám, loại bỏ những quy định lạc hậu, mâu thuẫn, chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong vấn đề bảo bảo quyền riêng tư của trẻ. Thứ chín, ban hành một đạo luật về quyền đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Luật Bí mật đời tư 3.1.2. Bổ sung các điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em Thời gian vừa qua, qua nghiên cứu và rà soát pháp luật trên thế giới có thể có các hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ở Việt Nam hiện nay đó là: - Đề xuất nên có một Toà án riêng để bảo vệ quyền trẻ em. Trong các phiên tòa này, đứa trẻ sẽ được cách ly, có người giám hộ và luật sư, tất cả các hành động đều được thể hiện thông qua búp bê. Còn nếu tiếp tục những công đoạn như hiện tại, bắt trẻ em đối chất với người lớn, sẽ có nhiều vấn đề không được công khai, minh bạch do tâm lý biến động của con trẻ. Các vụ việc vi phạm đến quyền và lợi ích của trẻ em không được giải quyết dứt điểm và rất khó đi đến hồi kết. - Hoàn thiện các thiết chế bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em ví dụ như xây dựng một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm giám sát thi hành pháp luật và giải quyết các vụ việc xâm phạm đến quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. 3.1.3. Tiếp tục củng cố và phát huy các thiết chế xã hội bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em 3.1.3.1. Đối với gia đình Thứ nhất, bố mẹ nên chủ động trao đổi thẳng thắn với con về những câu chuyện xung quanh cuộc sống của trẻ trên tinh thần cảm thông và chia sẻ một cách chân thành. Thứ hai, trước một vấn đề của trẻ, hãy để con tự quyết định cách giải quyết. Cha mẹ có thể cùng con phân tích vấn đề, định hướng cho con những kết quả có lợi và có hại, sau đó, để con quyết định theo cách nhìn nhận riêng của bản thân. Thứ ba, phụ huynh nên tránh áp đặt con làm theo ý muốn của mình, tôn trọng những quan điểm của con, tránh xâm phạm thô bạo vào thế giới nội tâm thầm kín của trẻ. Tôn trọng quyền riêng tư của trẻ không có nghĩa là thả tự do cho trẻ, không can thiệp vào cuộc sống riêng, để trẻ tự làm theo ý mình. Nếu quyền riêng tư được thả quá đà sẽ dẫn đến sự thiếu tôn trọng bố 17
- mẹ/người thân, trẻ sẽ dễ bị sa ngã. Dạy con hiểu đúng về quyền riêng tư và biết cách bảo vệ quyền riêng tư là trách nhiệm của bố mẹ, hãy làmột người bạn của con, cảm thông và chia sẻ với con là cách tốt nhất để bảo vệ trẻ. Như vậy, chúng ta cần nhận thức được rằng quyền riêng tư của mỗi người là điều cần phải được tôn trọng. Trẻ em cũng có những bí mật của riêng mình. Để trẻ không còn giữ khoảng cách với bố mẹ, coi phụ huynh là nơi tin tưởng nhất để gửi gắm tâm sự thì trước hết các bậc cha mẹ nên tôn trọng trẻ, tôn trọng sự riêng tư của trẻ. Đó cũng là cách tốt nhất để giáo dục con cái có được nhận thức đúng đắn về quyền riêng tư của bản thân. 3.1.3.2. Đối với nhà trường Gia đình và nhà trường là hai môi trường sinh hoạt gần gũi nhất đối với trẻ. Giữa gia đình và nhà trường nên có sự liên kết chặt chẽ hơn nữa trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Phụ huynh nên là những người bạn của con em mình, cùng nhau chia sẻ những vấn đề của con chứ không nên áp đặt trẻ làm theo ý muốn, chủ động trao đổi, cảm thông với trẻ và điều quan trọng là hãy tôn trọng quyền riêng tư của trẻ. Nhà trường nên có những hoạt động giao lưu giữa thầy cô - học sinh - phụ huynh để giúp phụ huynh và con em có thể hiểu và chia sẻ cùng nhau. Thầy cô giáo không được xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học. Nếu vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Theo Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm các hành vi hành hạ, ngược đãi học sinh trong các cơ sở giáo dục (Điều 118). Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm “ngược đãi” học sinh, nhưng không định nghĩa thế nào là “ngược đãi” và cũng không rõ thuật ngữ này có bao gồm mọi hình thức trừng phạt thân thể hay không Đồng thời, nhà trường cũng nên phối hợp với Hội phụ huynh học sinh và các tổ chức xã hội khác để nâng cao nhận thức chung về việc bảo vệ quyền riêng tư của trẻ khi sử dụng Internet cũng như việc sử dụng hiệu quả các ứng dụng của mạng, phòng tránh các hiện tượng “nghiện Internet, nghiện Game online” của trẻ vị thành niên. Bảo vệ quyền riêng tư của trẻ khi sử dụng mạng Internet là việc làm rất cần thiết trong thời đại “công nghệ số” ngày nay. Công việc này không thể thực hiện trong một sớm một chiều, nó là yêu cầu phải có một khoảng thời gian nhất định 3.1.3.3. Đối với các tổ chức xã hội Cần một cơ chế rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội phát triển tổ chức, hoạt động, và phát huy vai trò của mình đặc biệt là trong việc tham gia các dịch vụ tư vấn định hướng tâm lý của trẻ, tôn trọng và bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em; có cơ hội đóng góp ý kiến xây dựng luật pháp chính sách về quyền riêng tư của trẻ em; tham gia giám sát việc thực hiện quyền riêng tư của trẻ, đồng thời phản ảnh ý kiến đến cơ quan quản lý Nhà nước về thực trạng bảo đảm và tôn trọng quyền riêng tư của trẻ để có thể đưa ra được những giải pháp tối ưu nhất khắc phục những mặt hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì vậy, đối với vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em nói chung và vấn đề bảo đảm quyền riêng tư của trẻ em nói riêng. Các tổ chức xã hội xác định rõ ràng vai trò và nhiệm vụ của mình như việc tham gia xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; về tổ chức kết nối mạng lưới hoạt động vì trẻ em; về thu thập thông tin, kiến nghị của các tổ chức xã hội và của trẻ em chuyển đến các cơ quan nhà nước để góp ý, tư vấn cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật, chính sách về quyền trẻ em; tham gia vào quá trình 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 457 | 66
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 340 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn