intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Chia sẻ: Tomhum999 Tomhum999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn cũng đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp. Điều này góp phần bổ khuyết cho những thiếu sót của những quy định trong pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp hiện tại, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP – TỪ THỰC TIỄN CƠ QUAN BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 838102 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI- NĂM 2020
  2. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 2 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP5 1.1. Bảo hiểm thất nghiệp ..................................................................................................... 5 1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................................... 5 1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ................................... 8 1.4. Khái lược lịch sử phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam ......................... 9 1.5. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.......................................................................................................... 10 Kết luận chương 1 ..................................................................................................... 12 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CƠ QUAN ................................................... 13 BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM ........................................................................... 13 2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN ................................................................. 13 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam ............ 13 Kết luận chương 2 ..................................................................................................... 16 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM ......................................................... 17 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ................................... 17 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp............................... 19 3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam.......................................................................................................... 20 Kết luận chương 3 ..................................................................................................... 23 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 24
  3. 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải đương đầu. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ; thất nghiệp còn làm tăng chi tiêu của Chính phủ, của doanh nghiệp và xã hội do phải thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp và các chi phí cho hoạt động đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc làm. Ở Việt Nam, thị trường lao động đang phát triển, nhưng thất nghiệp đã, đang và sẽ là vấn đề cấp thiết mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tập trung giải quyết. Trước yêu cầu cấp thiết cần phải có chính sách BHTN đối với người lao động ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH, trong đó quy định pháp luật về BHTN. Sau 4 năm thực hiện, ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm, trong đó các quy định pháp luật về BHTN đã được sửa đổi thay thế trong Luật BHXH và được thực hiện bắt đầu từ ngày 01/01/2015. Với nỗ lực bảo đảm ASXH của Đảng và Nhà nước ta, sự ra đời của Pháp luật về BHTN thực sự là một bước tiến lớn trong con đường phát triển của hệ thống ASXH của Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, một số văn bản pháp luật quy định về BHTN còn những hạn chế như chậm ban hành, chưa đồng bộ và còn chồng chéo; công tác quản lý BHTN còn nhiều bất cập. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ luật học của mình với mong muốn tìm ra những vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về BHTN trong cả nước nói chung và tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng từ đó làm cơ sở để tìm ra những giải pháp nhằm bảo đảm quyền được BHTN của NLĐ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Nghiên cứu về “Triển khai thực hiện chính sách BHTN ở Việt Nam” năm 2008 do Tiến sĩ Phạm Đình Thành - Viện khoa học BHXH - BHXH Việt Nam làm chủ biên; Nghiên cứu về “Những lý luận cơ bản về BHTN hiện đại” năm 2009 do tiến sĩ Trịnh Thị Hoa - Trung tâm Nghiên cứu khoa học, BHXH Việt Nam làm chủ biên; Nghiên cứu về “Lý luận về BHTN năm 2012 do Phó giáo sư - tiến sĩ Mạc Văn Tiến chủ biên; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Đánh giá và hoàn thiện cơ chế chính sách BHTN nhằm tăng cường tính bền vững” năm 2013 do Lê Quang Trung làm Chủ nhiệm; Luận văn thạc sĩ luật học “BHTN trong luật BHXH ở Việt Nam - Thực trạng
  4. 3 và giải pháp” (2014) của Ngô Thu Phương; Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay” (2017) của Dương Thị Nguyệt Khuê; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Hoàn thiện quản lý BHTN ở Việt Nam” năm 2018 do Tiến sĩ Đỗ Văn Sinh làm Chủ nhiệm. Ngoài ra, Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý như: “BHTN và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ”; “Những bất cập trong thi hành pháp luật về BHTN”; “Kết quả 6 năm thực hiện BHTN theo quy định của Luật BHXH”; “Những điểm mới về chính sách BHTN”... Qua các công trình nghiên cứu trên ở những giác độ khác nhau đã tiếp cận và nghiên cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu thực tiễn tại BHXH Việt Nam, một cơ quan đang triển khai thực hiện các chính sách về BHTN đối với NLĐ. Nghiên cứu Pháp luật về BHTN ở Việt Nam hiện nay qua thực tiễn tại BHXH Việt Nam sẽ góp phần tìm hiểu, làm sáng rõ cả về lý luận và thực tiễn, qua đó đặt ra những vấn đề cần có giải pháp để hoàn thiện pháp luật về BHTN nói chung và việc triển khai các chính sách pháp luật về BHTN tại cơ quan BHXH Việt Nam nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về BHTN; phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHTN. - Nhiệm vụ: Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về BHTN và pháp luật về BHTN ở Việt Nam. Thứ hai, tổng hợp, phân tích pháp luật về BHTN của một số quốc gia và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Thứ ba, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về BHTN - từ thực tiễn Bảo hiểm xã hội Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2019, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN. Thứ tư, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, trong tổ chức thực hiện pháp luật về BHTN thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, các yếu tố tác động đến pháp luật về BHTN; lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam; thực tiễn triển khai pháp luật về BHTN đối với NLĐ tại BHXH Việt Nam từ đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN - từ thực tiễn BHXH Việt Nam với khoảng thời gian từ 2009 đến năm 2019.
  5. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật nói chung và pháp luật về BHTN nói riêng. Nội dung nghiên cứu bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về vấn đề ASXH, với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa gắn với việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong đó có quyền được BHTN. - Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, quan điểm tiếp cận các vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. - Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm phương pháp lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp quy nạp - diễn dịch... 6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về BHTN - từ thực tiễn cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những bất cập, khó khăn trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật về BHTN. Bên cạnh đó, luận văn cũng đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHTN. Điều này góp phần bổ khuyết cho những thiếu sót của những quy định trong pháp luật về BHTN hiện tại, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về BHTN trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
  6. 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 1.1. Bảo hiểm thất nghiệp 1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp Ở nước ta, trong tiến trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, Đảng và nhà nước đã nhận thức từ ASXH là một trong những vấn đề cần phải được chú trọng. Vì thế, lần sửa đổi này đã mở rộng hơn đối tượng có quyền được bảo trợ. Cụ thể, tại Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm ASXH”. Hơn nữa, ASXH là mục tiêu, chính sách phát triển của mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy phúc lợi của người dân thông qua các biện pháp hỗ trợ đảm bảo quyền tiếp cận các nguồn lực đầy đủ trong đó có quyền được BHTN. Do đó, dưới góc độ nhân quyền, quyền được BHTN là quyền con người cần được quan tâm, bảo đảm, bảo vệ. Thực chất, đây là quyền lợi riêng nhưng được toàn thể xã hội chung tay bù đắp. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cách nhìn nhận về BHTN ở từng khía cạnh của đời sống xã hội. Ở Việt Nam, tính đến thời điểm trước ngày Luật việc làm ra đời 16/11/2013, chưa có một định nghĩa chính thức nào về BHTN được ghi nhận trong hệ thống các văn bản pháp quy. Còn nay, theo Luật Việc làm thì: “BHTN là chế độ nhằm bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi bi m ̣ ất việc làm, hỗ trợ NLĐ học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN” với khái niệm này cho thấy, BHTN là chế độ nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ bị thất nghiệp. So với tiêu chuẩn của Công ước 102 về Quy phạm tối thiểu về ASXH năm 1952 của ILO thì Luật Việc làm đã đưa ra khái niệm về BHTN tương đối toàn diện, đã thể hiện được bản chất của BHTN. 1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp Là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội nên BHTN cũng có các đặc điểm chung giống bảo hiểm xã hội như: Về đối tượng hưởng; Về điều kiện hưởng chế độ; Về nguồn hình thành quỹ; Về nguồn bảo đảm chi trả; Về căn cứ chi trả quyền lợi bảo hiểm. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung, BHTN cũng có những đặc điểm riêng nhất định như: NTN nhận trợ cấp trên cơ sở đóng BHTN; Đối tượng tham gia và hưởng BHTN; Trong chế độ BHTN, bên cạnh việc bù đắp thu nhập bị mất do mất việc làm còn có các chế độ như: Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; Hỗ trợ Học nghề; Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.
  7. 6 1.2. Khái quát chung pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Ở Việt Nam hiện nay, nguồn cơ bản của hệ thống pháp luật về BHTN là các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Án lệ về BHTN chưa được xem là một nguồn chính thức ở Việt Nam. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được xem là một nguồn chính thức, quan trọng nhất, bao gồm các quy định trong các văn bản như Hiến pháp, Luật Lao động, Luật Việc làm, Luật Bảo hiểm xã hội cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết liên quan như các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ trưởng... Bên cạnh các văn bản quy phạm do cơ quan có thẩm quyền ban hành, Điều ước quốc tế tương ứng mà Việt Nam đã tham gia cũng được xem là một nguồn pháp luật quan trọng về BHTN ở Việt Nam. Tính đến tháng 12/2010, Việt Nam đã phê chuẩn 17 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 2 Công ước ưu tiên đó là Công ước số 81 năm 1947 và Công ước 144 năm 1976. Như vậy, cho thấy, pháp luật về BHTN ở Việt Nam được tiếp cận theo góc độ hẹp. Ở khía cạnh tích cực, góc độ hẹp này sẽ cho phép tiếp cận được dễ dàng, tổng thể tất cả các vấn đề về BHTN. Từ những phân tích trên đây, cùng với bản chất của hoạt động BHTN, có thể đưa ra một khái niệm pháp luật về BHTN ở Việt Nam như sau: Pháp luật về BHTN là một chế định trong hệ thống các chế định bảo hiểm xã hội, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa NSDLĐ với NLĐ bị mất việc làm; giữa NLĐ thất nghiệp với cơ quan quản lý BHTN và các mối quan hệ khác có liên quan đến BHTN”. 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật BHTN mang các đặc điểm chung của pháp luật gồm: - Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. - Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. - Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức. Bên cạnh đó pháp luật BHTN còn có đặc riêng, bao gồm: - Pháp luật về BHTN mang tính an sinh xã hội, tính nhân văn. Nó đảm bảo phân tán rủi ro, san sẻ tài chính giữa gười lao động với người lao động, giữa người lao động với người sử dụng lao động và giữa những người sử dụng lao động với nhau. - Pháp luật về BHTN đã kết hợp nhiều phương pháp thực hiện để được đạt hiệu quả. Điều này xuất phát từ tính an sinh xã hội, tính nhân văn nên để phát huy tốt nhất
  8. 7 hiệu quả của pháp luật về BHTN. - Pháp luật về BHTN được xây dựng và hoàn thiện xuất phát từ điều kiện đặc thù mỗi quốc gia, văn hóa, tập quán pháp luật và điều kiện lịch sử của mỗi nước. 1.2.3. Chủ thể của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Tại Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm và Nghị định 28/2016/NĐ-CP quy định chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về BHTN gồm ba nhóm là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. Nhà nước, chủ thể đặc biệt trong quan hệ pháp luật về BHTN, Nhà nước tham gia với hai tư cách. Tư cách thức nhất, là Người sử dụng lao động. Tư cách thức hai, là chủ thể của quyền lực công và vai trò quản lý nhà nước, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về BHTN và chủ động triển khai, đảm bảo nó đi vào cuộc sống thông qua hoạt động thực hiện pháp luật về BHTN. Ngoài ra, nhằm đảm bảo an toàn xã hội ở mức tối thiểu, với chức năng quản lý xã hội, để tránh những bất ổn về chính trị, xã hội, vì mục tiêu phát triển, ổn định, bền vững, đòi hỏi Nhà nước phải có đóng góp nhất định vào quỹ BHTN. 1.2.4. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 1.2.4.1. Đối tượng tham gia BHTN Đối tượng tham gia BHTN là những người làm công ăn lương theo một thời hạn nhất định trong các đơn vị, doanh nghiệp. Về cơ bản, đối tượng này bao gồm: NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, quy định pháp lý cụ thể với từng nhóm đối tượng này không hoàn toàn giống nhau ở pháp luật của mỗi quốc gia và ở bản thân các điều ước quốc tế được ban hành theo những thời điểm khác nhau. 1.2.4.2. Điều kiện giải quyết BHTN Người thất nghiệp muốn được hỗ trợ, giải quyết quyền lợi BHTN thì phải tham gia BHTN. Tuy nhiên, trong số đó không phải ai tham gia cũng được được hưởng quyền lợi mà phải đáp ứng một số điều kiện: phải nộp phí BHTN trong một thời gian nhất định; phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do nhà nước quy định. - Người lao động bị thất nghiệp không phải do lỗi của họ Nghĩa là, NLĐ phải chứng minh trong thời gian làm việc, nguyên nhân thất nghiệp không phải ở họ, các hành vi dẫn đến thất nghiệp. - Người lao động phải có sổ bảo hiểm thất nghiệp: Sổ bảo hiểm thất nghiệp là văn bản do cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp phát hành. Đây là cơ sở pháp lý minh chứng sự tham gia BHTN của NLĐ.
  9. 8 1.2.4.3. Các nguyên tắc của BHTN trong pháp luật về BHTN Việt Nam Theo Điều 41 Luật Việc làm quy định nguyên tắc BHTN gồm: - Bảo hiểm thất nghiệp phải gắn liền trợ cấp thất nghiệp với giải quyết việc làm cho người thất nghiệp. Trợ cấp BHTN phải đảm bảo khuyến khích NTN chủ động tìm kiếm việc làm. Mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN. 1.2.4.4. Về quy trình hưởng bảo hiểm thất nghiệp - Người thất nghiệp phải đăng ký thất nghiệp; Nộp hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp; Được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp. - Tạm dừng và chấm dứt hưởng TCTN khi NLĐ vi phạm các quy định về điều kiện hưởng TCTN. - Hỗ trợ học nghề: NTN khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm lâu dài sẽ được trợ giúp việc làm và khuyến khích tự do lựa chọn việc làm có hiệu quả. 1.2.5. Vai trò của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 1.2.5.1. Pháp luật về BHTN là chỗ dựa cho NLĐ trong thời gian bi ̣mất việc, giúp họ có thể ổn định cuộc sống, có điều kiện học nghề và tìm việc làm mới 1.2.5.2. Pháp luật về BHTN góp phần ổn định kinh tế - xã hội, hạn chế những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường 1.2.5.3. Pháp luật về BHTN góp phần ràng buộc nghĩa vụ, đề cao trách nhiệm của NSDLĐ với NLĐ, nhất là khi họ đang chịu rủi ro là thất nghiệp 1.2.5.4. Pháp luật về BHTN là một trong những chính sách ASXH của nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng, công bằng xã hội 1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 1.3.1. Các yếu tố tác động đến việc xây dựng, ban hành pháp luật về BHTN - Nhu cầu xã hội: Mặt trái của nền kinh tế thi ̣trường đã và đang có những tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đứng vững trên thương trường đòi hỏi người kinh doanh phải có chiến lược, song không phải chiến lược kinh doanh nào cũng đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do đó, những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả buộc phải đóng cửa kéo theo hàng loạt NLĐ thất nghiệp. Trước những rủi ro tiềm ẩn đó, nhà nước cần phải có biện pháp kịp thời mang tính khả thi để đẩy lùi nạn thất nghiệp; vì vậy, việc xây dựng và ban hành pháp luật về BHTN là vấn đề mang tính cấp bách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người mất việc. - Chính sách của nhà nước: Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu hoàn thiện
  10. 9 hê ̣thống pháp luật, đáp ứng đòi hỏi do xã hội đặt ra, BHTN cũng là chính sách của nhà nước nhằm thực hiện công tác quản lý xă hội. Trong vai trò của người bảo trợ, Nhà nước ban hành chính sách BHTN nhằm hỗ trợ NLĐ khi bi m ̣ ất việc do các nguyên nhân khác nhau. Việc ban hành chính sách này sẽ phần nào giảm bớt khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời giúp NLĐ yên tâm, ổn định cuộc sống. - Nhận thức của nhà lập pháp: Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội. Trong lĩnh vực việc làm, pháp luật là phương tiện pháp lý để xác lập mối quan hệ giữa NLĐ, NSDLĐ, nhà nước; là công cụ, phương tiện hữu hiệu để quản lý, kiểm soát các vấn đề việc làm và bảo vê ̣chống thất nghiệp... Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả của pháp luật về BHTN cũng bị chi phối bởi trình độ, năng lực nhận thức của các nhà lập pháp. Vì thế, muốn phát huy hiệu lực, hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật về BHTN trong thực tế đòi hỏi Nhà nước phải có các cơ chế, biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiểu biết của nhà làm luật. - Sự ràng buộc của các cam kết quốc tế liên quan: Là một trong những quốc gia thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Việt Nam đã gia nhập một số Công ước liên quan đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho NLĐ. Do vậy, việc xây dựng và ban hành pháp luật về BHTN ở Việt Nam phải trên cơ sở tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh những Điều ước quốc tế đã tham gia hoặc ký kết. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về BHTN. 1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về BHTN - Vấn đề đóng phí và mức phí đóng BHTN: Do nguồn hình thành Quỹ BHTN xuất phát từ NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước, nên để pháp luật về BHTN được thực thi có hiệu quả, đòi hỏi phải có quy định cụ thể, phù hợp cho việc đóng phí và mức phí tham gia. - Quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN: Để việc thực hiện pháp luật về BHTN mang lại hiệu quả thì quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN cũng phải đơn giản, dễ thực hiện. - Công tác truyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Đây là công việc vô cùng quan trọng, là cầu nối từ khâu xây dựng, ban hành đến việc tổ chức thực hiện, đảm bảo cho pháp luật về BHTN triển khai có hiệu quả trên thực tế. 1.4. Khái lược lịch sử phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam 1.4.1. Giai đoạn trước năm 2013 Từ năm 1945, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy định về BHTN , nhưng phải đến ngày 29/6/2006, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Bảo hiểm xã hội,
  11. 10 đây là văn bản pháp lý cao nhất, toàn diện nhất từ trước đến nay được áp dụng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong đó có chế độ bảo hiểm dành cho NLĐ bị mất việc. Sau khi Luật ra đời, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn dưới luật quy định chi tiết việc thực hiện các chế độ về BHTN. 1.4.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay Ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm, tuy nhiên ngày 01/01/2015, Luật mới có hiệu lực. Cụ thể hóa các nội dung quy định về BHTN, ngày 12/3/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2015/NĐ-CP về hướng dẫn thực hiện Luật Việc làm. Trong những năm gần đây, Nhà nước và chính phủ đã ban hành một số văn bản sau: Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/04/2017 về phê duyệt “Đề án Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội, giai đoạn 2017-2025, tầm nhìn đến 2030” và Kế hoạch Hành động triển khai Đề án trợ giúp xã hội được ban hành vào năm 2019. Năm 2018, Nhà nước đã ban hành hai văn kiện mới có vai trò định hướng và xác định phạm vi của hệ thống ASXH tại Việt Nam, đặc biệt là về cải cách hệ thống ASXH: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về cải cách chính sách BHXH; Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày /2018 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ về triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018. 1.5. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 1.5.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Đức Chương trình BHTN ở Đức được triển khai từ năm 1927 và được cải cách vào năm 1969. Năm 2006, các dịch vụ cơ bản cho người thất nghiệp tiếp tục được mở rộng, với các chính sách giúp NTN trở lại thị trường lao động và giảm mức trợ cấp nếu NTN tái vi phạm việc không thực hiện các nghĩa vụ của mình. Một số trường hợp được tự nguyện tham gia BHTN. Ngoài các chế độ cơ bản, Quỹ BHTN còn chi trả trợ cấp ngắn hạn hay còn gọi là chương trình chia sẻ việc làm, được áp dụng nếu có cắt giảm lớn trong sản xuất, kinh doanh. Trợ cấp BHTN ngắn hạn sẽ bù lại một phần thu nhập bị mất do giảm giờ làm và có thể lên tới 60% số tiền lương ròng, hoặc bằng 67% trong trường hợp gia đình người lao động có con nhỏ. 1.5.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Nhật Bản Cơ quan quản lý bảo hiểm việc làm ở cấp trung ương do Cục an ninh việc làm, Bộ Y tế - Lao động và Phúc lợi quản lý. Còn ở cấp tỉnh, có 47 Sở Lao động quản lý bảo hiểm việc làm dựa vào các văn phòng làm việc địa phương (Hello Work) và đóng
  12. 11 vai trò là tuyến đầu trong giới thiệu việc làm, quản lý BHTN. Việc thu phí BHTN vào quỹ bảo hiểm việc làm với mức đóng góp 1,2% tiền lương được chia đều cho NLĐ và NSDLĐ do Cục an ninh việc làm đảm nhiệm. Nhà nước dùng ngân sách quốc gia để bổ sung cho quỹ bảo hiểm việc làm bằng 1/4 tổng chi phí của hệ thống bảo hiểm việc làm. Hệ thống bảo hiểm việc làm ở Nhật Bản có nhiều chính sách chủ động, nhiều chương trình và các chế độ trợ cấp thu nhập tạm thời giúp thúc đẩy quá trình tái làm việc và tuyển dụng NTN, bên cạnh các biện pháp xúc tiến việc làm hay đào tạo nghề… 1.5.3. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Thái Lan Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã đưa kinh tế Thái Lan vào tình trạng trì trệ với tỷ lệ thất nghiệp rất cao. Xuất phát từ tình hình thực tế, Thái Lan đã xây dựng và triển khai chương trình BHTN cho NLĐ. Chế độ BHTN của Thái Lan có một số đặc trưng, cụ thể: - Về đối tượng và phạm vi áp dụng: Đối tượng tham gia BHTN chính là đối tượng tham gia BHXH, gồm tất cả các doanh nghiệp có sử dụng từ 1 NLĐ trở lên. - Về mức đóng góp: Đóng góp BHTN được thu kể từ 01/01/2004; Người sử dụng lao động và NLĐ hàng tháng đóng một mức như nhau cho Quỹ BHTN là 0,5% mức tiền lương, Nhà nước đóng 0,25% quỹ tiền lương; - Về điều kiện hưởng BHTN: Đã đóng BHTN ít nhất 6 tháng trong vòng 15 tháng trước khi bị thất nghiệp; đăng ký thất nghiệp với cơ quan dịch vụ việc làm của Nhà nước; có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu một việc làm phù hợp; tham gia các khóa đào tạo nghề được giới thiệu... - Về mức hưởng BHTN: NLĐ có đóng BHTN bị sa thải được hưởng 50% tiền lương làm căn cứ đóng BHTN với thời gian hưởng không quá 180 ngày trong vòng 1 năm; NLĐ có đóng BHTN mà tự ý bỏ việc được hưởng 30% tiền lương làm căn cứ đóng BHTN và hưởng không quá 90 ngày trong vòng 1 năm và tổng số ngày hưởng BHTN vì thất nghiệp tự nguyện không quá 180 ngày. - Quy định về thất nghiệp: Thất nghiệp không phải vì những lý do không hoàn thành nhiệm vụ được giao, có hành động vi phạm tội chống lại NSDLĐ, cố ý gây thiệt hại cho NSDLĐ, vi phạm nghiêm trọng quy chế và kỷ luật lao động của NSDLĐ, bỏ làm 7 ngày liên tục mà không có lý do chính đáng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho NSDLĐ do bỏ làm, bị phạt tù, không hưởng lương hưu hàng tháng. 1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Qua nghiên cứu về BHTN ở một số nước trên thế giới, có thể thấy nội dung của chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHTN ở mỗi nước rất khác nhau, bao
  13. 12 gồm cả các công cụ của chính sách thị trường lao động chủ động và thụ động cũng như phương thức tài chính lập quỹ hoặc tọa thu – tọa chi khác nhau. Tuy nhiên, những bài học kinh nghiệm rút ra sau đây có thể được xem xét, nghiên cứu áp dụng trong quá trình thực hiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam: Thứ nhất, chính sách BHTN là một bộ phận quan trọng của chính sách thị trường lao động, vì vậy nó cần được đặt trong khuôn khổ của chính sách thị trường lao động. Thứ hai, cần phải quản lý chặt chẽ nguồn thu của quỹ BHTN thông qua việc xác định đúng đối tượng tham gia BHTN, thu đóng góp BHTN đầy đủ, kịp thời theo đúng quy định, hạn chế thất thoát nguồn thu vào quỹ BHTN. Thứ ba, tổ chức quản lý quỹ BHTN cần đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng cơ chế tài chính sao cho hạn chế và khắc phục được ảnh hưởng của các nhân tố từ môi trường kinh tế, giảm thiểu được sự gia tăng thất nghiệp, lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHTN cũng như việc chi trả các chế độ. Thứ tư, trên thực tế, thị trường lao động luôn có sự biến động về các yếu tố kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, do đó pháp luật về BHTN cần phải được điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động, đặc biệt chú trọng đến mức đóng góp và mở rộng dần các quyền lợi nhằm tác động đồng bộ đến cả cung và cầu trên thị trường lao động. Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng quy trình thực hiện thống nhất, tập trung để kiểm soát chặt chẽ từ đối tượng tham gia đến các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTN. Kết luận chương 1 Trước những đòi hỏi của cuộc sống, việc ban hành chính sách BHTN là vấn đề tất yếu. Bởi sự hiện hữu của nó đã giải quyết được những vấn đề mà cả xã hội đang phải đối mặt, đó là tình trạng thất nghiệp. Chính sách này ra đời phần nào đã giúp NLĐ thất nghiệp giảm bớt những thiếu hụt tài chính. Bên cạnh đó, BHTN còn là một trong những chính sách trụ cột của mỗi quốc gia, là biện pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo ASXH, góp phần giải quyết những bất ổn chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
  14. 13 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CƠ QUAN BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM 2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN 2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật về BHTN đã có nhiều điểm mới, cụ thể: Quy định rộng về đối tượng tham gia BHTN, đảm bảo được sự bình đẳng của các đối tượng tham gia, phù hợp hơn với các chuẩn mực quốc tế; Về việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho NLĐ trong quá trình họ thất nghiệp giúp họ có khả năng nâng cao trình độ, tăng cơ hội có việc làm; Điều kiện hưởng TCTN theo hướng có lợi cho người tham gia BHTN; Mức hưởng TCTN hàng tháng theo tinh thần không tạo ra sự cách biệt lớn giữa những người tham gia BHTN; Bỏ TCTN đối với những đối tượng đang bị tam giam, nhằm đảm bảo đúng mục đích chính sách ASXH. 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Pháp luật về BHTN vẫn chưa quy định đến tất cả các đối tượng cần thiết phải nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật về BHTN như nông dân, người nước ngoài. Quy định về trách nhiệm xác nhận chấm dứt hợp đồng lao động còn bị xem nhẹ, chưa có chế tài cụ thể để xử lý khi có vi phạm xảy ra, gây ảnh hưởng lớn cho quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Vẫn còn thiếu quy định về trách nhiệm thông báo tình trạng việc làm của NTN. Việc quy định căn cứ tính phí đóng góp vào quỹ BHTN dựa trên mức tiền lương, tiền công hàng tháng theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc dẫn tới nhiều bất cập. Cần điều chỉnh khung thời gian cho phép hưởng ba tháng trợ cấp nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng quyền lợi giữa các đối tượng tham gia. Và cần đặt ra những quy định về quyền thụ hưởng nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi đối tượng tham gia. 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam 2.2.1. Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam Ngày 05/01/2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT. Và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về BHXH, BHTN; của Bộ Y tế về BHYT; của Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ BHXH, BHTN, BHYT. 2.2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại cơ quan BHXH Việt Nam 2.2.2.1. Về đối tượng tham gia và tổ chức thu BHTN
  15. 14 Năm 2009, số người tham gia BHTN mới chỉ có 5.993.300 người, năm 2014 đạt 9.219.753 người. Năm 2018 tổng số người tham gia BHTN đạt 12.680.000 người (đạt 101,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao) tăng 111,5% so với năm đầu thực hiện chính sách (2009), tăng 37,5 so với cùng kỳ năm 2014, chiếm khoảng 26,2% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động. Từ 01/01/2015 thay đổi trong quy định về hỗ trợ của Nhà nước vào quỹ BHTN, song nhờ tích cực, chủ động trong phát triển đối tượng tham gia, đốc thu và thu hồi nợ đóng BHTN mà số thu BHTN năm 2018 đạt 15.531 tỷ đồng, tăng gấp 4,42 lần so với năm 2009, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm 2014. 2.2.2.2. Về hưởng và chi trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp - Thực trạng về hưởng trợ cấp thất nghiệp: Tổng số người đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp tính từ 01/01/2010 đến 31/12/2018 là 4.432.375 người, trong đó, tổng số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 4.330.581 người, chiếm 97,7% tổng số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp. - Thực trạng về chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp: Số người hưởng chính sách BHTN tăng dẫn đến tổng chi cho các chế độ bảo BHTN cũng tăng: Năm 2010, tổng chi các chế độ BHTN là 457,1 tỷ đồng thì đến năm 2014 là 3.911,1 tỷ đồng, đến năm 2018 là 9.722 tỷ đồng, tăng 99,1% so với năm 2015 (trong đó chi cho trợ cấp thất nghiệp chiếm 95%, chi hỗ trợ học nghề chiếm 1,5%, chi BHYT chiếm 3,5% so với tổng chi cho các chế độ BHTN từ năm 2015 – 2018). - Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động: Không có người sử dụng lao động hưởng chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động chủ yếu do đây là một chế độ mới, quy định về điều kiện hưởng chế độ này tương đối cao và chặt chẽ nên người sử dụng lao động khó tiếp cận chế độ này. 2.2.2.3. Về quy trình giải quyết hưởng BHTN - Thủ tục đóng BHTN được thực hiện đơn giản, thuận tiện cho người lao động và đơn vị trong việc tham gia BHTN nói riêng, BHXH nói chung; Số người tham gia cũng như số tiền thu BHTN tăng đều qua các năm; Cơ quan BHXH tổ chức chi trả TCTN thông qua hình thức nhận qua tài khoản ATM hoặc nhận tiền mặt tại đại lý chi trả của cơ quan BHXH. 2.2.2.4. Về quản lý và đầu tư tăng trưởng quỹ BHTN Kết quả thực hiện BHTN qua từng thời kỳ được thể hiện qua số dư quỹ BHTN, cụ thể: Số phát sinh tăng quỹ trong các năm đều tăng lên từ năm 2011 đến 2014 theo Luật BHXH, năm 2015 theo Luật Việc làm số phát sinh tăng quỹ trong năm giảm vì NSNN không hỗ trợ bởi số dư quỹ năm 2015 vượt 2 lần tổng các khoản chi các chế độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm 2014. Trong khi đó, mặc dù số phát sinh
  16. 15 giảm quỹ trong năm để thực hiện chi trả các chi phí theo quy định hằng năm tăng lên nhưng chỉ bằng 0,4 lần số phát sinh tăng quỹ trong năm 2015, thậm chí con số này chỉ bằng 0,16 lần trong năm 2011 làm cho quỹ BHTN hằng năm đều tăng trưởng. 2.2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại BHXH Việt Nam 2.2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân - Công tác triển khai các quy định về BHTN được thực hiện đồng bộ, kịp thời và có sự phối hợp tốt giữa các ngành và các tổ chức đại diện cho người lao động, người sử dụng lao động. - BHXH Việt Nam thường xuyên tổ chức các đoàn thanh tra, tiến hành kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTN tại các doanh nghiệp, nhằm hướng dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc kịp thời hỗ trợ các địa phương; - Thủ tục đóng BHTN được thực hiện đơn giản, thuận tiện cho người lao động và đơn vị trong việc tham gia BHTN nói riêng, BHXH nói chung. - Số người tham gia cũng như số tiền thu BHTN tăng đều qua các năm. Hàng năm, thu BHTN luôn vượt chỉ tiêu do Chính phủ giao. Số nợ BHTN giai đoạn 2009- 2014 còn cao, từ 2015 trở lại đây số nợ BHTN giảm đáng kể, đặc biệt là từ khi ngành BHXH được giao thêm chức năng thanh tra đóng BHTN. - Cơ quan BHXH tổ chức chi trả TCTN thông qua hình thức nhận qua tài khoản ATM hoặc nhận tiền mặt tại đại lý chi trả của cơ quan BHXH. - Quỹ BHTN ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ thực hiện chi trả trợ cấp BHTN, chưa có những chính sách thị trường lao động chủ động trong sử dụng Quỹ BHTN nên Quỹ BHTN đang thặng dư qua các năm. 2.2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân Phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm thất nghiệp chậm, còn dưới mức tiềm năng. Tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền đóng BHTN diễn ra phổ biến, chậm được khắc phục. Hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHTN và cơ chế hoạt động chưa phù hợp dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao. Người lao động và chủ sử dụng lao động chưa được phục vụ kịp thời, thuận lợi Chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan BHXH và Trung tâm dịch vụ việc làm vẫn vẫn chưa được kết nối liên thông làm cho quá trình tiếp nhận hồ sơ, chi trả, kiểm tra, kiểm soát, thông báo tìm kiếm việc làm, chuyển hưởng, dừng hưởng, tiếp tục hưởng chưa kịp thời, còn có sai sót. Tình trạng trục lợi BHTN diễn ra ở hầu hết các địa phương trong những năm qua, nhưng đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
  17. 16 Kết luận chương 2 Hệ thống các văn bản pháp luật đều được ban hành kịp thời, đồng bộ và tương đối đầy đủ về lượng, nhưng để đáp ứng với yêu cầu thực tế của xã hội ngày càng phát triển như hiện nay đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa về chất. Mặc dù nhà nước đã chủ động gia nhập và ký kết một số Công ước quốc tế liên quan đến vấn đề việc làm và bảo vệ chống thất nghiệp. Song, để phù hợp với xu thế phát triển chung của quá trình hội nhập quốc tế, nhà nước cũng nên cân nhắc việc gia nhập một số Công ước quốc tế quan trọng liên quan trực tiếp tới BHTN, nhằm đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế. Những thành tựu và hạn chế của pháp luật về BHTN nêu trên đều có những nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa lại. Vì vậy, để chính sách này đi vào cuộc sống, nhà nước cần có những biện pháp và cơ chế hữu hiệu để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BHTN của nhà nước ta hiện nay.
  18. 17 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp - Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách xã hội quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước. - Bảo hiểm thất nghiệp là công cụ quan trọng của chính sách thị trường lao động nhằm góp phần điều tiết quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động. Khi đó BHTN không chỉ đảm bảo thu nhập thay thế cho NLĐ mất việc làm mà còn tích cực hỗ trợ đào tạo lại nghề, giới thiệu việc làm… giúp NLĐ sớm trở lại thị trường lao động. Đồng thời, NSDLĐ cũng nhận được các quyền lợi khuyến khích nhằm tiếp nhận và giữ NLĐ làm việc lâu dài, nhất là đối với NLĐ cao tuổi, người khuyết tật. - Đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội tham gia và hưởng thụ các chế độ BHTN đối với mọi NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN. Đảm bảo nguyên tắc có đóng – có hưởng, công bằng, chia sẻ và bền vững. - Hoàn thiện pháp luật về BHTN phải đặt trong chương trình tổng thể cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, lao động, tiền lương thu nhập mà nền tảng là các chính sách kinh tế của nhà nước. - Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách BHTN theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả hiệu lực, hiện đại, nâng cao niềm tin, hấp dẫn và phục vụ đối tượng tham gia, thụ hưởng BHTN ngày càng tốt hơn. - Thực hiện tốt pháp luật về BHTN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, các hội đoàn thể, các đơn vị sử dụng lao động và NLĐ. Do đó, để pháp luật BHTN ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đòi hỏi: Thứ nhất, Cần khắc phục những bất hợp lý của các quy định hiện hành, đảm bảo sự hợp lý, tính thống nhất trong điều chỉnh và thực thi pháp luật. Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật về BHTN phải đầy đủ và mang tính khả thi hơn. Sau hơn 10 năm đi vào thực hiện, pháp luật về BHTN còn bộc lộ nhiều hạn chế, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện bổ sung. + Về mặt kỹ thuật lập pháp: Pháp luật về BHTN chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Trong thời gian ngắn, nhiều văn bản được ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế rất nhanh nhưng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BHTN lại rất chậm, không rộng rãi
  19. 18 và không có quy mô lớn, gây khó khăn trong công tác triển khai thực hiện, giải quyết các chế độ đối với NTN. Phạm vi đối tượng hưởng TCTN còn hạn chế. + Về mặt tổ chức thực hiện Số lượng người hưởng TCTN mặc dù đã tăng dần theo thời gian, song vẫn chưa đạt được kết quả như mong đợi. Bên cạnh đó, công tác quản lý, tổ chức còn lỏng lẻo, thiếu chuyên nghiệp, gây khó khăn cho đối tượng được hưởng trợ cấp, thậm chí còn tạo cơ hội cho NLĐ, NSDLĐ tìm cách trục lợi BHTN. Biện pháp tuyên truyền, phổ biến chính sách còn nghèo nàn khiến người tham gia không hiểu biết được quyền lợi của mình. Thêm vào đó là chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh để răng đe những kẻ thực hiện hành vi vi phạm, chưa có biện pháp phòng ngừa trước khi xảy ra thất nghiệp. Thứ hai, Cần có những biện pháp để hỗ trợ, bảo vệ NLĐ trước nguy cơ thất nghiệp: NLĐ là đối tượng trực tiếp làm ra của cải vật chất trong xã hội, đồng thời cũng là đối tượng thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật phải tính đến việc bảo vệ lợi ích cụ thể của họ đó là việc làm. Bởi thông qua việc làm sẽ tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân NLĐ và gia đình họ nên để phòng ngừa nguy cơ mất việc làm cũng như khi họ bị thất nghiệp, pháp luật về phải có cơ chế để đảm bảo quyền lợi cho họ. Ngoài ra, cần phải tính đến cả quyền lợi và nghĩa vụ của NSDLĐ trước, trong và sau khi xảy ra thất nghiệp. Từ những bất cập nêu trên cho thấy, việc giải quyết những vướng mắc của chế độ BHTN là cơ sở thực tiễn cho nhu cầu hoàn thiện pháp luật về BHTN trong thời gian tới. Đồng thời, việc hoàn thiện này cũng chính là nhằm mục đích khắc phục những tồn tại của hệ thống pháp luật ASXH nói chung hướng tới mục tiêu ổn định xã hội và phát triển bền vững. (1) Hoàn thiện pháp luật về BHTN đi đôi với việc đổi mới công tác quản lý, ban hành đồng bộ, kịp thời các văn bản pháp quy phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động trong điều kiện hội nhập; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng khả năng và cơ hội việc làm cho người lao động. (2) Hoàn thiện pháp luật về BHTN đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần (3) Hoàn thiện pháp luật về BHTN đảm bảo quyền được trợ giúp của những người yếu thế (4) Hoàn thiện pháp luật về BHTN đáp ứng công bằng xã hội (5) Hoàn thiện pháp luật về BHTN phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
  20. 19 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp 3.2.1. Mở rộng đối tượng có thể tham gia BHTN để đảm bảo công bằng xã hội và đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, chỉ rõ mục tiêu cải cách chính sách BHXH để BHXH thực sự là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội; từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại và hội nhập quốc tế theo nguyên tắc đóng, hưởng; công bằng, bình đằng, chia sẻ và bền vững. Theo đó, mục tiêu phấn đấu đạt khoảng: 28% (năm 2021), 35% (2025), 45% (2031) lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia BHTN. 3.2.1.2. Quy định hợp lý, linh hoạt hơn về điều kiện tham gia BHTN để đảm bảo quyền lợi cho người lao động Theo điều 49 Luật Việc Làm, để được hưởng BHTN thì NLĐ phải đáp ứng đủ 4 điều kiện là: NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật; phải tham gia đóng quỹ BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời hạn 24 tháng hoặc 36 tháng (đi với từng trường hợp theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 43 Luật Việc làm) trước khi bị mất việc làm; đã nộp hồ sơ hưởng TCTN; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN. Quy định này quá chặt chẽ, thiếu linh hoạt, thực sự gây khó khăn cho NLĐ; hoặc để được hưởng BHTN, người thất nghiệp phải có xác nhận của NSDLĐ về chấm dứt làm việc hợp pháp nhưng luật lại chưa quy định về trách nhiệm phải xác nhận của NSDLĐ vào văn bản đó. 3.2.1.3. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, quỹ bảo hiểm thất nghiệp Cần nới lỏng các điều kiện và quy định chi tiết việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động đối với NSDLĐ (Điều 47 Luật Việc làm). Trong nhiều năm qua, chế độ này đã được quy định trong luật pháp nhưng trong thực tế lại chưa có doanh nghiệp nào nhận được khoản hỗ trợ cần thiết này để giúp doanh nghiệp duy trì việc làm cho người lao động. 3.2.1.4. Bổ sung quy chế đảm bảo, ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động, của nhà nước trong các vấn đề liên quan đến BHTN Hiện nay, quy chế pháp lý cho việc đảm bảo, rằng buộc trách nhiệm của NSDLĐ, của nhà nước trong các vấn đề liên quan đến BHTN còn khá sơ sài. Điều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2