Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
lượt xem 2
download
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, tập trung ở cấp xã. Đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TÀO BỘ NỘI VỤ .............../............... ......./....... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VŨ HOÀNG HIỆP PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ - TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, NĂM 2017
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Văn Hùng Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu Phản biện 2: TS. Trần Đức Lượng Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp ......., Nhà ....... – Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77- Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội Thời gian: vào hồi ...... giờ ......, ngày ...... tháng ...... năm 201... Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Dân chủ là khát vọng vươn tới và là mục tiêu đấu tranh của xã hội loài người. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển của xã hội. Đặc biệt, tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta xác định: “Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Chính vì vậy, xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở là chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của Nhân dân, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở. Dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng hiện nay không chỉ được khẳng định trong chủ trương của Đảng, mà còn được thể chế hóa và đảm bảo thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước. Từ khi Đảng và Nhà nước ta ban hành chủ trương xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức,…, đến nay, chúng ta đã triển khai thực hiện rộng khắp trong cả nước và thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt đời sống xã hội của đất nước. Việc triển khai xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, đặc biệt là ở cấp xã, thời gian qua đã chứng tỏ đây là chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng được nhu cầu bức thiết và lợi ích to lớn của đông đảo quần chúng Nhân dân. Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện, vẫn còn một số địa phương, đơn vị chưa có chuyển biến nhiều do nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn, thiếu trách nhiệm khi thực hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Trước tình hình đó, vấn đề nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thực hiện dân chủ cơ sở để đề xuất những giải pháp thích hợp, nhằm nâng cao chất lượng pháp luật về dân chủ cơ sở trở thành yêu cầu khách quan, cấp bách. Quận Thanh Xuân có vị trí nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Hà Nội. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho các làng xã xưa của quận Thanh Xuân có những thay đổi mạnh mẽ, tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống của Nhân dân địa phương. Hiện tại trên địa bàn quận, các khu dân cư thuộc làng xã xưa đã trở thành những khu vực đan xen với các khu nhà lắp ghép, tập thể, nhà cao tầng khép kín tách biệt và các khu chung cư hiện đại. Với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội phức tạp đã dẫn đến đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở nơi đây có sự đan xen giữa đô thị và nông thôn. Cùng với các địa phương trong cả nước, việc xây dựng và thực hiện các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân đã và đang góp phần tích cực, hiệu quả vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền, khối đoàn kết Nhân dân địa phương. Bên cạnh đó, trải qua quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận cũng bộc lộ những mặt hạn chế cần phải nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề để khắc phục. Vì vậy, nghiên cứu pháp luật và việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội và phân tích để đưa ra các giải pháp hoàn thiện có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển của một địa phương điển hình và trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở - Từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với mong muốn góp phần hoàn thiện chất lượng các quy định, việc thực hiện dân chủ cơ sở ở địa bàn nghiên cứu và nhân rộng ra các địa phương có đặc điểm tương đồng trong cả nước. 1
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Những nội dung liên quan đến vấn đề pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở nói chung và ở xã, phường, thị trấn nói riêng được nhiều nhà khoa học, những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các tạp chí, sách, báo...., có thể kể đến một số công trình như: - Viện Chính sách công và Pháp luật – Viện Nhà nước và Pháp luật (Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc – PGS.TS. Trịnh Đức Thảo – TS. Vũ Công Giao – TS. Trương Hồ Hải, 2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam (Kỷ yếu hội thảo), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. - Viện Chính sách công và Pháp luật (Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc – TS. Vũ Công Giao, 2014), Dân chủ trực tiếp (Số tay IDEA Quốc tế), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. - Viện Chính sách công và Pháp luật (Đồng chủ biên: GS.TSKH. Đào Trí Úc – TS. Vũ Công Giao, 2014), Dân chủ ở cấp địa phương (Số tay IDEA Quốc tế), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. - Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, TS. Nguyễn Văn Hiển, 2014, Về thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, Nxb. Chính trị Quốc gia. - Đỗ Văn Dương, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Luận án tiến sĩ Luật, Hà Nội, 2014. - Nguyễn Hồng Chuyên, Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, 2014, Hà Nội. - Vương Ngọc Thịnh, Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Hoài Đức, Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2010. - Vũ Thị Nhung, Thực hiện dân chủ ở cấp xã – thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội, 2011. - Bùi Thị Hường, Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và những vấn đề cần hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2014. Tất cả đều đưa ra những luận cứ khoa học có giá trị tham khảo về khái niệm, bản chất, vai trò quan trọng của dân chủ, dân chủ cơ sở, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở; những thành công, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở nói chung và từng địa phương nói riêng. Tuy nhiên các công trình kể trên chưa thật sự chú trọng vào nghiên cứu chi tiết các quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, đặc biệt là ở cấp xã, chưa phân tích các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ sở, chưa tìm hiểu việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ở địa bàn lựa chọn nghiên cứu trong luận văn, các giải pháp đưa ra không còn hoàn toàn phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Đây chính là lý do để tác giả tiếp tục đi sâu, nghiên cứu các vấn đề của đề tài luận văn, tìm kiếm và đưa ra giải pháp thiết thực có giá trị áp dụng trong phạm vi cả nước. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu các quy định về dân chủ cơ sở và thực tiễn trên địa bàn quận Thanh Xuân, luận văn đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các quy định, việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: 2
- Để đạt mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa, nghiên cứu cơ sở lý luận về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. - Đánh giá pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở ịa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Hiện nay, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở điều chỉnh trên 3 loại hình cơ bản: Ở xã, phường, thị trấn (theo Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11); Trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập (theo Nghị định số 04/2015/NĐ-CP), Tại nơi làm việc (theo Nghị định 60/2013/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong giới hạn của luận văn này, dưới góc độ của chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, tác giả tập trung nghiên cứ ực hiện dân chủ ịa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội theo tinh thần của Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật và quá trình thực hiện dân chủ ịa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay (từ khi ra đời Chỉ thị 30/CT - TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở), trọng tâm từ năm 2007 đến nay, tức là từ khi Pháp lệnh 34/2007/PL- UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa XI về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có hiệu lực thi hành, đưa ra đánh giá trong 5 năm gần đây (giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phƣơng pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin (phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử). 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn được tiến hành nghiên cứu bằng cách sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý và khoa học hành chính như: - Nghiên cứu lý thuyết, tài liệu liên quan đến đề tài, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. - Thu thập, phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu, kết quả trong phạm vi thời gian nghiên cứu; - Sử dụng các số liệu thu thập được từ các điều tra xã hội học, phỏng vấn, thống kê để khái quát và tổng kết kinh nghiệm làm tư liệu phục vụ nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 3
- - Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở ực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, tập trung ở cấp xã. - Luận văn đánh giá thực trạng, nâng cao nhận thứ ệm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả ực hiện pháp luật về dân chủ đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được trình bày với 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở; Chương 2. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và thực tiễn thực hiện tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Chương 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ 1.1. Thực hiện dân chủ cơ sở 1.1.1. Khái niệm * Khái niệm dân chủ Dân chủ là một khái niệm đa nghĩa, phức tạp, thuộc phạm trù chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp: “demos” là Nhân dân và “kratos” là chính quyền; theo nghĩa tiếng Anh “demoeracy” có nghĩa là “chính thể dân chủ”. Theo đó, có thể hiểu dân chủ là chính quyền thuộc về Nhân dân. Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước dân chủ là Nhà nước thừa nhận và bảo đảm các quyền tự do và bình đẳng của công dân. Hiện nay, do cách thức tiếp cận, mục đích tiếp cận không giống nhau, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ. Từ góc độ khái quát nhất, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, có thể hiểu: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định”. * Khái niệm cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở Cơ sở là thành tố, là đơn vị nhỏ nhất trong cấu trúc của một hệ thống các sự vật hiện tượng. Khái niệm cơ sở được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, cơ sở là đơn vị xã hội nhỏ nhất mà Nhân dân tổ chức nên, đó là gia đình, buôn, làng, xóm, ấp, thôn, bản, cấp nhỏ nhất của một hệ thống cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ sở là cấp chính quyền cuối cùng trong hệ thống chính quyền nhà nước, các pháp nhân công quyền, các pháp nhân kinh tế. Luận văn tiếp cận khái niệm cơ sở theo nghĩa này. Theo điều 110 - Hiến pháp 2013, các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được chia thành 4 cấp: Trung ương, cấp Tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Như vậy, cơ sở trong khái niệm trên được hiểu là: xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). 4
- Như vậy, dân chủ cơ sở là biểu hiện cụ thể của thiết chế dân chủ, là sự đảm bảo Nhân dân là nguồn gốc của quyền lực Nhà nước tại địa bàn xã, phường, thị trấn bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Có thể khái quát khái niệm “thực hiện dân chủ cơ sở” như sau: “Thực hiện dân chủ cơ sở là việc thừa nhận và thực hiện thường xuyên các quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân ở cấp cơ sở.” 1.1.2. Nội dung thực hiện dân chủ cơ sở Nội dung thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã là những công việc của Nhà nước và của xã hội mà Nhân dân phải được biết, được tham gia vào quản lý nhà nước và những nội dung Nhân dân giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở. Nội dung dân chủ cơ sở ở cấp xã được thực hiện theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong đó các việc biết, bàn, làm, kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện nội dung này ảnh hưởng quyết định đối với việc thực hiện nội dung tiếp theo. 1.1.3. Các tiêu chí đánh giá thực hiện dân chủ cơ sở * Tiêu chí đánh giá về hiệu quả tổ chức thực hiện của chính quyền (HĐND, UBND) cơ sở * Tiêu chí đánh giá về chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức * Tiêu chí đánh giá về chuyển biến trong hoạt động của cấp ủy Đảng, MTTQ và các tổ chức thành viên ở cơ sở * Tiêu chí đánh giá về trình độ hiểu biết và mức độ thực hiện nội dung Pháp luật quy định về thực hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân * Tiêu chí đánh giá về tác động đối với đời sống địa phương 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là sự chi tiết các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực thiện dân chủ cơ sở đưa các chủ trương đó vào áp dụng trong thực tiễn, pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở quy đinh các nội dung như: thực hiện quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, các cách thức và phương pháp để đảm bảo quyền làm chủ của người dân. Những việc mà người dân được quyền tham gia ý kiến và phải có sự tham gia của người dân; quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,… trong việc thực hiện đúng các nội dung về dân chủ cơ sở trong cơ quan, đơn vị mình. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước quy định và thừa nhận các quyền làm chủ của công dân; tăng cường tính cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân ở cấp cơ sở. 1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở Thứ nhất, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là sự cụ thể hóa dân chủ xã hội chủ nghĩa ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân gắn liền với cơ chế“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Thứ hai, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện trách nhiệm của Nhà nước và yêu cầu của người dân trong việc bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân tại địa bàn cơ sở. Pháp luật về thực thi dân chủ cơ sở phản ánh bản chất dân chủ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. 5
- Trách nhiệm của Nhà nước thường được hiểu trên hai phương diện là bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ. Bảo đảm thực hiện có ý nghĩa rất trực quan, đó là nhà nước tạo ra các điều kiện để công dân thể hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động trong chu trình quyền lực trên thực tế. Bảo đảm bảo vệ là việc nhà nước giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện và xử lý các vi phạm trong quá trình bảo đảm thực thi dân chủ cơ sở. Bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ có quan hệ hữu cơ với nhau. Trên thực tế, khó có thể phân biệt được bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ bởi lẽ ngay trong việc tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở thì đã bao hàm cả mục đích bảo vệ quyền này. Thứ ba, giá trị và năng lực tác động thực tế của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở phụ thuộc vào nhận thức, khả năng của mỗi cá nhân công dân, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và sự tôn trọng, hỗ trợ từ phía xã hội. Thứ tư, có sự tham gia của Mặt trận các cấp và các đoàn thể Nhân dân ở mọi khâu trong thực hiện các quy định dân chủ cơ sở để thấm nhuần và phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ năm, mục đích của việc ban hành pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của Nhân dân ở cấp xã, động viên khơi dậy sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của Nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; Ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ sáu, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện yêu cầu dân chủ phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; đi đôi với trật tự kỷ cương; quyền đi đôi với nghĩa vụ; kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Hiến pháp và hệ thống pháp luật là cơ sở quan trọng để tạo lập các thủ tục pháp lý gắn với thiết chế, phương tiện và quy trình cụ thể trong việc thực hiện dân chủ cơ sở; kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện dân chủ cơ sở; tạo điều kiện để các chủ thể khác tham gia, hỗ trợ trong việc thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở của công dân. 1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về thực hiện dân chủ cơ sở Theo quy định hiện hành (Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số 34/2007/PL-UBTVQH11 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 20-4-2007), nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở bao gồm các bộ phận chính sau đây: * Nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã; * Trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã; * Các hành vi bị nghiêm cấm; * Những nội dung, hình thức công khai để Nhân dân biết; Những nội dung, hình thức Nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp; * Những nội dung, hình thức Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; * Những nội dung, hình thức Nhân dân tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định; * Những nội dung, hình thức Nhân dân giám sát. 1.2.4. Vai trò của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở 6
- Thứ tạo bầu không khí cởi mở, dân chủ trong xã hội, củng cố niề Nhân dân. Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, củng cố thêm niềm tin của Nhân dân vào chế độ xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Thứ hai, góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở là một bước đột phá quan trọng trong việc thực hiện hóa bản chất dân chủ của Nhà nước ta sự ra đời của pháp luật thực hiện dân chủ đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Thứ ba, nâng cao nhận thứ ối với các quyền tự do dân chủ, hình thức dân chủ. Ở cấp xã, thông qua việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, người dân có điều kiện thuận lợi để biết được các quyền dân chủ của mình, hiểu các nguyên tắc, hình thức thực hiện các quyền đó cũng như các hành vi bị nghiêm cấm. Thứ tư, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là phương tiện pháp lý cơ bản, hiệu quả nhất bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực thi quyền làm chủ của nhân dân tại địa bàn cơ sở. Thực hiện tốt dân chủ tại cơ sở sẽ góp phần xây dựng, củng cố và phát huy nền dân chủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thứ năm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị của cơ sở nói chung, đặc biệt là chính quyền cơ sở. Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần đổi mới hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc để thích ứng với yêu cầu ngày càng cao của đời sống dân chủ ở địa phương. Pháp luật về thực hiện dân chủ nhất là pháp luật thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã góp phần nâng cao hiệu quả tác động tới các ngành luật khác như: Luật Tổ chứ ật Khiếu nạ ố ật Bầu cử đại biểu Quốc hộ Nhân dân các cấp. 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở 1.3.1. Các yếu tố ảnh hƣớng đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở * Yếu tố chính trị Sự ảnh hưởng của yếu tố chính trị đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở trước hết thể hiện ở chế độ chính trị. Một chế độ chính trị có xu hướng độc tài, chuyên chế thường song hành với pháp luật xâm hại và tàn lụi của dân chủ và nhân quyền. Chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ có mục tiêu chính trị vì con người, quan tâm tới việc xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách, pháp luật lấy con người làm trung tâm, hướng tới việc tạo mọi khả năng bảo đảm tốt nhất quyền con người sẽ là bảo đảm chắc chắn nhất cho các quá trình và phạm vi dân chủ. Ngoài ra, sự tác động của yếu tố chính trị đến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở còn biểu hiện ở cơ chế hợp lý để vừa chế ngự Nhà nước nhằm giảm tối đa sự vi phạm dân chủ vừa phát huy tính trách nhiệm, tích cực của Nhà nước trong nghĩa vụ đảm bảo thực thi quyền làm chủ của Nhân dân. * Cải cách hành chính Nhà nước Nội dung cải cách hành chính ở nước ta hiện nay trên tất cả các lĩnh vực đang đòi hỏi pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cần có những quy định về tăng cường giáo dục pháp luật cho công 7
- dân, tạo lòng tin và nếp sống làm việc theo pháp luật của cán bộ, công chức cũng như của các tầng lớp Nhân dân; quy định để phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, báo chí để không chỉ là phương tiện phổ biến thông tin một cách chính xác, kịp thời mà phải trở thành công cụ hữu hiệu để phân tích, dự báo, phản biện chính sách cho xã hội và là diễn đàn để Nhân dân trao đổi, bày tỏ ý kiến tham gia quản lý Nhà nước. * Quá trình hội nhập quốc tế Chặng đường hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế vừa qua của nước ta là quá trình nhiều thử thách và khó khăn, được ví như hành trình “từ sông ra biển lớn”. Trong quá trình này, việc xây dựng hệ thống pháp luật để thúc đẩy hội nhập quốc tế đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Việt Nam đang và sẽ tiếp tục nghiên cứu pháp luật quốc tế để hoàn thiện quá trình xây dựng pháp luật nói chung và pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở nói riêng để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế. Ví dụ như: nghiên cứu cơ chế tự quản địa phương trong Luật của Hàn Quốc; cho phép thí điểm Nhân dân địa phương trực tiếp bầu chức danh Chủ tịch UBND cấp xã trên cơ sở tham khảo mô hành “hai lần bỏ phiếu” của Trung Quốc ... * Việc ban hành và tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013 Khi sửa đổi Hiến pháp, các quy định về hệ thống chính trị nói cung, hệ thống chính quyền địa phương nói riêng; các quyền thực hiện dân chủ của Nhân dân ở cơ sở (ví dụ như quyền con người, quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền khiếu nại, tố cáo; quyền giám sát...) đã được đánh giá, nghiên cứu đề xuất những thay đổi nhất định. Vì vậy, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có nhiệm vụ quan trọng trong việc cụ thể hóa những điểm mới của bản Hiến pháp mới nhằm bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở. 1.3.2. Các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở * Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa ‐ xã hội Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về dân chủ cơ sở cũng như dân chủ ở cấp xã nói riêng. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở chịu sự ảnh hưởng nhất định bởi các điều kiện tự nhiên như địa hình, thời tiết, khí hậu, sông ngòi, đất đai, nguồn nước... các điều kiện này sẽ ảnh hưởng tới sự phân bố dân cư, hình thành các khu vực nơi người dân sinh sống (vùng núi, vùng cao, vùng đồng bằng, thành thị hay vùng sâu, vùng xa...). Ngoài ra, trong quá trình thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế. Dân chủ và kinh tế là hai vấn đề có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kinh tế tạo điều kiện để xây dựng dân chủ, nhưng dân chủ cũng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động cao, cơ sở hạ tầng của xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện sẽ bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền công dân và quyền con người. * Sự phát triển của khoa học công nghệ Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển một cách mạnh mẽ như hiện nay thì thông tin là yếu tố hết sức quan trọng trong công tác chỉ đạo, điều hành. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã gắn liền với yếu tố thông tin. Thông tin nhanh hay chậm, chất lượng hay không đảm bảo chất lượng bên cạnh việc phụ thuộc vào công nghệ hiện đại thì một phần nó còn phù thuộc vào các yếu tố của điều kiện tự nhiên. Sự phát triển của phương tiện thông tin giúp cho dân chúng nhanh chóng có thông tin để có thể tham gia bàn luận, đánh giá và lựa chọn những quyết định chính trị đúng đắn; ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. 8
- * Trình độ dân trí (trình độ hiểu biết các vấn đề chính trị - xã hội) Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. Trình độ dân trí cao là điều kiện đầu tiên, cơ bản để có những hành vi xử sự hợp pháp. Với người có trình độ văn hóa cao họ sẽ dễ dàng hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng pháp luật và dẫn đến việc thực hiện pháp luật tốt. Ngược lại, với những người trình độ văn hóa thấp, sẽ khó khăn cho họ trong việc hiểu biết cũng như thực hiện pháp luật. * Hệ thống pháp luật Thực hiện dân chủ cơ sở có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật, trong đó phải kể đến các văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở * Bộ máy nhà nước Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật phải được tổ chức một cách khoa học có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn… để xử lý công việc nhanh chóng, không chồng chéo. Chẳng hạn, trong giai đoạn hiện nay, thực hiện dân chủ cơ sở cần chú trọng đến việc đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính có liên quan đến công dân, đề cao các quyền tự do dân chủ của công dân, đẩy mạnh hoạt động phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật... * Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là người trực tiếp giác ngộ, tuyên truyền đầy đủ, sâu sắc mục đích, ý nghĩa, nội dung pháp luật về dân chủ ở cấp xã cho Nhân dân. Tiểu kết chƣơng 1 Dân chủ cơ sở là biểu hiện cụ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là sự đảm bảo nguyên tắc toàn bộ quyền lực thuộc về Nhân dân tại cơ sở trên nền tảng thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Kết quả tổ chức, triển khai thực hiện dân chủ cơ sở được đánh giá trên các tiêu chí cơ bản sau: Tiêu chí đánh giá về hiệu quả tổ chức thực hiện của chính quyền cơ sở; Tiêu chí đánh giá về tác động đối với đời sống địa phương; Tiêu chí đánh giá về trình độ hiểu biết và mức độ thực hiện nội dung pháp luật quy định về thực hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân... Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các quy định về những nội dung dân chủ cơ sở. Nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở rất rộng, có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú thông qua việc thực hiện quyền được biết, quyền được bàn và quyết định, quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và quyền giám sát đối với những nội dung có liên quan tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của người dân ở cơ sở bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có những đặc điểm đặc thù riêng. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò to lớn đối với đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở tất cả các địa phương trong cả nước. Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở chịu sự chi phối, ảnh hưởng của một số yếu tố, như: yếu tố chính trị; cải cách hành chính Nhà nước; quá trình hội nhập quốc tế; việc ban hành và tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở được bảo đảm bởi một số điều kiện như: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá ‐ xã hội; Sự phát triển của khoa học công nghệ; Trình độ dân trí; Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở; Hệ thống pháp luật; Bộ máy nhà nước. 9
- CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Thực trạng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở Pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã của nước ta ra đời sau Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước tiến mới của quá trình mở rộng và phát huy dân chủ của Nhân dân. Để thực hiện và thể chế hóa quan điểm Chỉ thị số 30-CT/TW, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan: * Từ trước năm 2007 Ngày 26-02-1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 45/1998/NQ- UBTVQH10, giao cho Chính phủ khẩn trương ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật: Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11-5-1998 ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/1998/CT-TTg ngày 15-5-1998 về việc triển khai QCDC ở xã và Chỉ thị số 24/1998/CT-TTg về việc xây dựng hương ước, quy ước của làng, thôn, ấp, cụm dân cư. Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành Thông tư 03/1998/TT-TCCP ngày 06- 7-1998 về hướng dẫn áp dụng Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và Kế hoạch số 145/TCCP-ĐP ngày 06-7-1998 về kế hoạch triển khai Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Tiếp theo, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, thay thế Nghị định số 29/1998/CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ và Thông tư số 12/2004/TT-BNV hướng dẫn thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn. * Từ năm 2007 đến nay Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản pháp luật quan trọng nhất về thực hiện dân chủ ở cấp xã. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6 chương và 28 điều, với những nội dung chính: Bảng 2.1. Tóm tắt nội dung Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 Bên cạnh đó, còn có một số văn bản khác được ban hành nhằm cụ thể hóa những nội dung mới về thực hiện dân chủ ở cấp xã, như: Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP- UBTWMTTQVN ngày 17-4-2008 về hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Một số văn bản khác được ban hành cũng có nội dung liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã, như: Luật thanh tra năm 2010, Luật khiếu nại năm 2011, Luật tố cáo năm 2011, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013… 2.1.2. Đánh giá pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở * Ưu điểm Ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007. Pháp lệnh là bước phát triển tiếp theo, hoàn thiện hơn pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã. So với Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (đặc biệt theo Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) trước đây, Pháp lệnh có những điểm mới, cũng là những ưu điểm sau đây: 10
- Thứ nhất, có sự thay đổi lớn trong nhận thức về dân chủ, quyền dân chủ trực tiếp của người dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện tốt hơn. Thứ hai, tầm quan trọng của việc công khai thông tin được coi trọng nhất là thông tin hai chiều giữa chính quyền và người dân. Thứ ba, quyền dân chủ của công dân được ghi nhận nhiều hơn, đặc biệt là đưa ra được nhiều biện pháp có tính khả thi hơn trước, bảo đảm thực hiện quyền trên thực tế. Thứ tư, tổ chức và hoạt động của chính quyền, nhất là chính quyền cơ sở đã chú ý đến việc tham vấn, lắng nghe ý kiến của người dân, các quyết sách đưa ra đã được dựa trên sự tham khảo cần thiết ý kiến của người dân. Thứ năm, vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên đã được coi trọng hơn, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của các tổ chức này được thể chế rõ hơn. Thứ sáu, Pháp lệnh nâng cao tinh thần trách nhiệm của chính quyền hay đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước khi thực thi Pháp lệnh. Ngoài ra, Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về “giá trị thi hành” của những quyết định, biểu quyết của người dân – điều không có trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 1998 và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 2003; Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng, thiết thực đối với người dân ở cơ sở (không còn những nội dung như Nghị quyết của HĐND xã, sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã) cũng như quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các hình thức thực hiện dân chủ ở cấp xã. * Những hạn chế Mặc dù Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã từng bước cải tiến nhất định so với Nghị định 79/2003/NĐ-CP trước đây song vẫn còn những hạn chế như: Thứ nhất, quan niệm về dân chủ, nội dung, cách thức thực hiện quyền dân chủ ở cấp xã còn một số hạn chế. Pháp lệnh không có định nghĩa về dân chủ cơ sở/dân chủ cấp xã. Thứ hai, do hạn chế trong quan niệm về dân chủ ở cấp xã nên chưa xác định đúng tính chất của một số việc Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định với những việc Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định. Thứ ba, Pháp lệnh không hề đề cấp đến cơ chế theo dõi, không quy định thẩm quyền, chức năng của các cấp trên trong việc giám sát, đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã và làm thế nào để thực hiện cơ chế đó. Thứ tư, bản thân Pháp lệnh không đề cập đến “khu dân cư”, “cụm dân cư” nhưng đến nay mô hình tổ chức dân cư tại nhiều phường, xã, vẫn tồn tại với những hình thức với quy mô, tên gọi khác nhau như khu dân cư, cụm dân cư, ... Thứ năm, liên quan đến năng lực của cán bộ, công chức cấp xã và phường, Tổ trưởng tổ dân phố (Trưởng thôn), người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội, đây là một vấn đề hết sức quan trọng đối với việc thực hiện thành công Pháp lệnh nhưng Pháp lệnh lại không nói rõ cách thức xây dựng năng lực, nâng cao nhận thức thực thi pháp luật, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa trên toàn quốc. Thứ sáu, Pháp lệnh không quy định rõ về tính chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã của các chủ thể cụ thể liên quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và do vậy, cũng không có chế tài đối với việc chính quyền không thực hiện nghiêm các quy định của Pháp lệnh này. 11
- Thứ bảy, pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 không quy định nguồn lực để thực hiện QCDC cơ sở. Thứ tám, những quy định về hương ước, quy ước theo một khuôn mẫu và trình tự chung thì rất khó có thể áp dụng cho những địa bàn khác nhau (nông thôn và thành thị, đồng bằng hay miền núi …). 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội 2.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Thanh Xuân * Đặc điểm tự nhiên Quận Thanh Xuân là một trong các quận trung tâm của thành phố Hà Nội, nằm chếch về trục phía Tây Nam của Thành phố Hà Nội. Địa giới hành chính của quận như sau: Phía Bắc giáp quận Đống Đa và quận Cầu Giấy; Phía Tây giáp huyện Từ Liêm và quận Hà Đông; Phía Nam giáp quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì; Phía Đông giáp quận Hai Bà Trưng. Quận Thanh Xuân được thành lập theo Nghị định số 74/NĐ-CP ngày 22/11/1996 của Chính phủ, quận gồm 11 đơn vị hành chính cấp phường là: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung, Khương Đình, Nhân Chính, Phương Liệt, Hạ Đình, Kim Giang, Khương Mai, Khương Trung, Thượng Đình (có 3 phường được thành lập từ các xã ngoại thành của 2 huyện Từ Liêm và Thanh Trì, còn lại là các phường cũ của quận Đống Đa chuyển sang). * Đặc điểm kinh tế - xã hội Quận Thanh Xuân có diện tích 913,2 ha; gồm 11 phường, 511 tổ dân phố; toàn quận có 22 phòng, ban, ngành, đoàn thể. Năm 2015, dân số của quận là 266.791 người (tính đến cuối năm 2015), trong đó nữ giới là 133.315 người chiếm 49,97%, nam chiếm 50,03%. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho các làng xã xưa của quận Thanh Xuân có những thay đổi mạnh mẽ. Quá trình đó đã tác động không nhỏ đến mọi mặt đời sống của Nhân dân địa phương. Kinh tế trên địa bàn quận ổn định, tiếp tục tăng trưởng (giai đoạn 2010 – 2015 với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,7%). Tình hình chính trị - xã hội ổn định, an ninh quốc phòng luôn được giữ vững. 2.2.2. Kết quả quá trình quán triệt, triển khai pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân * Về công tác quán triệt, triển khai các chủ trương, quan điểm của Đảng có liên quan đến nội dung pháp luật về dân chủ cơ sở, ngay từ thời gian đầu thực hiện cho đến nay, công tác chỉ đạo thực hiện QCDC từ quận tới cơ sở đã gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương và các phong trào thi đua yêu nước như: tuyên truyền thực hiện QCDC ở cơ sở với tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về các văn bản của Đảng, Nhà nước. * Hoạt động của BCĐ thực hiện QCDC Các BCĐ thực hiện QCDC ở cơ sở được thành lập và kiện toàn, mô hình tổ chức bộ máy chỉ đạo điều hành thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận được áp dụng mô hình BCĐ thực hiện QCDC ở Quận và các phường. Về chế độ làm việc, BCĐ thực hiện QCDC quận và các phường đã xây dựng quy chế làm việc của BCĐ, phân công trách nhiệm từng thành viên BCĐ, gắn với lĩnh vực công tác và theo dõi các cơ sở; hàng năm xây dựng chương trình, kế hoạch công tác; xây dựng chuyên đề. Bảng 2.2. 12
- Tổng hợp tình hình tổ chức hoạt động kiểm tra công tác thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở của BCĐ Quận, giai đoạn 2012 – 2016 * Tổ chức thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở của chính quyền UBND quận đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn chỉnh sửa, bổ sung các Quy chế, Quy ước dân chủ cho phù hợp với chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phù hợp với thực tế của địa phương và sự phân cấp trong quản lý; xây dựng dự thảo Quy chế thực hiện dân chủ trong từng lĩnh vực đảm nhiệm. UBND các phường tổ chức hội nghị lấy ý kiến của đại diện cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội, bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố vào dự thảo Quy chế; lấy ý kiến các đồng chí lãnh đạo quận. Ngoài việc ban hành các QCDC trong các lĩnh vực tương tự của quận thực hiện trong phạm vi mỗi phường, UBND các phường đã cụ thể hóa các văn bản luật của Trung ương thành các văn bản phù hợp với địa phương về xây dựng và thực hiện QCDC cơ sở. Về cơ bản, kinh phí dành cho hoạt động triển khai Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn không được bố trí ngân sách riêng mà tính vào hoạt động chung của UBND. * Hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong việc tổ chức, hướng dẫn, phối hợp thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở Về hoạt động tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện Pháp luật dân chủ cơ sở, MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp đã thực hiện tốt việc tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở trong cán bộ, hội viên, đoàn viên và các tầng lớp Nhân dân, đồng thời gắn với việc thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận, đoàn thể từ quận tới cơ sở. Về hoạt động giám sát việc thực hiện Pháp luật dân chủ cơ sở, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ quận và các phường chủ động xây dựng và thực hiện: Kế hoạch hoạt động giám sát, góp ý và phản biện xã hội; Kế hoạch công tác TTND, giám sát đầu tư của cộng đồng. Nhằm thực hiện Quy chế “MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư”, từ năm 2006 – 2013, MTTQ quận đã thực hiện tại 03 phường (Thanh Xuân Bắc, Khương Mai, Nhân Chính) làm điểm đặt 06 hòm thư giám sát tại các khu dân cư. Về hoạt động phối hợp với các cấp chính quyền trong việc thực hiện Pháp luật về dân chủ cơ sở, MTTQ từ cấp quận đến phường chủ động xây dựng kế hoạch, hướng dẫn triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc, hoàn thành tốt các nội dung MTTQ tham gia công tác bầu cử theo quy định, góp phần tạo nên kết quả và sự thành công của 02 cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII, XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 và 2016- 2021 trên địa bàn quận. 2.2.3. Đánh giá kết quả quá trình quán triệt, triển khai pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn quận Thanh Xuân * Những ưu điểm Thứ nhất, về chuyển biến trong hoạt động của cấp ủy Đảng, MTTQ và các tổ chức thành viên Quận ủy Thanh Xuân đã lãnh đạo, chỉ đạo, nghiêm túc tổ chức thực hiện có hiệu quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, các Nghị định của Chính phủ, sự lãnh đạo của cấp trên về xây dựng và tổ chức thực hiện QCDC ở cơ sở. MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội đã phát huy cao vai trò giám sát hoạt động của cán bộ, công chức làm việc, sinh sống trên địa bàn; đồng thời đổi mới nội dung và phương thức hoạt 13
- động, động viên các tầng lớp Nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, tích cực tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Thứ hai, về hiệu quả trong hoạt động của UBND, HĐND các cấp Công tác tiếp dân giải quyết những kiến nghị của Nhân dân được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc và đã trở thành nền nếp tại UBND các phường. Đến nay, 100% phường trên địa bàn Quận được cài đặt phần mềm quản lý hồ sơ theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông, cung ứng dịch vụ công mức độ 3. Thông qua theo dõi kết quả tiếp nhận và xử lý hồ sơ của UBND các phường trên cổng thông tin điện tử, tỷ lệ giải quyết hồ sơ đúng và sớm giai đoạn 2012 – 2016 là 98,3%, năm 2015 xếp thứ 2 Thành phố về thực hiện chính quyền điện tử. HĐND các cấp đã có nhiều đổi mới trong hoạt động, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, sát tình hình. Tại các kỳ họp HĐND, nhiều vấn đề bức xúc được đưa ra chất vấn công khai, dân chủ. Bảng 2.3. Số liệu thống kê công tác tiếp nhận và giái quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của Nhân dân tại các phường giai đoạn 2012 – 2016 Thứ ba, về nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh đã giúp cho cán bộ, công chức tại các phường nhận thức sâu sắc hơn về dân chủ cơ sở và ý nghĩa của nó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ cuối năm 2015, 100% chính quyền các phường đã tổ chức hội nghị đối thoại (2 lần/năm) để lắng nghe ý kiến, kiến nghị của Nhân dân. * Những hạn chế Thứ nhất, thành viên của BCĐ thực hiện QCDC quận và các phường (đặc biệt là cán bộ lãnh đạo) tham gia vào rất nhiều các BCĐ thực hiện các nhiệm vụ khác nhau nên việc dành thời gian cho hoạt động của BCĐ thực hiện QCDC còn hạn chế. Thứ hai, gắn QCDC với thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội có việc còn lúng túng. Một số nơi chưa thực hiện công khai về công tác tài chính, sử dụng tài sản công, việc xây dựng quy ước chưa được triển khai. Thứ ba, hình thức tổ chức tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy dân chủ cơ sở còn đơn điệu, chạy theo phong trào. Thứ tư, còn có cán bộ lãnh đạo ở một số đơn vị chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện QCDC, chưa tích cực trong chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc thực hiện. Thứ năm, sự hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân sách cho các hoạt động cộng đồng dân cư còn ít. Bên cạnh đó, việc huy động Nhân dân đóng góp để bảo đảm duy trì hoạt động cho các thiết chế phục vụ cho cộng đồng dân cư khó khăn. Thứ sáu, một số chính quyền phường vẫn còn hiện tượng “hành chính hóa” một số công việc thuộc nội bộ cộng đồng dân cư, huy động đóng góp của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi ... như: Quỹ Khuyến học, Quỹ Vì người nghèo, ... các quỹ để xây dựng các công trình xã hội hóa. * Những nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trên Thứ nhất, do pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn thiếu và bất cập. Vai trò, trách nhiệm các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở đối với thực hiện dân chủ cơ sở chưa được định chế hóa một cách cụ thể. Thứ hai, do ở các phường còn nhiều việc cần tập trung nên trong quá trình triển khai xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở cũng bị chi phối. Nhận thức của một số ít cấp ủy Đảng, chính 14
- quyền về việc thực hiện QCDC ở cơ sở còn chưa sâu, một bộ phận Nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chưa ý thức đầy đủ về QCDC. Thứ ba, việc ban hành các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm, gây lúng túng trong quá trình thực hiện và ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện ở cơ sở; chưa có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy chế, quy ước và chưa kịp thời động viên khen thưởng, biểu dương. Thứ tư, những vấn đề còn vướng mắc trong dân có lúc, có nơi giải quyết chưa kịp thời, chưa tạo điều kiện để Nhân dân tham gia và phát huy quyền làm chủ thực sự của mình. Thứ năm, do chạy theo thành tích nên một số lãnh đạo phường đã can thiệp quá mức vào việc đóng góp các loại quỹ và kế hoạch sử dụng của các tổ dân phố. 2.2.4. Kết quả thi hành các nội dung của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn quận Thanh Xuân Thứ nhất, những nội dung công khai để Nhân dân biết Chính quyền cơ sở đã phối hợp với MTTQ phường và các tổ chức thành viên cơ bản thực hiện tốt nội dung này trên nguyên tắc bảo đảm dân chủ, bảo đảm quyền của dân được biết trên một số lĩnh vực nhạy cảm như: Kế hoạch vay vốn cho Nhân dân; kết quả bình xét hộ nghèo; Các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính,... Về hình thức, phương thức thực hiện quyền dân chủ ở phường được tiến hành qua các hình thức khác nhau, như: Tăng cường đối thoại trực tiếp; Tổ chức họp với các đồng chí là đảng viên đang sinh hoạt tại phường và sinh hoạt 2 chiều; Phát thanh trên hệ thống loa truyền thanh phường... Thứ hai, những nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp Các công việc thường được đưa ra để Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp là: Chỉnh trang đường ngõ, phố; Giải quyết vấn đề về sinh môi trường ở địa bàn dân cư (quét, xóa biển quảng cáo rao vặt trái phép, thu gom rác thải); Quyên góp tặng sổ tiết kiệm, thăm hỏi, đỡ đầu hàng trăm gia đình và đối tượng chính sách, Quỹ Vì người nghèo, Quỹ Vì trẻ thơ, Quỹ Khuyến học… Những hoạt động này đã góp phần giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh đường phố, bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội tại địa phương. Thứ ba, những nội dung Nhân dân bàn, biểu quyết Tính đến nay, 100% (511/511) tổ dân phố trên toàn quận đều đã xây dựng và thực hiện 03 quy ước: Quy ước Xây dựng nếp sống văn minh; Quy ước Giữ gìn vệ sinh, môi trường sạch đẹp, Quy ước Xây dựng tổ dân phố an toàn thông qua Hội nghị Đại biểu Nhân dân. Sau khi các quy ước được phê duyệt, các phường đã in ấn phát đến từng hộ dân để đưa vào thực hiện ở Tổ dân phố theo quy định. Thứ tư, những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến Tại đa số các phường, trước khi trình thông qua dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kế hoạch chuyển đổi cơ cấu kinh tế; kế hoạch sử dụng đất đai, dự án huy động các nguồn đóng góp của Nhân dân, chính quyền đã niêm yết các dự thảo này tại trụ sở UBND hoặc đưa xuống tổ dân phố để Nhân dân tham gia ý kiến. Trong các kỳ hop của HĐND phường, chính quyền phường đã mời đại diện các tổ chức chính trị - xã hội tham dự và người dân dự thính kỳ họp HĐND. . Thứ năm, những nội dung Nhân dân giám sát 15
- Những nội dung thực hiện giám sát tốt là: kết quả thực hiện Nghị quyết của HĐND phường, hoạt động của Đại biểu HĐND, của cán bộ UBND phường; thu chi các loại quỹ, lệ phí, các khoản đóng góp của dân và việc thực hiện các chế độ chính sách với những người có công với nước, người hưởng chính sách BHXH. Hoạt động giám sát của Ban TTND, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng các phường liên tục có nhiều đổi mới, đạt kết quả cao. 2.2.5. Đánh giá kết quả thi hành các nội dung của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn trên địa bàn quận Thanh Xuân * Ưu điểm Thứ nhất, về trình độ hiểu biết và mức độ thực hiện nội dung Pháp luật quy định về thực hiện dân chủ cơ sở của Nhân dân, có thể nhận thấy, việc thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 đã đáp ứng những nguyện vọng, yêu cầu bức xúc của Nhân dân ở các phường và được được đại đa số Nhân dân trên địa bàn quận hưởng ứng. Kết quả khảo sát cũng cho thấy những dấu hiệu tích cực trong nhận thức của người dân về vấn đề dân chủ. Biểu đồ 2.4. Mức độ hiểu biết của người dân đối với Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 Thứ hai, về tác động đối với đời sống địa phương, kết quả khảo sát đã cho thấy thực hiện Pháp lệnh là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển, đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tất cả các tiêu chí đều nhận được sự đánh giá chất lượng tăng lên từ người được hỏi (Biểu đồ 2.5. Xu hướng thay đổi các hoạt động sau khi thực hiện Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11). Điều này đã cho thấy việc thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở có tác dụng rất lớn đến đời sống của Nhân dân trên địa bàn trong thời gian qua. * Hạn chế Thứ nhất, theo quy định của pháp luật, một số nội dung liên quan đến: Dự án đầu tư và quy hoạch sử dụng đất chi tiết; Kết quả ủa cán bộ, công chức... được quy định cần phải công khai cho Nhân dân nhưng trên thực tế thì mức độ công khai của những nội dung này còn chưa kịp thời, hạn chế. Thứ hai, một số hình thức công khai (được quy định theo pháp luật) không nhận được sự đánh giá cao từ Nhân dân, ví dụ niêm yết công khai tại UBND. Hình thức niêm yết công khai tại trụ sở UBND các phường chưa thực sự có hiệu quả, đặc biệt đối với những nội dung có nhiều thông tin, tài liệu. Thứ ba, hiện nay có nhiều cuộc họp được tổ chức dẫn đến tốn kém thời gian và thực chất nhiều cử tri hoặc đại diện thường xuyên vắng mặt vì lý do công việc, … ảnh hưởng đến chất lượng cuộc họp cũng như tốn kém cho chính quyền Thứ tư, mặc dù trên địa bàn quận còn sự xuất hiện một số làng nằm xen kẽ với các khu đô thị nhưng hoạt động xây dựng hương ước, quy ước gần như không được chính quyền và Nhân dân quan tâm vì cho rằng hương ước, quy ước chỉ là hình thức, không hiệu quả trong một địa bàn đang đô thị hóa mạnh. Thứ năm, một bộ phận người dân thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc lựa chọn Tổ trưởng tổ dân phố. Những cuộc họp để tổ chức bầu Tổ trưởng tổ dân phố thì người dân ít quan tâm. Thứ sáu, việc lấy ý kiến đôi khi thiếu trọng tâm, trọng điểm nên dễ tràn lan. Thứ bảy, qua khảo sát, vai trò của Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng chưa được đánh giá cao. Tình trạng nhiều kết quả giám sát không được xử lý triệt để, dẫn đến thiếu tính răn đe. * Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên 16
- Thứ nhất, đối với các phường khi triển khai gặp khó khăn ở một số nội dung cần công khai cho Nhân dân vì còn phụ thuộc vào các ngành và cấp trên, như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh, quy hoạch khu dân cư trên địa bàn phường hoặc việc làm mới, sửa chữa điện, đường, ... Thứ hai, quá trình xây dựng hương ước, quy ước dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật và cách thức thể hiện thông thường là lặp lại pháp luật và chủ trương, chính sách của Nhà nước một cách khô khan, thiếu cụ thể, chưa sát thực với điều kiện và đặc điểm của cơ sở, câu chữ trong văn bản còn nặng tính khẩu hiệu, nên tính thực tiễn không cao. Thứ ba, các cuộc họp bầu Tổ trưởng tổ dân phố thường ít người dân tham gia vì người dân chỉ quan tâm tham gia các cuộc họp với nội dung liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ. Thứ tư, về nguyên nhân của hiệu quả giám sát thực hiện dân chủ ở các phường của các cá nhân, tổ chức không được như mong muốn là: các tổ chức, cá nhân bị phụ thuộc vào chính quyền nên khó có thể độc lập, khách quan; các quy định của pháp luật về quyền giám sát chưa rõ ràng, cụ thể, hầu như không nhận được sự đồng tình. Thứ năm, bên cạnh nguyên nhân do pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện đang thiếu tính đồng bộ và toàn diện như đã phân tích ở trên thì trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ của một bộ phận người dân còn hạn chế, không đồng đều. Thứ sáu, nguyên nhân “pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở chưa mang lại tác động tích cực trong đời sống xã hội ở địa phương”, do “quy định của pháp luật chưa đầy đủ, chưa cụ thể”, do “việc tổ chức thực hiện dân chủ chưa mạnh mẽ” và là do “cán bộ, công chức chính quyền phường còn bảo thủ”. Tiểu kết chƣơng 2 Thứ nhất, có thể nói, việc Nhà nước ta xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở là một phát kiến lớn, một phương thức hay, hữu hiệu nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở một cách thực chất nhất. Với sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, lập quy Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho các tầng lớp Nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự: quyền được biết; quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; quyền giám sát. Mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và thay thế, song pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã hiện hành, mà cụ thể là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cũng đang bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định. Thứ hai, hoạt động thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở các phường trên địa bàn quận Thanh Xuân đã đạt được những thành tựu, kết quả quan trọng, từ tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ở các phường cho đến những kết quả quan trọng trong thực hiện các nội dung cụ thể về quyền dân chủ của Nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở ở các phường của quận Thanh Xuân cũng còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định như nhận thức, trách nhiệm về thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và Nhân dân chưa đầy đủ; một số nội dung cụ thể thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở mới chỉ đạt kết quả ở mức độ trung bình hoặc kém. 17
- CHƢƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bên cạnh những quy định hiện hành thì nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở được điều chỉnh theo những xu hướng sau: Thứ nhất, pháp luật phải có những quy định chi tiết về trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn nội dung thực hiện dân chủ cơ sở đến với người dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có Hiến pháp và pháp luật ghi nhận các quyền của công dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung, trọng đại của cả nước, của từng địa phương, nêu đề xuất, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước. Các quyền đó là nền tảng, cơ sở quan trọng để người dân thực hiện dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Vì vậy, chính quyền cơ sở có nghĩa vụ triển khai những quy định của pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở đối với người dân. Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động của chính quyền cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, dân chủ, chú trọng đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc. Chính quyền cơ sở có nhiệm vụ đưa những quy định về thực hiện dân chủ đi vào đời sống ở cơ sở. Trong tiến trình đó, bộ máy chính quyền cơ sở buộc phải thay đổi để thích ứng với yêu cầu ngày càng cao với đời sống dân chủ cơ sở. Có những việc liên quan trực tiếp đến quyền lợi của Nhân dân, chính quyền cơ sở không thể chủ quan quyết định mà phải tổ chức họp Nhân dân để bàn, quyết định trực tiếp hoặc Nhân dân biểu quyết với đa số tán thành thì chính quyền cơ sở mới được ra quyết định và thực hiện. Thứ ba, pháp luật tăng cường quy định theo xu hướng hội nhập: các cơ chế, biện pháp, chế tài nhằm bảo đảm cho công dân có thể phát huy quyền làm chủ, thực hiện các quyền dân chủ trong khuôn khổ các nguyên tắc, quy định của pháp luật, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ mà người dân phải tuân thủ, thực hiện nhằm bảo đảm, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội. 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc kiến tạo phát triển Trong quá trình xây dựng Nhà nước kiến tạo phát triển, bên cạnh những quy định hiện hành thì nội dung của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở được điều chỉnh theo những xu hướng sau: , pháp luật có sự gia tăng số lượng những nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia ý kiến của người dân vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, trong đó tập trung mở rộng các quy định công việc do người dân trực tiếp thảo luận và quyết định thực hiện. Các phương thức thực hiện dân chủ cơ sở được mở rộng và quy định ngày càng cụ thể. Thứ hai, pháp luật có những quy định xác lập được chế độ trách nhiệm trước dân của cơ quan nhà nước và hệ thống khuyến khích phục vụ dân. Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng trong việc đảm bảo quyền làm chủ của người dân ở cơ sở. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 232 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn