Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra - Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động thanh tra, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thực trạng thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra - Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VI THỊ ĐƢƠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA TỪ THỰC TIỄN THANH TRA HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN Chuyên ngành : Luật Hiến Pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380102 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2020
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Văn Minh Phản biện 1: TS. Bùi Thị Thanh Thúy, Học viện Hành chính Quốc gia Phản biện 2: TS. Nguyễn Tuấn Khanh, Viện Chính sách và Khoa học Thanh tra Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp D, Nhà A - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số:77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi 9giờ 30 phút ngày 16 tháng 8 năm 2020 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Công tác thanh tra là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước, là một chức năng quản lý thiết yếu của quản lý nhà nước, là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý nhà nước. Ngay từ những ngày đầu lập nước chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý tới việc sử dụng, phát huy vai trò của công tác thanh tra. Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt tiền thân của các tổ chức Thanh tra ngày nay. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì tổ chức và hoạt động thanh tra vẫn còn bộc lộ những bất cập như: Tổ chức các bộ máy cơ quan thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu của quản lý nhà nước. Bên cạnh đó quyền hạn thanh tra còn hạn chế các kết luận, kiến nghị thanh tra chưa được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và còn thiếu nhiều biện pháp cứng rắn, chế tài đủ mạnh. Một số cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ, kĩ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Luật thanh tra đã được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2020 và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011. Qua hơn sáu năm triển khai thực hiện, Luật thanh tra đã tạo hành lang pháp lý quan tọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hoạt động thanh tra. Luật thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối cụ thể, rõ ràng cơ cấu tổ chức nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên nghành, mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên nghành. Luật thanh tra đã quy định đầy đủ vị trí, vai trò và chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay là sự phụ thuộc quá lớn của cơ quan thanh tra nhà nước vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận, kiến nghị xử lý. Các cơ quan thanh tra phụ thuộc gần như toàn bộ vào cơ quan và thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp. Sự phụ thuộc quá nhiều vào thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã ảnh hưởng đến sự chủ động, tính độc lập cần thiết trong hoạt động thanh tra. Vị trí vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước trong bộ máy hành chính nhà nước chưa được xác định tương xứng với nhiệm vụ được giao. Theo luật thanh tra , các cơ quan thanh tra nhà nước được giao nhiệm vụ thanh tra các cơ quan, tổ chức cá nhân trực thuộc quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, Luật Thanh tra quy định, các cơ quan thanh tra nhà nước là cơ quan hoặc cơ quan chuyên môn của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có vị trí tương đương với cơ quan , tổ chức là đối tượng thanh tra. Thủ trưởng cơ quan thanh tra cũng chỉ tương đương với Thủ trưởng cơ quan tổ chức là đối tượng thanh tra, thậm chí trong một số trường hợp còn kém vị thế hơn( như trường hợp thanh tra Bộ thanh tra đối với Tổng cục thuộc bộ). Do đó, cũng gây ra những khó khăn trong quá trình thanh tra và kết luận, kiến nghị xử lý về thanh tra. Khái niệm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành chưa rõ ràng dẫn đến một số lĩnh vực hiểu thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành giống nhau, chưa phân định rõ thẩm quyền hành chính( quản lý, điều hành hoạt động của cơ quan thanh tra) với thẩm quyền thực thi pháp luật (tiến hành thanh tra và ra kết luận thanh tra). Về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức cá nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức cá nhân khác có liên quan trong hoạt động thanh tra đã được Luật thanh tra và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành quy định tương đối đầy đủ, cụ thể. Tuy nhiên, các biện pháp chế tài xử lý các trường hợp không chấp 1
- hành quyết định thanh tra, có thái độ không hợp tác, không cung cấp đầy đủ, cố tình kéo thời gian cung cấp…chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể, nên có khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành. Tuy nhiên pháp luật về thanh tra còn nhiều hạn chế, bất cập. Quy định về vị trí, vai trò địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra còn chưa thật sự rõ ràng, còn có sự chồng chéo, trùng lắp trong việc xác định đối tượng thanh tra giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành. Quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, việc đảm bảo thực hiện quyền cũng còn nhiều hạn chế. Qua hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra phát hiện sai phạm , vi phạm pháp luật nhưng hầu như không có quyền quyết định xử lý mà chủ yếu kiến nghị, đề xuất nên gặp khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước. Phạm vi, nội dung, trình tự, thủ tục, tiến hành các cuộc thanh tra còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Riêng quy định về thanh tra huyện chưa phát huy được vai trò của thanh tra huyện trong tình hình hiện nay. Tình hình trên đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu một cách tổng thể cả về lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng. Cần phải hoàn thiện quy định của pháp luật về thanh tra. Hiện Thanh tra chính phủ cũng đang nghiên cứu , sửa đổi luật thanh tra năm 2010. từ đó, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này. Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài: “Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra - Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài luận văn tốt nghiệp trương trình sau đại học chuyên nghành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều bài viết chuyên khảo trên các Báo thanh tra, tạp chí thanh tra và các Báo, Tạp chí chuyên ngành khác đề cập đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, trong đó có đưa ra những đánh giá nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra nhà nước trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. Thứ nhất, về các đề tài nghiên cứu khoa học: “Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước”, đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập do tiến sĩ Trần Đức Lượng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản, chung nhất về các thiết chế, khái niệm, đặc điểm, vai trò, mối quan hệ giữa các thiết chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lí kinh tế xã hội và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam [31]. “Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa – Luận cứ khoa học phục vụ sửa đổi luật Thanh tra và hoàn thiện pháp luật về Thanh tra”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, năm 2007 do đồng chí Trần Văn Truyền – Tổng Thanh tra Chính phủ, làm chủ nhiệm. Đề tài đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích thực trạng và những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của nghành thanh tra, đề tài đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngành trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang tính toàn diện, khả thi, trong đó các kiến nghị về sửa đổi và bổ sung Luật thanh tra [32]. 2
- “Cơ sở xác định trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng” đề tài nghiên cứu cấp Bộ, năm 2010 do đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh – trưởng phòng nghiên cứu và đào tạo, viện khoa học thanh tra làm chủ nhiệm. Đề tài nêu lên một số cơ sở lí luận của vấn đề trách nhiệm pháp lí của chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng; đánh giá thực trạng thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, thực trạng thanh tra trách nhiệm, đưa ra định hướng giải quyết, hệ thống giải pháp và một số kiến nghị cụ thể [14]. Thứ hai, về các đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ: Luận án tiến sỹ “Tổ chức và hoạt động của các tổ chức Thanh tra ở nước ta trong giai đoạn hiện nay – thực trạng và giải pháp” của nghiên cứu sinh Trịnh Xuân Thiện; Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Thương Huyền …Các luận án đã đề cập những vấn đề bất cập trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra, phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra. Luận văn thạc sỹ “Nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra chuyên ngành” của Nguyễn Thị Kim Ngọc; “Vai trò của Thanh tra Nhà nước trong quản lý việc thực hiện dự án ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thanh Hải; “Đối mới tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành giáo dục” của Bùi Ngọc Âu; … Các đề tài này chỉ tập trung phân tích thực trạng về hoạt động thanh tra chuyên ngành hoặc vai trò của thanh tra nhà nước trong lĩnh vực cụ thể. Hầu hết các công trình chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động nói chung của các tổ chức Thanh tra, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống chuyên sâu pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra các huyện nói chung và thanh tra huyện Đình Lập nói riêng. Vì vậy, đề tài của luận văn không trùng với các công trình đã công bố trước đây. Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu trước đây và các quy định của pháp luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra, tác giả cho rằng việc chọn nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm những luận cứ khoa học, cũng như cơ sở thực tiễn cho việc đổi mới tổ chức, hoạt động thanh tra huyện mà nhu cầu thực tiễn đang đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động thanh tra, trong đó tập trung nghiên cứu, phân tích đánh giá hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thực trạng thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về thanh tra và các văn bản có liên quan để phù hợp với tình hình thực tế, nâng cao chất lượng hoạt động thanh tra huyện. Đồng thời kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. - Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích, đi từ cơ sở lý luận về thanh tra, thanhh tra huyện. Luận văn có nhiệm vụ làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò thanh tra nói chung và vị trí, chức năng nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra huyện. 3
- Đánh giá quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra từ thực tiễn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn từ đó chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra . Trên cơ cơ đó kiến nghị các phướng hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn nói riêng. - Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian được giới hạn trên địa bàn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. - Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là 3 năm , được giới hạn từ năm 2017 đến năm 2019. - Về nội dung, nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước nói chung là vấn đề rất rộng và phức tạp, có tầm bao quát lớn. Trong khuôn khổ của luận văn này tập trung nghiên cứu một số vấn đề chính là thực hiện pháp luật về thanh tra huyện trên địa bàn huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Nghiên cứu pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng. Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn từ năm 2017 đến năm 2019. Trên cơ sở nhận xét những ưu điểm và hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật nói chung và công tác thanh tra nói riêng. Quan điểm của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác thanh tra, đồng thời có tham khảo, kế thừa có chọn lọc một số thành tựu của khoa học quản lý, khoa học chính trị, pháp luật. - Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu của luận văn tác giả sử dụng một số phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp hệ thống hóa … và một số phương pháp khác để làm sáng tỏ bản chất của vấn đề. 6. Ý nghĩa nghiên cứu của luận văn - Ý nghĩa lý luận Luận văn nghiên cứu có hệ thống về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Luận văn đề xuất những phương hướng, giải pháp phù hợp góp phần làm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, pháp luật về phòng chống tham nhũng. Đặc biệt là tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. - Ý nghĩa thực tiễn Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù về tổ chức và hoạt động thanh huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động và chất lượng đội ngũ cán bộ cán bộ công chức cơ quan thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. 4
- Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể vận dụng để nâng cao chất lượng, hiệu quả về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. Luận văn có thể là tài liệu có giá trị tham khảo, nghiên cứu và vận dụng trong tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được chia gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động ở thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra – Từ thực tiễn thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA 1.1. Khái quát về Thanh tra 1.1.1. Khái niệm thanh tra Theo từ điển tiếng việt của viện ngôn ngữ học năm 2016 thì thanh tra có nghĩa là “kiểm soát, xem xét lại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [41, tr.1556]. Với nghĩa này thì thanh tra bao hàm cả nghĩa kiểm soát. Ở nước ta thuật ngữ “Thanh tra” lần đầu xuất hiện tại Sắc lệnh 64/Sl ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một ban thanh tra đặc biệt, có ủy nghiệm là đi giám sát tất cả có công việc và các nhân viên của ủy ban nhanh dân và các cơ quan chính phủ” [6, tr.1]. Từ sắc lệnh này, quyền thanh tra được xác lập và được giao cho chính phủ thực hiện. Sau đó khái niệm “thanh tra” được đề cập trong các bản Hiến pháp của nước ta và các văn bản pháp luật khác, khẳng định thanh tra là một hoạt động đặc biệt không thể thiếu trong quản lí nhà nước. Trong bài nói chuyện là Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc năm 1961, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định thanh tra là hoạt động “theo dõi, xem xét việc chấp hành đúng đắn đường lối, chính sách, nghị quyết. chỉ thị của Đảng và Chính phủ” [9, tr.275]. Văn bản pháp lí đầu tiên xác lập một cách đầy đủ và toàn diện về tổ chức và hoạt động thanh tra là pháp lệnh thanh tra năm 1990. Pháp lệnh đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và khẳng định thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lí nhà nước. Điều 1 pháp lệnh thanh tra quy định: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lí nhà nước: là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa” [10, tr.1]. Khái niệm thanh tra lần đầu tiên được định nghĩa trong luật thanh tra năm 2004 dưới khái niệm thanh tra nhà nước. Theo đó “Thanh tra nhà nước là việc xem xét đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh thanh tra hành chính và thanh tra chuyên nghành” [22, tr1] 5
- Luật thanh tra năm 2010 ra đời thay thế luật thanh tra năm 2004 cũng đưa ra định nghĩa về thanh tra tại khoản 1 điều 3 luật thanh tra 2010: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành” [23, tr.8]. Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. 1.1.2. Đặc điểm của thanh tra Thứ nhất, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước Thứ hai, thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước Thứ ba, hoạt động thanh tra có tính khách quan. Thứ tư, thanh tra có tính độc lập tương đối 1.1.3. Vai trò của thanh tra Thứ nhất, hoạt động thanh tra là một trong những chức năng thiết yếu của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Thứ hai, hoạt động thanh tra là phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý nhà nước. Thứ ba, hoạt động thanh tra huyện góp phần đảm bảo việc thực hiện các quyền, tự do công dân. Thứ tư, hoạt động thanh tra huyện là một biện pháp hạn chế sự lạm dụng quyền lực, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật ở cấp huyện. Thứ năm, hoạt động thanh tra huyện góp phần nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước trên địa bàn huyện. 1.2. Nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện 1.2.1. Một số khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm pháp luật “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện, kể cả bằng các biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị” [42, tr.139]. 1.2.1.2. Khái niệm tổ chức Tổ chức” là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến. Nguyên nghĩa của "tổ chức" “organon” theo tiếng Hy lạp là để chỉ một cơ quan nào đó của cơ thể người, có chức năng nhất định, là kết cấu tự nhiên trong chỉnh thể người. Theo ý hướng này, Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: tổ chức là “hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong xã hội (cá nhân, tập thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau hành động vì mục tiêu chung” [35, tr.455]. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rõ đặc trưng mang tính phổ biến của "tổ chức" là việc tập hợp, kết hợp, liên kết lại bao giờ cũng theo hình thức cơ cấu và quy luật vận động đã định hình. Qua đó giúp cho “một hệ thống gồm nhiều phân hệ, có những mối quan hệ hữu 6
- cơ hợp lý, rõ ràng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong một tổng thể, phát sinh một lực tổng hợp tác động cùng chiều lên một đối tượng nhằm đạt những mục tiêu chung đã định” [36, tr.208]. Bên cạnh đó, do gắn với đời sống xã hội, "tổ chức" còn được xem là một chức năng lãnh đạo, quản lý. Lãnh đạo, quản lý thể hiện ở việc thực hiện các chức năng nhất định, chủ yếu là xác định về mặt nội dung (làm gì), theo kế hoạch nào (ai làm và làm theo trình tự nào, làm như thế nào v.v..) và chỉ huy, phối hợp, giám sát và kiểm tra. Chức năng tổ chức "hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung..." [37, tr.1558] gắn với chức năng xác định nội dung trong lãnh đạo, quản lý; “sắp xếp, bố trí cho thành một chỉnh thể, có một cấu trúc và những chức năng nhất định” [37, tr.1558] gắn bó chặt chẽ với chức năng kế hoạch hóa; “làm những gì cần thiết để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất” [37, Tr.1558] là gắn với chức năng chỉ huy, phối hợp, giám sát và kiểm tra. Đảng ta cũng đã chỉ rõ “Tổ chức là một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng” [8, tr143] - đây cũng là một trong những công tác của Đảng. Từ các phân tích, dẫn giải nêu trên, có thể đi đến một cách hiểu thống nhất về Tổ chức như sau: "Tổ chức là sự tập hợp những sự vật, con người thành nhóm theo những cơ cấu và quy luật vận động nhất định vì tính chỉnh thể, tính hướng đích trong bản thân nhóm đó cũng như trong quan hệ của nhóm với những nhóm khác, chỉnh thế khác". 1.2.1.3. Khái niệm hoạt động Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ xem xét. Dưới góc độ triết học, “Hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể và khách thể. Trong quan hệ đó, chủ thể là con người, khách thể là hiện thực khách quan. Ở góc độ này, hoạt động được xem là quá trình mà trong đó có sự chuyển hóa lẫn nhau giữa 2 cực Chủ thể và khách thể” [16, tr.54]. Dưới góc độ sinh học, “Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và bắp thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người”. [16, tr.54] Dưới góc độ tâm lý học, “xuất phát từ quan điểm cho rằng cuộc sống của con người là chuỗi những hoạt động, giao tiếp kế tiếp nhau, đan xen nhau, hoạt động được hiểu là phương thức tồn tại của con người trong thế giới”. [16, tr.54] Tóm lại; “Hoạt động là quá trình tác động qua lại tích cực giữa con người với thế giới khách quan để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và phía con người”. [16, tr.54] 1.2.1.4. Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra Pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra. Dựa vào những quy định đó cơ quan thanh tra thực hiện vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định. 1.2.2. Pháp luật về tổ chức thanh tra huyện Theo thứ bậc hành chính Thanh tra huyện là tổ chức cơ sở trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước. ( Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm:Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (sau đây gọi chung là Thanh tra bộ); Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Thanh tra huyện). Luật Thanh tra năm 2010 quy định: Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra và không quá 02 Phó Chánh Thanh tra. 7
- Chánh Thanh tra huyện là người đứng đầu cơ quan Thanh tra huyện, chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Thanh tra huyện. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành và sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Việc miễn nhiệm, cách chức Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định theo quy định của pháp luật sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra tỉnh. Phó Chánh Thanh tra huyện là người giúp Chánh Thanh tra huyện và chịu trách nhiệm trước Chánh Thanh tra huyện và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công. Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định theo tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành và theo đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Việc miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh Thanh tra huyện do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định theo quy định của pháp luật và đề nghị của Chánh Thanh tra huyện. Việc khen thưởng, kỷ luật và các chế độ chính sách khác đối với Chánh Thanh tra và Phó Chánh Thanh tra huyện thực hiện theo quy định của pháp luật. Biên chế công chức của Thanh tra huyện được giao trên cơ sở vị trí việc làm, gắn với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và nằm trong tổng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính của huyện được cấp có thẩm quyền giao. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, danh mục vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức được cấp có thẩm quyền phê duyệt, hàng năm Thanh tra huyện xây dựng kế hoạch biên chế công chức theo quy định của pháp luật bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao. Như vậy, cơ quan thanh tra huyện hiện nay được xác định là đơn vị của cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện. Vì là một cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện nên quyền hạn của cơ quan thanh tra nhà nước cấp huyện có phần nào hạn chế, tính độc lập không cao. 1.2.3. Pháp luật về hoạt động thanh tra huyện Cũng như tổ chức thanh tra huyện, hoạt động thanh tra huyện cũng dựa trên luật thanh tra năm 2010. Luật thnah tra năm 2010 quy định cụ thể về hoạt động thanh tra huyện. Thứ nhất, pháp luật quy định về vị trí, chức năng Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra huyện có con dấu, tài khoản riêng; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp huyện mà trực tiếp là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về nghiệp vụ của Thanh tra tỉnh. Thứ hai, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Thanh tra huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau: - Trình Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định, chỉ thị về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được giao. 8
- - Trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện kế hoạch thanh tra hàng năm và các chương trình, kế hoạch khác theo quy định của pháp luật. - Tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch sau khi được Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt. - Thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. - Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. - Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp hướng dẫn nghiệp vụ công tác cho các Ban Thanh tra nhân dân xã, phường, thị trấn. - Về thanh tra: Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; thanh tra vụ việc phức tạp có liên quan đến trách nhiệm của nhiều Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nhiều cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và các cơ quan, đơn vị khác theo kế hoạch được duyệt hoặc đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao; Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra huyện và của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. - Về giải quyết khiếu nại, tố cáo: Hướng dẫn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiến nghị các biện pháp tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện; Xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi được giao; Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giải quyết lại theo quy định; Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; Tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật. - Về phòng, chống tham nhũng: 9
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện; Phối hợp với cơ quan Kiểm toán nhà nước, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng; Tiến hành xác minh kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổng hợp kết quả kê khai, công khai, xác minh, kết luận, xử lý vi phạm về minh bạch tài sản, thu nhập trong phạm vi địa phương mình; định kỳ báo cáo kết quả về Thanh tra tỉnh; Kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi tham nhũng trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. - Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được thực hiện quyền hạn của Thanh tra huyện theo quy định của pháp luật; được yêu cầu cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức, viên chức tham gia các Đoàn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng. - Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ của Thanh tra huyện. - Tổng hợp, thông tin, báo cáo kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Thanh tra tỉnh. - Quản lý biên chế, công chức, thực hiện các chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng đối với công chức thuộc phạm vi quản lý của Thanh tra huyện theo quy định của pháp luật và theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện. - Quản lý, sử dụng tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện. - Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao và theo quy định của pháp luật. Như vậy, với những quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng. Đặc biệt sự ra đời của luật thanh tra 2010 đã quy định một cách cụ thể về tổ chức và hoạt động thanh tra trong đó có thanh tra huyện. Những quy định của pháp luật có ý nghĩa to lớn trong tổ chức và hoạt động giúp cho thanh tra huyện thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình. Đồng thời đảm bảo cho công tác quản lý diễn ra thuận lợi, cán bộ thanh tra dễ dàng trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Góp phần thực hiện tuân thủ quy định của pháp luật, giúp cho thanh tra huyện hoạt động một cách hiệu quả 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện 1.3.1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý điều hành Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện 1.3.2 Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật 1.3.3. Sự tác động của nền kinh tế thị trường 1.3.4. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra 10
- Kết luận chƣơng 1 Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Để đạt được mục đích pháp luật quy định, hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước nói chung và Thanh tra huyện nói riêng cần thực hiện đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn được giao.Thanh tra huyện có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước ở cấp huyện. Tổ chức và hoạt động thanh tra huyện luôn gắn với tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước. Nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra huyện được quy định trong luật thanh tra năm 2010. Đó cũng là cơ sở pháp lý quan trọng trong tổ chức và hoạt động thanh tra huyện. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA Ở HUYỆN ĐÌNH LẬP TỈNH LẠNG SƠN 2.1. Khái quát chung về huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.2. Về tình hình kinh tế - xã hội 2.1.3. Về phong tục tập quán 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn 2.2.1. Giới thiệu về Thanh tra huyện Đình Lập - Tỉnh Lạng Sơn 2.2.2. Cơ cấu về nhân sự 2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn từ 2017 đến nay 2.3.1. Về công tác thanh tra Trên cơ sở quy định của luật thanh tra năm 2010, hằng năm thanh tra huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch thanh tra trình chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt và triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Nội dung kế hoạch thanh tra được xây dựng dựa trên cơ sở định hướng chung của ngành Thanh tra và của chủ tịch Uỷ Ban nhân dân huyện. Về thực hiện báo cáo kết quả về công tác thanh tra: Định kỳ, tháng, quý… Và hằng năm Thanh tra huyện đều thực hiện nghiêm túc việc báo cáo kết quả về công tác thanh tra cho chủ tịch Uỷ Ban nhân dân huyện và Thanh tra tỉnh Về theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, Thanh tra huyện: Sau khi có kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, Thanh tra huyện vào sổ theo dõi việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định đó và thường xuyên trực tiếp đôn đốc, kiểm tra các tổ chức, các nhân có trách nhiệm phải thực hiện, nhưng chưa chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ. Ngoài ra trong những năm qua Thanh tra huyện Đình Lập đã có nhiều cố gắng chủ động, chỉ đạo, hướng dẫn ủy ban nhân dân các xã tổ chức thực hiện tốt việc theo dõi, ghi chép công tác tiếp công dân, việc tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trên địa bàn. 11
- Nhờ tăng cường công tác quản lí nhà nước về thanh tra nên nhận thức và trách nhiệm của các cấp các ngành của huyện về công tác thanh tra đã được tăng lên; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng vào việc đáp ứng yêu cầu quản lí nhà nước, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Căn cứ vào kế hoạch thanh tra được phê duyệt và theo sự chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, hằng năm Thanh tra huyện đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quản lý tài chính ngân sách; thanh tra trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của một số chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã… Qua thanh tra đã phát hiện, xử lý theo thẩm quyền xử lý nhiều sai phạm, thu hồi tiền, tài sản cho nhà nước và tập thể, cá nhân; đồng thời kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách, quy định nhằm khắc phục những khuyết điểm, sở hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển kinh tế và tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội. 2.3.2. Về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo Thanh tra huyện Đình Lập hướng dẫn Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiến nghị các biện pháp tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Chủ tịch Ủy ban nhân cấp huyện; Xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi được giao; Xem xét, kết luận việc giải quyết tố cáo mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, giải quyết lại theo quy định; Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý tố cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; Tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 2.3.3. Về hoạt động phòng, chống tham nhũng Trong những năm qua thanh tra huyện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp huyện; Phối hợp với cơ quan Kiểm toán nhà nước, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng; Tiến hành xác minh kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổng hợp kết quả kê khai, công khai, xác minh, kết luận, xử lý vi phạm về minh bạch tài sản, thu nhập trong phạm vi địa phương mình; định kỳ báo cáo kết quả về Thanh tra tỉnh; Kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm ngăn chặn hành vi tham nhũng trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. - Kết quả thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng Việc thực hiện các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. 12
- Uỷ ban nhân dân huyện tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện công khai, minh bạch các chính sách, quy trình, thủ tục giải quyết công việc gắn với cải cách thủ tục hành chính, công khai việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, phân bổ dự toán, phân cấp nguồn thu, công khai các chế độ, định mức, tiêu chuẩn… Trong nội bộ các cơ quan, tổ chức, đơn vị việc công khai hoạt động tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ cơ bản đã đi vào nề nếp. Thực hiện thanh toán lương và một số khoản phụ cấp qua tài khoản mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đình Lập; tiếp tục thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức theo quy định. Thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quyết định số 64/2007/QĐ-TTG ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế về việc tặng quà, nhận quà tặng và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Qua theo dõi, tổng hợp trên địa bàn huyện, không phát hiện có cơ quan, đơn vị, cá nhân tặng và nhận quà tặng không đúng quy định. Tổ chức thực hiện các thủ tục hành chính do cơ quan có thẩm quyền ban hành; tiến hành niêm yết công khai các thủ tục hành chính theo quy định tại các cơ quan, đơn vị, tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để nhân dân tra cứu, thực hiện và theo dõi, giám sát. Tiếp tục sử dụng phần mềm Chương trình văn phòng điện tử (eOffice) trong hoạt động trao đổi, giải quyết các công việc giữa các cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp trực thuộc. Việc kê khai tài sản, thu nhập Thực hiện minh bạch tài sản, thu nhập theo Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc kê khai tài sản, thu nhập năm 2018 đối với các cơ quan, đơn vị, những người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập theo quy định. Tổng số người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập trong năm 2017 là 389 người/83 cơ quan. Còn năm 2018 đã được phê duyệt là 392 người/83 cơ quan, đơn vị, tăng so với năm 2017 là 03 người (tăng 0,77%). Trong đó: Số người đã thực hiện kê khai tài sản, thu nhập: 390 người/392 người, đạt tỷ lệ 99,49%; Số người không kê khai tài sản, thu nhập trong năm: 02 người, tỷ lệ 0,51% do tháng 01 năm 2019 nghỉ theo Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về chính sách tinh giản biên chế. Công tác thanh tra, kiểm tra về công tác phòng, chống tham nhũng Từ năm 2017 đến hêt năm 2019, Uỷ ban nhân dân huyện chỉ đạo cơ quan thanh tra tiến hành 08 cuộc thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng (02 cuộc năm 2017, 03 cuộc năm 2018, 03 cuộc triển khai trong năm 2019, 01 cuộc từ năm 2018 chuyển sang kết luận trong năm 2019). Qua kết luận 08 cuộc thanh tra, không phát hiện được các hành vi tiêu cực, tham nhũng xảy ra. 2.3.4. Hoạt động khác của thanh tra huyện Đình Lập – tỉnh Lạng Sơn Tổ chức ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; xây dựng hệ thống thông tin, lưu trữ phục vụ công tác quản lý nhà nước và chuyên môn, nghiệp vụ của Thanh tra huyện. Tổng hợp, thông tin, báo cáo kết quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp huyện và Thanh tra tỉnh. Quản lý biên chế, công chức, thực hiện các chế độ, chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, đào tạo và bồi dưỡng đối với công chức thuộc phạm vi quản lý của Thanh tra huyện theo quy định của pháp luật và theo phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện. 13
- Quản lý, sử dụng tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật và phân cấp của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Thực hiện nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân cấp huyện giao và theo quy định của pháp luật. 2.4. Nhận xét, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện Đình Lập 2.4.1. Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân về tổ chức thanh tra huyện 2.4.2. Kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân về hoạt động thanh tra huyện Kết luận chƣơng 2 Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng đang còn nhiều hạn chế, bất cập. Thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn tuy đã được quan tâm, củng cố, kiện toàn, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, song thực tế hiện nay, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên của cơ quan thanh tra huyện Đình Lập chưa đáp ứng được cao yêu cầu nhiệm vụ, nên hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thanh tra của thanh tra huyện không cao. Do vậy, hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động thanh tra, trong đó có thanh huyện là đòi hỏi tất yếu khách quan. Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THANH TRA – TỪ HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra huyện Trong mô hình của nền hành chính công mới, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của thanh tra có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhưng, hệ thống luật pháp về thanh tra còn một số nội dung chưa phù hợp với Hiến pháp mới. Điều này đặt ra trách nhiệm phải hoàn thiện lại một cách chuẩn mực các định chế mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Trước hết, cần sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra theo hướng kiện toàn về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan thanh tra theo hướng có tính độc lập hơn để tránh việc cơ quan thanh tra phụ thuộc quá nhiều vào thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp. Thứ hai, nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học quy định chức năng giám sát hành chính của cơ quan thanh tra. Thứ ba, cần nghiên cứu, làm rõ các luận cứ khoa học, xây dựng quy định về việc trao cho thanh tra quyền khởi tố ban đầu đối với vụ việc có hành vi vi phạm nghiêm trọng đến mức độ phải xử lý hình sự. Hoàn thiện quy định về thẩm quyền của cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng Trước tình hình thực tiễn hiện nay việc hoàn thiện những quy định pháp luật về thanh tra là rất cần thiết, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra nói chung và thanh tra huyện nói riêng. 3.1.1. Dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân 14
- Hiến pháp 2013 của nhà nước ta đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Điều 2); “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3) và “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” [21]. Như vậy Nhà nước ta đang tiến hành tạo dựng những nền tảng cần thiết để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa không tách rời với qua trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài đặc điểm là Nhà nước luôn luôn xác định mục tiêu cao nhất là vì con người, là nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân và đặc biệt quan trọng đó là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân. Quản lý nhà nước bằng pháp luật là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng dân chủ, văn minh, là phương pháp cơ bản nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải bảo đảm, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khắc phục được sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện tốt vai trò, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước cần phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, đảm bảo chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước là đấu tranh chống các vi phạm pháp luật để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, nhằm ổn định duy trì sự công bằng trong xã hội. 3.1.2. Dựa trên quan điểm, mục tiêu phát triển ngành Thanh tra đã được xác định trong Chiến lược phát triển nghành Thanh tra đến 2020 và tầm nhìn 2030 Chiến lược phát triển nghành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định ban hành vào ngày 08 tháng 12 năm 2015 Quan điểm phát triển nghành Thanh tra đó là: Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thanh tra, kiểm tra; thể chế hóa kịp thời tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có liên quan đến công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với ngành Thanh tra. Xây dựng cơ quan thanh tra nhà nước có thực quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng và từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập hiện nay. Phát triển ngành Thanh tra với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phòng, chống tham nhũng và hội nhập quốc tế [30]. Mục tiêu chung phát triển nghành thanh tra là: “ Xác lập địa vị pháp lý của các cơ quan thanh tra phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra; xây dựng ngành Thanh tra, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra 15
- chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế” [30]. Mục tiêu cụ thể: Giai đoạn đến năm 2020: Kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế; chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao chất lượng các mặt công tác, đặc biệt là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng và xử lý sau thanh tra trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có liên quan. Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030: Xây dựng và tăng cường tính hệ thống của ngành Thanh tra theo hướng quản lý tập trung, thống nhất về tổ chức, biên chế; nâng cao vai trò của các cơ quan thanh tra trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành Thanh tra. Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển mạnh sang xem xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Các cơ quan thanh tra ngành, lĩnh vực tập trung kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm của các tổ chức, cá nhân trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt là các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày và lợi ích của người dân. Với quan điểm và mục tiêu phát triển nghành Thanh tra được ghi nhận trong Chiến lược là cơ sở pháp lý quan trọng để hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của nghành thanh tra, trong đó có thanh tra cấp huyện. 3.1.3. Đáp ứng nhu cầu mở cửa, hội nhập quốc tế Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, việc đáp ứng được các yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mở cửa, hội nhập đón các nguồn đầu tư từ nước ngoài mở ra nhiều thời cơ đồng thời cũng đặt ra những thách thức. Để quản lý được nền kinh tế xã hội trong giai đoạn mới, việc đổi mới và tổ chức các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và cơ quan thanh tra nói riêng là điều tất yếu. Không chỉ dừng lại ở việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật mà quan trọng hơn, từ thực tiễn hoạt động, cơ quan thanh tra chủ động kiến nghị, đề xuất, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý. Có thể thấy xuất phát từ những yêu cầu khắc phục những hạn chế, bất cập trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra hiện nay, yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước thì việc đổi mới tổ chức và hoạt động của toàn nghành thanh tra trong đó có thanh tra huyện là việc làm cần thiết. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra Pháp luật về thanh tra xuất phát từ yêu cầu thực tiễn quản lý nhà nước trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn nhất định, dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng về thanh tra của Hiến pháp hiện hành. Luật Thanh tra năm 2010 về các văn bản hướng dẫn thi hành hiện nay đã nảy sinh nhiều bất cập, không còn phù hợp. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về thanh tra, trong đó có tổ chức và hoạt động thanh tra huyện, đảm bảo phù hợp với giai đoạn hiện nay. 3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Thanh tra huyện 3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hoạt động Thanh tra huyện 16
- 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo 3.2.2.1. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại 3.2.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tố cáo 2.2.3. Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tham nhũng Thứ nhất, quy định về công khai, minh bạch cần mang tính bao quát hơn và có các biện pháp bảo đảm thực hiện. Thứ hai, cần quy định một cách đầy đủ, toàn diện về các biện pháp kiểm soát xung đột lợi ích đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ làm giảm hiệu quả phòng ngừa và phát hiện tham nhũng. Thứ ba, các quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình cần cụ thể, đẩy mạnh tính chủ động của người đứng đầu trong phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng. Thứ tư, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát được biến động về tài sản, thu nhập; việc xử lý người kê khai không trung thực hoặc không giải trình được một cách hợp lý về biến động tài sản, thu nhập còn chưa hiệu quả. Vì vậy cần có những quy định cụ thể để việc kiểm soát biến động về tài sản, thu nhập hiệu quả hơn. Thứ năm, cần có các quy định phù hợp về cơ chế phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động kiểm tra, kiểm toán nhà nước, thanh tra nhà nước và giám sát, để phát huy được vai trò, chức năng của mỗi cơ quan. Thứ sáu, các quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo cần phải đầy đủ hơn nữa, để phát huy được sự tham gia của người dân trong việc phát hiện hành vi tham nhũng. Thứ bảy, mối quan hệ giữa Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản pháp luật khác cần phải xác định rõ vị trí, vai trò để vận dụng một cách thống nhất và phải có biện pháp xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của Luật phòng chống tham nhũng. Thứ tám, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử trong phát hiện tham nhũng, đặc biệt quy định về chuyển vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra nhằm đảm bảo tính kịp thời; quy định phương thức phối hợp giữa cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán với các cơ quan điều tra, kiểm sát ngay trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm nhằm xử lý nhanh chóng vụ việc. 3.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động của Thanh tra huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn 3.3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của UBND huyện Đình Lập đối với Thanh tra huyện Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra: Công tác kiểm tra của Đảng và Nhà nước cùng với hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước với mục đích giữ gìn kỷ cương pháp luật, có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng quản lý, phát hiện, khắc phục kẽ hở của các chính sách, pháp luật góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh tra là công tác quan trọng, do vậy phải được tiến hành thường xuyên, vì nếu công tác thanh tra không được tiến hành thường xuyên sẽ dẫn tới bệnh quan liêu, mệnh lệnh và từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác cho sự nghiệp cách mạng. Bác Hồ đã thường căn dặn cán bộ Thanh tra: “Cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các cấp địa phương kịp thời sửa chữa, uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm. Cho nên trách nhiệm của công tác thanh tra là quan trọng” (Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra. Uỷ Ban Thanh tra của Chính phủ, 1977). Người còn nói: “Muốn 17
- chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát” [ 9, tr.287] Thực tế cho thấy, những cơ quan, đơn vị mà người lãnh đạo chú trọng công tác thanh tra và tiến hành thường xuyên hoạt động thanh tra thì không những kỷ cương, pháp luật trong quản lý duy trì mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động quản lý, thúc đẩy các hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý, kinh doanh của các doanh nghiệp. Những nơi không chú trọng công tác thanh tra, sẽ dễ dẫn đến những vi phạm, thậm chí là vi phạm nghiệm trọng tới mức phạm tội hình sự. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới” [9]. Với quan niệm như vậy, Người chỉ ra rằng, hoạt động thanh tra không những giúp cho người lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị thấy được kết quả và mức độ thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước; mà còn có tác dụng giúp cho việc xem xét, đánh giá những chủ trương, chính sách và pháp luật đã đề ra có đúng và có sát thực tiễn hay không. Từ kết quả thanh tra, người lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị kịp thời xem xét, điều chỉnh và có những biện pháp cụ thể thích hợp giúp cho công tác quản lý, chỉ đạo; điều hành của mình sát thực tiễn và có hiệu quả; đồng thời cũng là biện pháp để xây dựng, hoàn thiện cơ cấu, tổ chức, bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhân viên ngày một tốt hơn. Với cách tiếp cận như vậy cho thấy thanh tra chính là “cánh tay nối dài của trên”. Đối với các cấp lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức khi được thanh tra kết luận sẽ giúp cho đối tượng được thanh tra nhận thức đầy đủ về ưu điểm và những vi phạm, thiếu sót của mình. Thấy được những việc làm đúng, làm tốt để tiếp tục phát huy; những việc làm chưa đúng, những sai phạm, thiếu sót để khắc phục sửa chữa và nâng cao năng lực, trách nhiệm của mình. Như vậy, thanh tra chính là đã giúp đỡ mình trong quá trình thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước và thanh tra cũng là “bạn của dưới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cho rằng, công tác thanh tra phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội, công tác thanh tra có vai trò quan trọng như vậy nên cần được tiến hành thường xuyên trong hoạt động quản lý nhà nước. Vì sự quan trọng đó nên: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền huyện đối với thanh tra huyện là yêu cầu khách quan, thiết yếu. Để lãnh đạo, chỉ đạo tốt, UBND huyện cần có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng. Sự lãnh đạo của đảng và chính quyền đối với hoạt động thanh tra của thanh tra huyện chỉ mang tính định hướng chung, đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thanh tra, không can thiệp quá sâu vào hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra huyện. Mặc dù thanh tra huyện là cơ quant tham mưu, giúp việc cho thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện, nhưng trong hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật. Nguyên tắc hoạt động thanh tra quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Thanh tra 2010 đó là “Tuân theo pháp luật: bảo đảm chính xác, khách quan, trưng thực, công khai, dân chủ, kịp thời” [23]. 3.3.2. Đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, thanh tra viên cơ quan Thanh tra huyện Thứ nhất, quan tâm làm tốt khâu tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức làm việc ở cơ quan thanh tra. Thứ hai, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của cán bộ, công chức thanh tra. Thứ ba, kiện toàn đội ngũ cán bộ cơ quan thanh tra, trong đó trước hết tăng thêm biên chế cho thanh tra huyện. 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 232 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn