Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khảo sát các qui định của pháp luật Việt Nam và quy định của pháp luật quốc tế, đồng thời liên hệ với thực tiễn áp dụng tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
- 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HÀ THU HIỀN QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ Chuyên ngành : Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2020
- 2 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Đào Trí Úc Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia. Địa điểm: Phòng nhà A, Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia. Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP. Hà Nội. Thời gian: vào hồi giờ phút ngày tháng năm 2020. Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia.
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã được ghi nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định pháp luật trong tố tụng hình sự mà mấu chốt thực hiện các quyền này ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở cấp huyện, cấp huyện hiện nay. Bởi lẽ, xét về thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân cấp huyện xét xử những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Chế tài hình sự áp dụng cho bị cáo đối với những vụ án sơ thẩm hình sự ở Tòa án nhân dân cấp huyện nghiêm khắc như vậy nên càng không cho phép bất cứ có sự sai sót, hay “tai nạn công lý” đối với cơ quan, người tiến hành tố tụng. Điều này đặt ra yêu cầu ngày càng khắt khe hơn trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là phải bảo vệ quyền cho bị cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai trong hoạt động xét xử sơ thẩm. Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân cũng được phát triển. Trong bối cảnh đó, tình hình trấn áp, xử lý tội phạm, bảo vệ an ninh chính trị xã hội được đề cao, nhiều loại tội phạm phức tạp cũng xuất hiện. Từ bắt, tạm giữ, điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự là một quá trình dài để buộc tội, kết án đối với những chủ thể bị buộc tội khác nhau. Việc đảm bảo quyền của những chủ thể bị buộc tội này là rất cần thiết để hoạt động tố tụng tiến hành đúng pháp luật, khởi tố, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đảm bảo việc không để làm trái, làm sai pháp luật, xâm phạm đến quyền của những người bị buộc tội. Tuy nhiên, trên thực tế, các quyền của bị cáo ở một số phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp huyện trong cả nước nói chung và ở thị xã Phú Thọ nói riêng chưa thật sự được bảo đảm, nhiều quyền của bị cáo vẫn còn bị hạn chế, vi phạm. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn để có những kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động 2 xét
- 4 xử sơ thẩm các vụ án hình sự của tòa án nhân dân cấp huyện là nhiệm vụ cấp thiết. Đây chính là lý do khích lệ học viện lựa chọn đề tài “Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình với mong muốn kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ cần thiết với thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, mà còn có ý nghĩa đóng góp thiết thực đối với việc đảm bảo quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên phạm vi cả nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo thông tin tra cứu tại Thư viện Quốc gia, Thư viện các cơ sở đào tạo Luật của Việt Nam, các tạp chí khoa học chuyên ngành luật và các nguồn thông tin khác, tính đến thời điểm nghiên cứu mà tác giả tiếp cận có một số công trình nghiên cứu về đề tài này dưới các góc độ khác nhau.Bên cạnh đó, có thể kể đến những công trình nghiên cứu và một số bài viết liên quan đến đề tài này như: Đề cập đến vấn đề quyền con người nói chung có các công trình khoa học tiêu biểu như: GS.TS Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực Nhà nước và quyền con người, NXB Tư pháp, Hà Nội. Đặc biệt là các công trình: GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS. Vũ Công Giao, TS. Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người, tiếp cận đa ngành, liên ngành, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội… Đề cập đến vấn đề quyền con người trong tố tụng hình sự có các công trình tiêu biểu như: Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự: Lý luận, thực trạng và hướng hoàn thiện pháp luật, Đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ trì) (2011), Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS. TS Nguyễn Thái Phúc (2010)… Các công trình là luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Đoàn Hải Nam (2016), Bảo
- 5 đảm quyền con người của bị 3 cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2016… Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: GS.TSKH. Đào Trí Úc (2009), Hành trình quyền con người, Tạp chí Khoa học Pháp lý; GS.TSKH. Đào Trí Úc - Nguyễn Mạnh Hùng (2011).... Một số công trình nghiên cứu ở ngoài nước liên quan đến đảm bảo quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sụ của toàn án có thể kể đến như: - Human rights and the courts in Canada của tác giả Nancy Holmes. - Nội dung hệ thống tranh tụng Nhật Bản của Setsuo Miyazama. - Dofendants in the criminal process của A.E. Bottoms, J.D. - Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (Tradition on and theory and implementation of human rights in China and Vietnam) của Tống Tiểu Trang, Sa Khởi Quang, Hoàng Nam Sâm. - Đảm bảo quyền cho người bị buộc tội theo Điều 6 Công ước châu Âu về nhân quyền của tác giả Stephanos Stavros. Như vậy, qua khảo sát tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn, thấy rằng tuy có một số công trình đề cập đến vấn đề quyền con người trong pháp luật nói chung, quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng, nhưng nhiều vấn đề lý luận còn bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập nhưng chưa đầy đủ. Do vậy, vẫn còn nhiều khía cạnh cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về đề tài quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận về quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khảo sát các qui định của pháp luật Việt Nam và quy định của pháp luật quốc tế, đồng thời liên hệ với thực tiễn áp dụng tại thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- 6 Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người và ý nghĩa của việc đảm bảo quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thứ hai, phân tích các cơ sở lý luận và các quy định của pháp luật về quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Làm rõ vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, đánh giá hiệu quả cũng như làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thứ tư, đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động liên quan đến việc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định của pháp luật Việt Nam đối với việc bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn quyền con người đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tập trung chủ yếu vào nội dung quyền con người đối với bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trong mối liên hệ với các chế định khác của tố tụng hình sự. Phạm vi nghiên cứu khảo sát các vấn đề thực tiễn: Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, các năm 2016, 2017, 2018, 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về Nhà nước Pháp 5 quyền XHCN, về cải
- 7 cách tư pháp. Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận về quyền con người và bảo đảm quyền con người. Các vấn đề trong Luận văn được phân tích, lý giải trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát xã hội học, phỏng vấn chuyên gia, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt khoa học: Đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập về bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền con người đối với bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở thực tiễn trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật. Đồng thời những giải pháp và kiến nghị cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Với ý nghĩa như vậy, kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu gồm 2 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ và những kiến nghị, giải pháp.
- 8 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người Quyền con người là khái niệm rộng và có thể tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền con người có thể chia theo các nhóm tương ứng với các lĩnh vực của đời sống. Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người. Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do…; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Từ khái niệm chung về quyền con người ở trên, có thể đưa ra khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự như sau: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những điều mà bất cứ ai (không phân biệt giới tính, độ tuổi, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần xã hội…) khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự đều được hưởng, được làm và được đòi hỏi. Bảo đảm quyền con người và quyền công dân là một vấn đề lớn, phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Bảo đảm quyền con người 7 xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực hiện những cam kết trong pháp luật quốc tế về các quyền con người vào trong pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào
- 9 quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự mình vận hành trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc gia. Phải thông qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về quyền con người mới hình thành nên những địa vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo đảm, vận hành bởi pháp luật. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định và phải do những người, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để nhằm mục đích không để lọt tội phạm đồng thời đảm bảo không làm oan người vô tội. 1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND là việc ghi nhận các quyền của bị cáo trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động thực tiễn Nhà nước và các chủ thể khác phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về quyền của bị cáo; đồng thời ngăn ngừa sự xâm phạm và bảo vệ các quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND. Bảo đảm quyền con người của bị cáo còn phải tạo ra các điều kiện cần thiết, tốt nhất để các quyền của bị cáo trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND được thực hiện một cách đầy đủ, hiệu quả nhất và không bị xâm phạm. Từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là việc Nhà nước chính thức ghi nhận bằng pháp luật các quyền của bị cáo; đồng thời thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND, các chủ thể thực hiện nghĩa 8 vụ, trách nhiệm của mình để bị cáo tiếp cận, hưởng thụ được các quyền của họ theo quy định của pháp luật. 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
- 10 1.1.3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội Việc quy định quyền của bị cáo và những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử nói riêng và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung có ý nghĩa chính trị -xã hội sâu sắc, cụ thể: - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện sự dân chủ của chế độ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa; thể hiện sự dân chủ của chế độ tố tụng nước ta; thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp mà trước hết là đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong đó có quyền của bị cáo - người bị buộc tội trong vụ án hình sự. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân vì dân và do dân. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước pháp quyền là xây dựng và hoàn thiện một nền tư pháp hiện đại, công bằng, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền cá nhân. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện quan điểm nhất quán của Nhà nước ta trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài là đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với đời sống pháp lý quốc tế tiến bộ và nhân văn, bảo đảm sự công bằng, dân chủ trong xã hội. Đây cũng là sự phản ánh rõ ràng quan điểm cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tố tụng theo định hướng lấy con người làm trung tâm, pháp luật về tư pháp nói chung và tư pháp hình sự nói riêng trước hết vì con người. 1.1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 9 - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm xác lập điều kiện thuận lợi để bị cáo trực tiếp hay gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các chế tài hình sự đối với bị cáo. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự giúp nâng cao trách nhiêm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong xét xử
- 11 sơ thẩm vụ án hình sự, có căn cứ pháp lý để phát hiện và xử lý các vi phạm quyền của bị cáo từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 1.2. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.1. Các quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự Nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể tham gia tố tụng, BLTTHS 2015 quy định những quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự phải tôn trọng. Các quyền chung này được quy định từ điều 7 đến điều 33 của BLTTHS. Tính điều chỉnh của quyền chung thể hiện ở hiệu lực của nó đối với các chủ thể tố tụng mà trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT. Các chủ thể đó có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật TTHS, thực hiện đúng giới hạn thẩm quyền, tuân thủ các quyền chung đã được pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các quy định pháp luật tố tụng cụ thể mà vi phạm các quyền chung của TTHS cũng phải được xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố tụng. Tác giả phân loại các quyền chung theo các nhóm sau: 1.2.1.1. Nhóm các quyền có nội dung liên quan đến yêu cầu về bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự Đó là nội dung của các nguyên tắc được quy định tại Điều 3 BLTTHS: "Bảo đảm pháp chế XHCN trong tố tụng hình sự". Theo đó, mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng (TGTT) phải được tiến hành theo quy định của BLTTHS và 10 Điều 13 BLTTHS xác định trách nhiệm của các Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), TA trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự. Theo nguyên tắc này, khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan nói trên, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp theo luật định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. 1.2.1.2. Nhóm các quyền bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành
- 12 tố tụng hình sự Trong nhóm này, trước hết đó là nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 BLTTHS. Theo đó, khi THTT, những người THTT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Có thể nói rằng, nguyên tắc này có nội dung rất gần với đòi hỏi về pháp chế vì hàm chứa trong đó đòi hỏi về việc xem xét, đánh giá, kiểm tra tính hợp pháp của các biện pháp đã áp dụng. Tuy nhiên, mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là để bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong các hoạt động TTHS mà không chỉ dừng lại ở yêu cầu về việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. 1.2.1.3. Nhóm các quyền về tính chất của hoạt động tố tụng hình sự Những nguyên tắc thuộc nhóm này là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo được quy định trong BLTTHS nói lên tính chất và đặc điểm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, những bảo đảm về tính thận trọng, vô tư, khách quan trong các hoạt động tố tụng. Đó là nguyên tác quy định trách nhiệm chúng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10); nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14); nguyên tác Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ 11 tuân theo pháp luật (Điều 16); nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số (Điều 17); nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18); nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án. Theo đó, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước TA. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19); nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20); nguyên tắc giải quyết
- 13 các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28); nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (Điều 31). 1.2.1.4. Nhóm các quyền về sự tham gia của nhân dân và sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan nhà nước khác đối với hoạt động tố tụng hình sự Những nguyên tắc này được coi là những bảo đảm quan trọng cho hiệu hoạt động của TTHS. Đó là: Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, theo đó, việc xét xử của Toà án nhân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán (Điều 15); nguyên tắc về trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25). Theo quy định điều luật này, cơ quan THTT có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và công dân tham gia TTHS; phải trả lời kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết; nguyên tắc về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan THTT (Điều 26); nguyên tắc về sự giám sát của các cơ quan tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan THTT, người THTT (Điều 32). 1.2.2. Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.2.1. Quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 12 Giai đoạn chuẩn bị xét xử có ý nghĩa quan trọng đối với việc xét xử vụ án tại phiên tòa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015, bị cáo có những quyền sau đây: - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. - Bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định khác có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản án; quyết định của toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật. Các quyết định này là căn cứ pháp lí để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến các quyết định đó. 1.2.2.2. Quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Phiên tòa xét xử là nơi bị cáo trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời cũng là nơi bị cáo có thể bị kết tội, áp dụng trách nhiệm hình sự. Vì
- 14 vậy, tại phiên tòa bị cáo có các quyền sau: Thứ nhất, quyền được tham gia phiên tòa; được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ tại phiên tòa. Thứ hai, được đưa ra các đề nghị có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ ba, được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyề ố tụng kiểm tra, đánh giá; Thứ tư, tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Thứ năm, trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa; 1.2.2.3. Quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm Sau khi kết thúc phiên tòa, bị cáo có quyền: - Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. 13 - Được nhận quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 1.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.3.1. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm Để bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tòa án phải thực hiện nhiệm vụ sau: Tông đạt các quyết định tố tụng cho bị cáo đúng thời hạn luật định; Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏi sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong kế hoạch xét hỏi cần chú ý làm rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt…; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. 1.3.2. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm Các chủ thể có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực hiện quyền của bị cáo bao gồm Chánh án, Thẩm phán, Chủ tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện trưởng viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai đoạn này các chủ thể nói trên phải thực
- 15 hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng như: - Bảo đảm quyền được tham gia phiên tòa của bị cáo - Bảo đảm quyền của bị cáo khi bắt đầu phiên tòa - Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa - Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo khi nghị án và tuyên án Các quyền của bị cáo trong từng bước của trình tự phiên tòa cần phải được đảm bảo. Mỗi một giai đoạn khi tiến hành xét xử sẽ tác động trực tiếp tới quyền nhân thân của bị cáo. Do vậy, từng hoạt động điều hành diễn biến phiên tòa phải được Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa tôn trọng và thực hiện đầy đủ. 1.3.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm Sau khi kết thúc phiên tòa, để thực hiện quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án, Tòa án phải giao bản án, quyết định cho bị cáo trong thời hạn luật định (10 ngày); giao bản án, quyết định cho bị cáo bị xử vắng mặt; niêm yết bản án theo quy định. Việc làm này giúp bị cáo nắm được nội dung những phán quyết của tòa án để cân nhắc xem có cần kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án theo thủ tục phúc thẩm không. 1.3.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách tư pháp vì quyền con người. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện nhằm hướng tới một nền tư pháp hiện đại, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện góp phần giải quyết đúng đắn quá trình chứng minh vụ án hình sự. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện góp phần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai trong hoạt động tố tụng. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện góp phần thực hiện đúng đắn nội dung các quy định và thực hiện các nguyên tắc trong TTHS. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
- 16 TAND cấp huyện nhằm khẳng định địa vị pháp lý của bị cáo, minh bạch hóa các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo. Tiểu kết Chương 1 Trong thế giới phát triển đa chiều như hiện nay thì vấn đề quyền con người luôn là trung tâm chi phối các hoạt động của mọi quốc gia. Nó mang tính phổ biến chung của nhân loại. Các quốc gia đã hiện thực hóa và phản ánh vào các quy phạm pháp của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo đảm để quyền con người được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã được ghi nhận trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định pháp trong TTHS mà mấu chốt thực hiện các quyền này đối với bị cáo ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự hiện Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định theo hướng mở rộng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử, có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xét xử. Để bảo đảm quyền của bị cáo, hai giai đoạn là trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng cần thực hiện các nội dung theo từng giai đoạn xét xử: giai đoạn trước khi mở phiên tòa (để bảo đảm quyền của bị cáo, các chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện các hoạt động sau: gửi các quyết định tố tụng cho bị cáo; lập kế hoạch xét hỏi sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; tiến hành các công việc chuẩn bị mở phiên tòa; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện. Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng trong việc để bị cáo thực hiện các quyền của mình. Bởi lẽ, khi nhận được các quyết định tố tụng này bị cáo bắt đầu bước sang một giai đoạn khác trong vòng quay tố tụng). Ở giai đoạn tại phiên tòa (Các chủ thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bao gồm Chánh án, Thẩm phán, Chủ tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai đoạn
- 17 này các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng). CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP 2.1. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ 2.1.1. Đặc điểm tình hình Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ Tại tỉnh Phú Thọ hiện nay, cơ cấu tổ chức của TAND hai cấp hiện tại có 14 đơn vị gồm: TAND tỉnh và 13 TAND các huyện, thị xã, thành phố, trong đó có TAND thị xã Phú Thọ với tổng số 12 biên chế. Trong đó có 04 Thẩm phán, 03 Thư ký, 01 Thẩm tra viên, 01Chuyên viên, 01 kế toán và 02 cán bộ hợp đồng 68. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý có lập trường chính trị vững vàng, được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác. Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại TAND thị xã Phú Thọ nói riêng và TAND cấp huyện nói chung có một số đặc điểm riêng như sau: Bị cáo bị truy tố và xét xử về các tội phạm có hình phạt ở mức độ nghiêm khắc nhất nên đặt ra yêu cầu cần phải bảo vệ quyền cho bị cáo tốt nhất, hạn chế oan, sai. Ở một số vụ án hình sự bị cáo được hưởng một số quyền nhất định mà theo quy định của pháp luật Tòa án phải đáp ứng như bị cáo là người chưa thành niên phải có người đại diện tại phiên tòa. Tùy theo tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của địa phương trong những thời điểm nhất định mà vụ án sơ thẩm hình sự phải được giải quyết tại TAND cấp huyện. Tuy nhiên khi đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm ở TAND cấp huyện, ở một số địa phương, bị cáo, người làm chứng, người đại diện quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo, người giám hộ sống ở vùng sâu, vùng xa gặp khó khăn khi di chuyển, hay khó khăn trong việc nhận các quyết định tố tụng… Do vậy, TAND cấp huyện và các cơ quan hữu quan phải chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền của bị cáo.
- 18 2.1.2. Những kết quả đạt được Kết quả công tác xét xử của TAND thị xã giai đoạn từ 01/01/2016 đến 31/12/2019 thể hiện ở các nội dung sau: Số liệu 01/01/2016 đến 31/12/2019 thụ lý 262 vụ/514 bị cáo Trong đó: + Đã giải quyết: 258 vụ/501 bị cáo (đạt tỷ lệ 98% so với số thụ lý) Số đã xét xử: 250 vụ/489 bị cáo, trong đó xét xử lưu động 12 vụ. Tác giả tiến hành phân tích công tác xét xử của TAND thị xã Phú Thọ năm 2019, từ đó đưa ra đánh giá khái quát công tác xét xử của TAND thị xã trong công tác đảm bảo quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử. Theo báo cáo kết quả công tác năm 2019, phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của TAND thị xã ngày 03 tháng 11 năm 2019, thì công tác giải quyết, xét xử các loại án (số liệu được tính từ ngày 01/01/2019 đến 31/10/2019). Kết quả giải quyết như sau: Tòa án nhân dân thị xã thụ lý 32 vụ - 52 bị cáo (cũ chuyển qua 05 vụ), giải quyết 29 vụ - 47 bị cáo, đạt tỷ lệ 90%. So với cùng kỳ năm 2018, thụ lý giảm 02 vụ (giảm 0,9%), giải quyết giảm 04 vụ (giảm 0,87%). Tòa án nhân dân thị xã đã phối hợp tốt với các cơ quan liên quan đưa ra xét xử lưu động 02 vụ - 06 bị cáo. Đây là các vụ án có liên quan đến một số loại tội được xác định là án trọng điểm về “cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy” cần được mở rộng phạm vi tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân và phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. 2.1.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm * Những hạn chế, vướng mắc khi thực hiện một số quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung - Hạn chế, vướng mắc khi thực hiện các quyền của bị cáo như: quyền bình đẳng trước tòa án, được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị và công khai. 18 - Hạn chế, vướng mắc khi thực hiện quyền được suy đoán vô tội của bị cáo. - Hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Những hạn chế, vướng mắc đó xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, pháp luật chưa quy định chế tài đối với những người tiến hành tố tụng khi cố ý gây khó khăn, trở ngại cho người bào chữa. Thứ hai, pháp luật chưa quy định chế tài đối với người bào chữa do không thực hiện hết trách nhiệm của người bào
- 19 chữa. * Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị cáo khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND thị xã Phú Thọ - Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị cáo tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. - Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền của bị cáo trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ. * Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ: - Quy định về thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án của các thành viên hội đồng xét xử là hội thẩm chưa thật phù hợp. - Tòa án thị xã chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho HTND thực hiện nhiệm vụ xét xử. Ví dụ có những trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân không trao đổi, tham khảo trực tiếp trước với HTND, cả với lãnh đạo của nơi HTND công tác để lên lịch xét xử hợp lý. - Về phía mình, một số HTND chưa chủ động trong việc cập nhật văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nên chưa nắm bắt được kịp thời những thay đổi, bổ sung của BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của bị cáo, trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị cáo nên đã vi phạm hoặc hạn chế việc thực hiện quyền của họ. 2.2. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm đảm bảo quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định về pháp luật Cơ quan nhà nước có thẩm cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định về quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cụ thể: - Khẩn trương rà soát các quy định pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền của bị cáo ở các văn bản pháp luật khác nhằm bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ và ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật cụ thể các quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm theo Điều 61 của Bộ luật TTHS năm 2015. - Cần phải cụ thể hóa những quy định về trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng như quy định rõ trách nhiệm của thẩm phán, HTND, Chủ tọa phiên tòa, các thành viên HĐXX, KSV thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên
- 20 tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật cụ thể hóa chế định về bào chữa và quyền của người bào chữa hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, cụ thể: - Sớm nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn và bảo đảm thực hiện quy định về quyền của người bào chữa trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Bổ sung quy định về quyền của Luật sư; bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý vào các văn bản pháp luật liên quan như Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý. - Ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định về việc chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. - Ban hành các văn bản hướng dẫn chế định về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo đảm quyền của bị cáo. Quán triệt tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Bộ Luật TTHS năm 2015 cần sớm ban hành quy định chi tiết quy định trình tự, thủ tục tố tụng liên quan đến hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm các 20 vụ án hình sự trong đó có nhiều quy định về quyền bị cáo và bảo đảm quyền của bị cáo được sửa đổi, bổ sung. Để bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện, cần phải quán triệt và nhận thức một số vấn đề như sau: Trước khi mở phiên tòa: - Chủ tọa phiên tòa được phân công giải quyết vụ án phải nghiên cứu nắm vững những quy định của BLTTHS về quyền của bị cáo, trách nhiệm của thẩm phán trong việc bảo đảm quyền của bị cáo trước khi mở phiên tòa. - Cần phải có những quy định cụ thể thời gian, hình thức, thủ tục để tòa án yêu cầu bổ sung chứng cứ, triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa; đồng thời, có quy định về trách nhiệm của những người, cơ quan mà Tòa án yêu cầu, đề nghị cung cấp chứng cứ, tài liệu, triệu tập đến tòa khi những chủ thể này không hợp tác, hoặc trì hoãn thực hiện yêu cầu của Tòa án dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án. - Sớm ban hành các quy chế bảo đảm sự phối hợp giữa Tòa án và VKS trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ vụ án hình sự để VKS khắc phục vi phạm. Về trình tự xét hỏi: - Cần tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 116 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 100 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn