intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của Luật sư tại phiên toà Dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

14
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Quyền của Luật sư tại phiên toà Dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu những quy định của pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân, qua đó nêu lên những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện thực hiện quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân, nhằm đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Quyền của Luật sư tại phiên toà Dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ *** *** HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHẠM TRUNG KIÊN BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2022 i
  2. Công trình được hành thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Văn Tính Phản biện 1:………………………………………………………………. ……………………………………………………………….. Phản biện 2:………………………………………………………………. ……………………………………………………………….. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP……………… Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201... Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
  3. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay ở Việt Nam, luật sư đang dần khẳng định vị trí quan trọng của mình trong việc góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và được xem là một đại lượng để đánh giá uy tín, chất lượng của hoạt động tư pháp. Đặc biệt, vai trò, hoạt động của luật sư càng được nâng cao sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nêu rõ việc phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Thể chế hóa các Nghị quyết của Bộ Chính trị, kế thừa những quy định của Pháp lệnh Luật sư năm 2001, đồng thời nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật Luật sư số 65/2006/QH11 ngày 29/6/2006 được sửa đổi bổ sung năm 2012 và Quốc hội khóa XIII đã ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 25/11/2015 thay thế Bộ luật dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/6/2004 với các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của luật sư tại tòa án nhân dân đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của luật sư ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Đắk Lắk nói riêng. Đồng thời, trong công cuộc đổi mới phát triển đất nước và xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, số lượng các doanh nghiệp thành lập ngày càng nhiều, các giao dịch giữa các doanh nghiệp, thương nhân, cá nhân ngày càng tăng nhằm đáp ứng việc phát triển kinh tế, xã hội, nhưng bên cạnh những thời cơ phát triển này, các doanh nghiệp, tổ chức, thương nhân, cá nhân phải đương đầu với những rủi ro pháp lý. Ngoài ra, nhu cầu về giao kết và thực hiện các giao dịch trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động cũng đang diễn ra rất mạnh mẽ và đương nhiên trong quá trình giao kết, thực hiện các quan hệ này cũng sẽ phát sinh các hạn chế và tiềm ẩn các rủi ro pháp lý. Khi các giao dịch phát sinh rủi ro pháp lý, để giải quyết tranh chấp, các bên có quyền chọn Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp để giải quyết các tranh chấp và điều này dẫn đến một nhu cầu thiết yếu của các doanh nghiệp, tổ chức, thương nhân, cá nhân về người luật sư có đủ điều kiện và trình độ chuyên môn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ tại phiên tòa dân sự. Vì vậy, sự cần thiết của việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định Pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân sẽ góp phần vào công cuộc xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, hiệu quả trong việc thực thi Pháp luật một cách thống nhất, làm cho vai trò và hiệu quả hoạt động của Luật sư ngày càng cao hơn. Chính vì các lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài " Đảm bảo quyền của Luật sư trong phiên tòa dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh 1
  4. Đắk Lắk" làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của mình tác giả nhận thấy quyền của Luật sư tại các phiên toà ở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk rất sâu rộng bao gồm phiên toà Hình sự, phiên toà Dân sự (trong đó gồm các vụ án Dân sự, Hôn nhân và gia đình, Kinh doanh thương mại), phiên toà Hành chính, phiên toà Lao động, các phiên toà Phúc thẩm của các vụ án nêu trên nên tác giả không có đủ điều kiện về thời gian, tài liệu để nghiên cứu mà tác giả lựa chọn, tập trung nghiên cứu chuyên sâu về “Quyền của Luật sư tại phiên toà Dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk” Lĩnh vực này tác giả nhận thấy chưa được nghiên cứu chuyên sâu, và mới dừng ở việc phân tích một số quy định nhất định. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình tìm kiếm tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu bao gồm luận văn thạc sỹ, bài viết trên tạp chí chuyên nghành luật liên quan đến đề tài đã được công bố hoặc cũng có các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về quyền của Luật sư tại các phiên toà Hình sự nói chung và tại phiên toà sơ thẩm nói riêng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, có những bài viết chuyên sâu trên các trang tạp chí chuyên ngành, tuy nhiên các nghiên cứu về hoạt động của Luật sư tại phiên tòa Dân sự và đặc biệt là quyền của Luật sư tại phiên toà Dân sự sơ thẩm chưa được nghiên cứu cụ thể, mới có một số bài viết đánh giá, phân tích một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền của Luật sư. Dưới hình thức luận văn thạc sỹ, bài viết khoa học có những công trình: - Đỗ Hoàng Yến, Nguyễn Văn Bốn (2010), “Luật sư và pháp luật về Luật sư Việt Nam”, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 04/2010. - Phạm Thị Hường (2013), Quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Hoàng Thị Anh Thư (2014), Pháp luật về hành nghề Luật sư ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Trần Thị Ngọc (2015), Văn hóa pháp luật của Luật sư ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Thị Thu Thảo (2019), Quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Có thể thấy những công trình nghiên cứu nói trên tuy có phạm vi nghiên cứu khác nhau, mức độ khác nhau, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về quyền của Luật sư tại tòa án nhân dân, có thể khẳng định công trình nghiên của tác giả về đề tài này là hoàn toàn mới, không có sự trùng lập. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên vẫn là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. 2
  5. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm: Xem xét, nghiên cứu những quy định của pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân dân, qua đó nêu lên những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện thực hiện quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân, nhằm đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Đề tài tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể sau: - Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về Luật sư và quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm. - Thứ hai, tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong việc thực hiện quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Toà án nhân dân cấp tỉnh nhằm phát hiện những bất cập, vướng mắc, khó khăn phát sinh. - Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật, cơ chế thi hành pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa Dân sự sơ thẩm; nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa Dân sự sơ thẩm để làm rõ các tồn tại, vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện quyền của Luật sư tại Tòa án nhân dân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2017 - 2021. - Phạm vi về không gian: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống bao gồm: phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn giải, quy nạp; tham khảo ý kiến của các chuyên gia và những người làm công tác thực tiễn v.v… để thực hiện những nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài đã đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo ngành luật học về quyền của Luật sư tại các phiên toà Dân sự sơ thẩm và cho các Luật sư trong quá trình tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự tại các phiên toà dân sự. Các kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn còn có thể được sử dụng để tham khảo đối với các cơ quan nhà nước và các tổ chức hữu quan khi nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền của Luật sư tại các phiên toà Dân sự sơ thẩm 3
  6. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài gồm 02 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận, pháp lý về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm. Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm - từ thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Chương 3: quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 4
  7. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái quát chung về quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 1.1.1. Khái niệm quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 1.1.1.1. Khái niệm phiên tòa dân sự sơ thẩm Trên cơ sở phân tích, đánh giá các khái niệm nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm “phiên tòa sơ thẩm dân sự” như sau: Phiên tòa sơ thẩm dân sự là phiên họp lần đầu của Tòa án với sự tham gia của những người tham gia tố tụng theo những nguyên tắc, thủ tục luật định để Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự. 1.1.1.2. Đặc điểm của phiên tòa dân sự sơ thẩm. Thứ nhất, Phiên tòa sơ thẩm dân sự là phiên họp của Tòa án để xét xử lần đầu một vụ án dân sự Sơ thẩm dân sự là việc giải quyết lần đầu một vụ án dân sự, bao gồm các hoạt động khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải và mở phiên tòa sơ thẩm dân sự. Thứ hai, phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành với sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng Phiên tòa sơ thẩm dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của tất cả những người tham gia tố tụng bao gồm đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, đại diện Viện tòa án. Thứ ba, phiên tòa sơ thẩm được tiến hành theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật Phiên tòa sơ thẩm được tiến hành theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định theo quy định của pháp luật. Thứ tư, phiên tòa sơ thẩm dân sự có những đặc điểm khác với phiên tòa sơ thẩm dân sự và phiên tòa sơ thẩm hành chính. Thứ năm, tại phiên toà sơ thẩm dân sự, các bên đương sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự, bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu và đưa ra các tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu. 1.1.1.3. Khái niệm quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong tại phiên tòa dân sự sơ thẩm là tổng thể các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa luật sư và các chủ thể pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự khi tiến hành bào chữa (cho người bị buộc tội) hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (cho bị hại, đương sự). 1.1.2. Vai trò quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng cộng sản Việt Nam, nhiều nghị quyết quan trọng về hoàn thiện bộ máy nhà nước đã được thực hiện không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà nước, đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. 5
  8. Đối với hoạt động tư pháp thì hoạt động giải quyết vụ án dân sự được coi là những khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là hoạt động trên cơ sở kết quả giải quyết vụ án dân sự. Để đáp ứng nhiệm vụ cải cách tư pháp nói chung và phát huy hiệu quả hoạt động tham gia giải quyết các vụ án dân sự thì vai trò của quyền của người bào chữa là có vị trí, vai trò rất quan trọng. Những quy định về quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm là một quyền và nghĩa vụ quan trọng của luật sư được pháp luật tố tụng dân sự quy định một cách chi tiết, cụ thể. Bị hại được quyền sử dụng tất cả những quy định của pháp luật quy định trong pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. * Xét về việc đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự trước Toà không phải ở mọi lúc, mọi nơi được tôn trọng. Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị ảnh hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển thậm chí không có nghề luật sư. Nghề luật sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ, phát triển. Để bảo đảm công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội. Vai trò của luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau. Ở Nhật Bản trước đây các quan hệ trong xã hội được điều chỉnh bằng tập quán, đề cao sự hoà thuận, tránh cưỡng ép. * Xét về thực tiễn thi hành BLTTDS Hiện nay, với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc nâng cao của quyền của con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới kể trên không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua. Vì vậy, trong pháp luật tố tụng dân sự cũng vậy, việc BLTTDS quy định rõ ràng về vai trò của luật sư cũng là thể hiện sự nhận thức trong việc coi trọng vị thế và vai trò của con người, vấn đề quyền con người cũng được coi trọng và đánh giá tương ứng. 1.1.3. Đặc điểm quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTDS là hành vi thực tế hợp pháp nhằm hiện thực hóa các quy tắc xử sự giữa luật sư và các chủ thể khi giải quyết vụ án dân sự Pháp luật về quyền, nghĩa vụ luật sư trong TTDS được đặt ra để điều chỉnh hành vi của luật sư và chủ thể liên quan nên việc thực hiện pháp luật phải thể hiện ở hành vi thực tế của luật sư và chủ thể liên quan. 6
  9. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTDS là đồng thời thực hiện quyền, nghĩa vụ của luật sư và thực hiện quyền, nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Luật sư khi tham gia HĐTTDS với tư cách là người bào chữa cho đương sự đặc biệt và ưu việt hơn so với người khác bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTDS phải theo trình tự, thủ tục TTDS. Thực hiện pháp luật về quyền, nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động TTDS thể hiện ý chí của nhà nước pháp quyền XHCN nhưng vẫn đề cao tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của luật sư Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam công nhận và bảo đảm quyền của luật sư trong phiên tòa dân sự sơ thẩm, nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của chính luật sư và các chủ thể liên quan “góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Thực hiện pháp luật về quyền của luật sư trong phiên tòa dân sự sơ thẩm phải theo đường lối, chủ trương nêu trên của Đảng và Nhà nước, là trách nhiệm của tất cả các chủ thể có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, đặt ra yêu cầu về sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với luật sư và các chủ thể khác trong việc thực hiện quyền của luật sư trong phiên tòa dân sự sơ thẩm. 1.2. Nội dung quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm Quá trình tham gia trong quá trình tố tụng dân sự đã có những chuyển biến thay đổi, đặc biệt là đối với các người tham gia tố tụng nói chung, luật sư nói riêng khi tham gia tố tụng. Điều này thể hiện trên một số phương diện sau đây: - Nhóm quyền về hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật và giám định, định giá tài sản (khoản 2 Điều 76, khoản 1 Điều 86 BLTTDS 2015). - Nhóm quyền về hoạt động tiếp cận tài liệu trong hồ sơ vụ án và xem biên bản hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng có liên quan Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiếp cận các tài liệu liên quan có vai trò quan trọng, giúp luật sư nắm được nội dung sự việc, tình tiết vụ án, để đưa ra căn cứ pháp lý, lập luận, tháo gỡ những điểm chưa rõ ràng, góc khất của vấn đề, tìm ra những điểm mấu chốt của vụ án đương sự, nhằm bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Luật sư được đọc, ghi chép, sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ (tại khoản 2 Điều 76) - Quyền Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét theo quy định của BLTTDS trong thực tế. Điều này đã được hiện thực hóa tại quy định của khoản 3 Điều 76. Trên thực tế đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các 7
  10. đương sự trong thực tế. Luật sư cũng thể hiện rõ vị trí, vai trò của mình nói chung trên thực tế. - Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa Hoạt động hỏi, tranh luận của luật sư tại phiên tòa thể hiện kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ chuyên môn của luật sư trong việc bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Quyền này dựa trên nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”(điều 24 BLTTDS) và được làm rõ hơn trong quy định về tham gia xét xử tại phiên tòa theo quy định của BLTTDS. Trong thực tế khi tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, luật sư đã dự liệu những câu hỏi trọng tâm, hỏi ai, như thế nào, tiến hành tranh luận ra sao, đồng thời phải “phản ứng nhanh” với những tình huống phát sinh tại phiên tòa, những tình tiết mới, kịp thời phân tích, đánh giá để đưa ra câu hỏi, tranh luận hợp lý, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Trường hợp tòa án viên, hội đồng xét xử, luật sư phía đối lập có những câu hỏi phiến diện, thiếu khách quan, mang tính áp đặt, tạo áp lực cho khách hàng thì luật sư cần phải có ý kiến để giúp cho khách hàng bình tĩnh, giữ ổn định tâm lý, đặc biệt với khách hàng là người chưa thành niên hoặc người có bệnh lý cần tránh sự xúc động quá mức. - Nhóm quyền về đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng; triệu tập, thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 76, Điều 86 BLTTDS 2015 - Quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng cho phép người tập sự hành nghề luật sư được đi cùng luật sư hướng dẫn trong vụ án dân sự (khoản 3 Điều 14 LLS). Đây là một quyền riêng có của luật sư và “luật sư tương lai”, với tư cách là người hướng dẫn của người tập sự hành nghề luật sư nếu được sự đồng ý của khách hàng, cơ quan tiến hành tố tụng thì người tập sự có quyền được đi cùng luật sư trong vụ viêc đó để học hỏi các kinh nghiệm thực tế trong hành nghề luật sư, hỗ trợ, thực hiện các công việc theo sự chỉ định của luật sư hướng dẫn Nội dung chủ yếu của pháp luật về nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động tố tụng dân sự: - Nhóm nghĩa vụ về sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định góp phần làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến khách hàng; sự thật khách quan của vụ án và giúp họ về mặt pháp lý. - Nghĩa vụ giúp người mà mình bảo vệ quyền lợi về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ Luật sư là người am hiểu pháp luật, có kỹ năng hành nghề, nên khi tham gia TTDS sẽ là chỗ dựa vững chắc cả về pháp lý và tinh thần cho khách hàng của mình, nhất là trong quá trình tranh tụng, đưa ra các luận cứ để đối đáp với ý kiến của bên kia qua đó bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Đối với luật sư, ngoài các nghĩa vụ trên, pháp luật TTDS còn quy định thêm một số 8
  11. nghĩa vụ sau: - Nghĩa vụ tôn trọng sự thật. - Nghĩa vụ của luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư Luật sư khi tham gia HĐTTDS sẽ thực hiện đồng thời hai tư cách vừa là luật sư, vừa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. 1.3. Các yếu tố bảo đảm cho việc thực hiện quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 1.3.1. Điều kiện về pháp lý Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác, thống nhất và có hiệu quả phù hợp với thực tiễn trước tiên cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ, đồng thời cũng cần có hệ thống các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đầy đủ để làm nền tảng cho việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án dân sự 1.3.2. Điều kiện về con người Để việc áp dụng pháp luật trong quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm nói riêng và các vụ án dân sự nói chung được chính xác và thống nhất đòi hỏi phải có đối ngủ cán bộ, thẩm phán có đủ năng lực trình độ và cả kinh nghiệm. Đồng thời, hệ thống luật sư cần thiết phải được đào tạo bài bàn cũng như thực hiện các quy định pháp luật nhằm đảm bảo cho quá trình áp dụng trong thực tế. 1.3.3. Điều kiện về cơ sở vật chất Việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án dân sự nhằm đảm bảo quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm phải chấp hành các quy định của pháp luật, bị đưa ra xét xử tại phiên tòa dân sự sơ thẩm. Do đó, để việc áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án tại Tòa án nhân dân được thực hiện đầy đủ và chính xác trong thực tiễn đảm bảo nguyên tắc hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh trước pháp luật, việc áp dụng đúng pháp luật nhằm thực hiện quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm cần đảm bảo có đầy đủ các trang thiệt bị, cơ sở vật chất thiết yếu cho hoạt động áp dụng pháp luật và xét xử vụ án, các cơ sở vật chất cần thiết như máy tính, các Bộ luật, văn bản hướng dẫn pháp luật, phòng xử án, thiết bị ghi âm, ghi hình, ...vv để đáp ứng với điều kiện và công tác xét xử trực tuyến, số hóa hồ sơ, xét xử kín. 1.3.4. Các điều kiện khác Ngoài các điều kiện về pháp lý về con người và cơ sở vật chất để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác và hiệu quả thì các điều kiện khác như sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong hoạt động giải quyết vụ án dân sự, ...vv cũng là những điều kiện quan trọng giúp cho việc áp dụng pháp luật được kịp thời và chính xác nhằm phát huy vai trò của áp dụng pháp luật. Tiểu kết chương 1 Có thể nói, quy định của pháp luật quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc hình thành nền tảng pháp lý của pháp luật dân sự nói 9
  12. chung. Việc xác định đặc điểm có liên quan đển quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm sẽ hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về tố tụng dân sự tại Việt Nam. Đây việc làm cần thiết cho nước ta khi hội nhập kinh tế xã hội trong khu vực và trên thế giới. 10
  13. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM - TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Khái quát về Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và hệ thống Tòa án nhân dân cấp huyện được thành lập vào năm 1976. Khi mới thành lập, Tòa án hai cấp gồm có Tòa án nhân dân tỉnh và 05 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện. Trải qua các đợt chia tách địa giới hành chính, số đơn vị Tòa án cấp huyện tăng lên 18 đơn vị. Ngày 01/01/2004, tỉnh Đắk Lắk được chia tách thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông theo Nghị Quyết số 22/2003/QH11 ngày 26/11/2003 của Quốc hội khóa XI. Theo đó, Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk gồm có Tòa án nhân dân tỉnh và 15 đơn vị Tòa án nhân dân cấp huyện. Là một trong những địa phương có số lượng các vụ việc phải giải quyết hàng năm nhiều nhất các tỉnh khu vực duyên hải miền Trung – Tây Nguyên (bình quân giai đoạn năm 2015-2019 là 11.000 vụ việc/năm; riêng năm 2019, thụ lý 12.256 vụ việc; giải quyết 11.360 vụ việc, đạt tỷ lệ 92,7%). Số lượng các loại vụ việc phải giải quyết ngày càng tăng (bình quân giai đoạn 2010-2015 là 8.500 vụ việc/năm); tính chất các loại vụ án ngày càng phức tạp. Cùng với việc thực hiện tốt các các mặt công tác theo yêu cầu, các chỉ tiêu ngày càng cao tại các Nghị quyết của Quốc hội, thực hiện tốt quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; đồng thời triển khai thi hành nhiều nội dung quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân theo tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo phù hợp quy định của Hiến pháp nên nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Phát huy truyền thống yêu nước, thành tích đã đạt được, trong những năm qua, công chức, người lao động Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, đoàn kết và phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao. 2.2. Thẩm quyền giải quyết các vụ án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Trên cơ sở xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước ta luôn quan tâm tới việc xây dựng hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai để thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước. Việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo cấp chính là việc xác định xem đối với một vụ án dân sự cụ thể Tòa án nhân dân cấp huyện hay Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp được quy định tại Điều 35, 37 Bộ luật Tố tụng dân sự 11
  14. năm 2015 dựa trên tính chất phức tạp của từng loại vụ việc, dựa vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa án. Theo thứ tự cơ cấu tổ chức các cơ quan xét xử, sau Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp cao là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Cũng như các cơ quan nhà nước khác, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có cơ cấu tổ chức riêng gồm có: – Uỷ ban thẩm phán. – Các Tòa chuyên trách. – Bộ máy giúp việc. 2.3. Thực trạng thực hiện quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại TAND tỉnh Đắk Lắk 2.3.1. Việc thực hiện nội dung các quyền của luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm tại TAND tỉnh Đắk Lắk Theo số liệu thống kê của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, trong thời gian Tòa án hai cấp đã thụ lý, giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự và đạt tỷ lệ giải quyết có giá trị thi hành án cao, cụ thể như sau: Trong năm 2021, Tòa án hai cấp đã giải quyết 12.230 vụ việc trong tổng số 13.813 vụ, việc đã thụ lý các loại (đạt 88,5%) (bao gồm: các vụ án dân sự; vụ, việc dân sự; vụ án hành chính; yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án); 11.583 vụ việc còn lại đang được tiếp tục giải quyết. Trong đó, giải quyết theo trình tự sơ thẩm 11.469 vụ việc trên tổng số 13.048 vụ việc; giải quyết theo trình tự phúc thẩm 761 vụ trên tổng số 783 vụ. Bên cạnh công tác xét xử, giải quyết các vụ, việc, Tòa án nhân dân hai cấp đã thực hiện tốt các nhiệm vụ khác như: Thi hành án dân sự; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tư pháp; Tổ chức - cán bộ; cải cách thủ tục hành chính tư pháp và ứng dụng công nghệ thông tin. Theo thống kê, trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2016, số vụ án có sự tham gia của người bào chữa trong tổng số các vụ án dân sự mà Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là rất ít, chỉ chiếm tỷ lệ 9,35% (1.112/11.893) và các vụ án có người bào chữa chủ yếu là các trường hợp bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (bào chữa chỉ định), số vụ án có luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng chiếm tỷ lệ rất thấp. Giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013, các luật sư của Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk đã tham gia bào chữa trong 2.888 vụ án dân sự ở các giai đoạn tố tụng; trong đó, số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của khách hàng là 501 vụ, chiếm tỷ lệ 17,35%; số vụ án tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (bào chữa chỉ định) là 2.387 vụ, chiếm tỷ lệ 82,65%. Với đặc thù của tỉnh nằm ở khu vực Tây Nguyên, tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn; tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao (30%), thành phần dân tộc đa dạng (49 dân tộc) với nhiều tập tục khác nhau, tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn lớn và tập trung nhiều ở vùng sâu, 12
  15. vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; trình độ dân trí thấp, nhận thức pháp luật nói chung và nhận thức về quyền bào chữa nói riêng của người dân còn nhiều hạn chế. Thực hiện chức năng tòa án xét xử và tòa án việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án của Tòa án. 2.3.2. Kết quả đạt được Thực tiễn thực hiện quy định về đảm bảo trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền Trong tố tụng dân sự, mặc dù người khởi kiện là chủ thể “châm ngòi” cho việc giải quyết vụ án của Tòa án hay nói cách khác quá trình tố tụng chỉ được vận hành khi và chỉ khi có yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên trên thực tế, không phải thông tin, tài liệu, chứng cứ nào họ cũng có điều kiện để biết. Chẳng hạn như tài liệu chứng minh địa chỉ của bị đơn; tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm đối với các giao dịch dân sự diễn ra không bằng văn bản mà thông qua trao đổi, giao kết bằng hành vi, lời nói…Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên khả năng tự bảo vệ, tự thu thập chứng cứ, tự chứng minh còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, mặc dù cho rằng quyền lợi của mình bị xâm phạm và thực tế quyền lợi của họ đang bị xâm phạm nhưng lại không thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác cung cấp chứng cứ để làm cơ sở cho họ đòi lại quyền lợi hợp pháp của mình. Điển hình là trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã mất rất nhiều công sức, thời gian để yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu chứng cứ cung cấp, nhưng kết quả thường là: (i) Không nhận được bất cứ phản hồi nào về việc cung cấp hay không cung cấp tài liệu, chứng cứ; (ii) Bị từ chối với nhiều lý do hay thoái thác trách nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà không có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng; (iii) Cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không đúng thời hạn luật định. Những điều này gây bất lợi và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Một là, Về việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ Khoản 3, khoản 4 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định: "Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Quyền và nghĩa vụ của luật sư trong việc đưa ra câu hỏi với người khác hoặc đề xuất Tòa án hỏi người khác tại phiên tòa dân sự sơ thẩm. 13
  16. Quyền và nghĩa vụ của luật sư khi tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm. 2.3.3. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân * Khó khăn, vướng mắc Khoản 2 Điều 106 BLTTDS năm 2015 quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp cho đương sự khi nhận được yêu cầu, trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do nhưng lại không quy định chế tài pháp lý nếu các chủ thể này không cung cấp, cung cấp không đầy đủ hay cung cấp quá thời hạn luật định mà không có lý do chính đáng. Như vậy, khi không có biện pháp, chế tài xử lý thì dù được đánh giá là mới, là tiến bộ so với các quy định cũ, quy định này vẫn không có giá trị thực thi trên thực tế. Thực tế cho rằng: Một số Tòa án chưa tạo điều kiện cho Luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, một hiện tượng nữa vẫn còn tồn tại trong thực tiễn hiện nay là đương sự từ chối Luật sư trong quá trình giải quyết vụ việc tại Tòa án. Tuy nhiên, Thái độ của một số Luật sư tại phiên tòa xét xử vụ kiện dân sự cũng là một thực tiễn cần bàn đến. Mặc dù có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình nhưng họ chỉ có thể cố gắng bảo vệ khi quyền và lợi ích đó là hợp pháp. Theo quy định của pháp luật, Luật sư cũng chỉ có quyền nêu ý kiến của mình về đánh giá chứng cứ, đề xuất hướng áp dụng pháp luật nhưng nhiều Luật sư lại không xác định được rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình để có thái độ đúng mực. Việc áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về cơ sở để bảo vệ quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế như sau. Trong thực tế, việc Tòa án xác định xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự vẫn còn khá phổ biến. Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng thường không được bảo vệ do tư cách tham gia tố tụng được xác định không chính xác. Quyền và nghĩa vụ của họ có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng như quá trình xét xử, có thể dẫn đến việc hủy bản án và phải xét xử lại từ đầu. * Nguyên nhân Về nhận thức: Trên thực tế, quyền của người bào chữa về cơ bản chưa được nhận thức đầy đủ. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn, về thời điểm tham gia của người bào chữa bắt buộc. Ngoài ra, xét về mức độ tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bắt buộc trong các hoạt động giải quyết vụ án dân sự. Chưa có cơ chế thật hữu hiệu bảo đảm quyền người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho người thuộc diện được cử trợ giúp pháp lý. Ngoài ra, về nhận thức của các cơ quan, ban ngành trong đó có cả một số cơ quan tiến hành tố tụng về hoạt động người của bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự nói chung và về vị trí, 14
  17. vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong quá trình tố tụng chưa đầy đủ, do đó chưa có sự quan tâm, phối hợp đúng mức và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của quy định pháp luật. Đồng thời, chế độ chính sách đối với người thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng trong các vụ việc Dân sự còn hạn chế, việc chi trả thù lao theo vụ việc còn thấp. Tiểu kết chương 2 Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm. Tác giả đã tập trung phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về vấn đề này. Theo đó, chỉ ra một số quy định của pháp luật không phù hợp với thực tiễn, làm rõ những quy định mới tiến bộ của Bộ luật TTDS 2015, Luật luật sư đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh trong giai đoạn hiện nay. Qua công tác thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, tác giả cũng chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, tồn tại từ nhận thức pháp luật của người dân, năng lực và kinh nghiệm của cán bộ giải quyết tranh chấp cũng như các quy định của pháp luật còn nhiều hạn chế do quy định chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, các văn bản pháp luật có liên quan quy định không thống nhất dẫn đến việc giải quyết còn gặp khó khăn. 15
  18. CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA LUẬT SƯ TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM 3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền của Luật sư tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 3.1.1. Tăng cường công tác bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm phải trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương của Tỉnh ủy về nâng cao chất lượng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành tòa án trong tình hình mới Nhằm thực hiện tốt công tác XXST án dân sự tại TAND tỉnh trong giai đoạn hiện nay thì việc đầu tiên đó là Lãnh đạo TAND tỉnh cần triển khai kết hợp với giải pháp với các chủ trương, đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước nói chung. 3.1.2. Lãnh đạo, thẩm phán, cán bộ giúp việc đều là chủ thể tích cực của quá trình tăng cường sự phối hợp nhằm nâng cao chất lượng bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm Trong công cuộc đổi mới đất nước của Đảng ta thì công tác của ngành Tòa án giữ vai trò quan trọng đối với quá trình quản lý nhà nước nói chung. Trong quá trình phát triển cho đến nay thì việc xây dựng và phát triển ngành Tòa án đối với nước ta là điều kiện tiên quyết trong việc bảo đảm tính có hiệu lực của pháp luật, nâng cao vai trò quan trọng của pháp luật đáp ứng với yêu cầu hội nhập và phát triển. 3.1.3. Kết hợp việc nâng cao chất lượng Tòa án xét xử bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm gắn liền với quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng các mặt hoạt động của ngành Tòa án nhân dân trong tình hình mới Đổi mới và nâng cao chất lượng XXST Bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm phải gắn liền với quá trình đổi mới, nâng cao chất lượng các mặt hoạt động của ngành Tòa án nhân dân trong tình hình mới. Thực hiện các chỉ tiêu công tác mà Quốc hội giao1, chú trọng công tác tổ chức cán bộ; tăng cường quản lý, giáo dục cán bộ, nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp, xây dựng đội ngũ Thẩm phán, thư ký vừa hồng vừa chuyên. Đồng thời, có các biện pháp tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm tạo động lực thúc đẩy các đơn vị hăng hái phấn đấu thi đua thực hiện. Tiếp tục tăng cường công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dâTiếp, nâng cao chất lượng tranh tụng của các bên đương sự nhất là của các luật sư tại phiên toà; phối hợp với Toà án xét xử nhiều phiên toà lưu động, phiên toà rút kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp; kịp thời phát hiện các bản án có vi phạm để ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục theo luật định. 3.1.4. Tăng cường phối hợp phải trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức và nhằm góp phần tạo sự chuyển biến trong bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm. 16
  19. Ngoài ra, các Thẩm phán cần tăng cường phối hợp với các cán bộ có kinh nghiệm trong hoạt động bảo đảm quyền của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm nói chung để tự tích lũy kiến thức, kinh nghiệm nhằm góp phần quan trọng của quá trình làm việc. Tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng học tập pháp luật. 3.2. Giải pháp hoàn thiện bảo đảm quyền luật sư tại phiên tòa sơ thẩm - Giải pháp chung: Thứ nhất, cần bổ sung quy định về xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự. Thứ hai, hoàn thiện, sửa đổi quy định về thủ tục đăng ký tham gia tố tụng đối với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thứ ba, bổ sung quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. * Kiến nghị đối với quyền và nghĩa vụ của luật sư nói chung Thứ nhất, quy định chế tài đối với trường hợp chủ thể có thẩm quyền đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ nhưng không cung cấp, cung cấp không đầy đủ hoặc cung cấp không đúng hạn theo yêu cầu của đương sự mà không có lý do chính đáng. Thứ hai, kiến nghị tăng mức xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp chủ thể có thẩm quyền đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ nhưng không cung cấp, cung cấp không đầy đủ hoặc cung cấp không đúng thời hạn theo yêu cầu của Tòa án, Viện tòa án, đương sự mà không có lý do chính đáng. * Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về quyền của luật sư trong luật tố tụng dân sự Để góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả của chế định quyền của luật sư, BLTTDS cần được hoàn chỉnh thêm về những vấn đề cơ bản có tính khả thi sau đây: Một là, các văn bản cần có quy định về thực hiện việc giám sát đối với việc thực hiện quyền của luật sư trên thực tế. Hai là, đối với một số quy định khác thì cụ thể như sau: Đối với hoạt hoạt động tranh tụng thì cần mở rộng và ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tố tụng dân sự * Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc thực hiện quyền của luật sư Cơ quan THTT, người THTT là những chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền của luật sư góp phần quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước đã giao cho họ thực hiện. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho người tham gia tố tụng hiểu rõ quyền yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được thực 17
  20. hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này. * Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân Tuyên truyền pháp luật là một phương pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về kiến thức pháp luật. Điều này một mặt giúp người dân tự ý thức và tuân thủ pháp luật, tự mình bảo vệ những lợi ích chính đáng của bản thân và lợi ích chung của xã hội, mặt khác giúp cơ quan THTT nhanh chóng phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những hành vi phạm tội. Do đó, cần thiết phải thay đổi nhận thức của người dân nói chung và các đương sự nói riêng khi cho rằng, sự tham gia tố tụng của luật sư là không cần thiết và tốn kém. Nhận thức không đúng về vai trò và vị trí của luật sư chính là rào cản lớn làm cho sự tham gia và thực hiện quyền của luật sư trở nên khó khăn. Việc luật sư tham gia tố tụng để bảo vệ cho các đương sự phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của chính họ, người đại diện hợp pháp cũng như gia đình của họ. Do vậy, việc thay đổi nhận thức về vai trò của luật sư là cách tốt nhất để trang bị cho đương sự những phương tiện, biện pháp giúp họ bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm phạm hoặc đe dọa bị xâm phạm các quyền tố tụng từ phía những người THTT, cơ quan THTT nhằm thực hiện quyền của mình một cách tốt nhất. Đối với luật sư, việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề là một việc làm cần thiết. Luật sư phải nhận thức và nêu cao hơn nữa trách nhiệm của mình khi tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho các đương sự. Luật sư phải thường xuyên được cập nhật kiến thức pháp luật và bồi dưỡng nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu thực tiễn thực hiện quyền của các đương sự trong vụ án dân sự có hiệu quả. Quốc Hội cần chỉ đạo Chính phủ thống nhất và định hướng cho các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện các quy định về thực hiện quyền của luật sư đáp ứng với yêu cầu của tình hình hiện nay. Thông qua các cơ quan có thẩm quyền, Chính phủ yêu cầu các Cơ quan chức năng yêu cầu hướng dẫn thực hiện quyền của luật sư trong luật TTDS. Nhằm bảo vệ quyền của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án dân sự trong thời gian trở lại đây. Có chiến lược phát triển đội ngũ luật sư nhằm đáp ứng tốt nhu cầu được trợ giúp pháp lý. Đào tạo đội ngũ luật sư: Luật sư là lực lượng nòng cốt thực hiện các dịch vụ pháp lý nói chung và tham gia bào chữa trong vụ án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, số luật sư hiện nay trên cả nước quá ít và vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu được tư vấn pháp lý và bào chữa. Qua những kết quả vừa phân tích trên, có thể khẳng định quyền của luật sư là một chế định quan trọng của trong hệ thống pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Với mục tiêu là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, tránh ngăn chặn những hành vi xâm phạm quyền của các đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự khác, quyền của 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2