intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:26

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích khung lý thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính: Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ --------/-------- -----/----- HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VŨ DUY THÁI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG – TỪ THỰC TIỄN CÁC VĂN PHÕNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI – 2018 1
  2. Luận văn được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ THANH THÖY Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp ….. Nhà …. Khoa Nhà nước và Pháp luật Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77, Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội Thời gian: vào hồi …h… ngày … tháng … năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia 2
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân do dân và vì dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Một trong những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là nhà nước mà trong đó các quyền tự do dân chủ và lợi ích chính đáng của con người được pháp luật bảo đảm, và mọi hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do, lợi ích chính đáng của người dân đều bị nghiêm trị. Để xây dựng một nhà nước pháp quyền ngoài việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ thì một số vấn đề đặt ra là phải xây dựng cho được những cơ chế an toàn và hiệu quả, ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân. Chính vì thế, từ lâu Nhà nước ta đã tồn tại một chế định pháp luật, cho phép ngăn ngừa những vi phạm pháp luật, phòng ngừa tranh chấp, khiếu kiện trong giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại đó là chế định công chứng thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Với chức năng mang lại tính xác thực, tính hợp pháp cho các giao dịch, hợp đồng, pháp luật công chứng được coi là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên tham gia giao dịch, mặt khác thông qua hoạt động công chứng, nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát của mình đối với các giao dịch dân sự, nhằm bảo đảm sự ổn định trong xã hội, đồng thời tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu tự do giao kết hợp đồng, giao dịch của các cá nhân, tổ chức và chức năng quản lý của Nhà nước. Bên cạnh đó, trong quá trình tố tụng (khi có tranh chấp xảy ra), hoạt động công chứng còn đóng góp vai trò hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xét xử của Tòa án, thông qua việc cung cấp chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm cho hoạt động này được khách quan, nhanh chóng, chính xác, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 3
  4. Xuất phát từ việc nhận thức rõ được vai trò quan trọng của pháp luật công chứng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc phát triển hoạt động công chứng và xây dựng pháp luật về công chứng ngày một hoàn thiện hơn. Cụ thể, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực công chứng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động công chứng, trong đó có luật công chứng số 53/2014/QH13 được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20 tháng 06 năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Xuất phát từ những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về công chứng - từ thực tiễn các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Hoạt động công chứng với tư cách là một chế định bổ trợ Tư pháp trong hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng thời hoạt động công chứng cũng có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy, trong thời gian qua đã có nhiều đề tài tập trung nghiên cứu và tìm hiểu về lĩnh vực này với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cụ thể là một số công trình sau: “Những điều cần thiết về công chứng nhà nước”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1992 của tác giả Nguyễn Văn Yểu và Dương Đình Thành; 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích khung lý thuyết và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 4
  5. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của pháp luật về công chứng và thực hiện pháp luật về công chứng trong đó nêu lên khái niệm, phân tích đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật công chứng; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1.Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện pháp luật công chứng – từ thực tiễn của Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi vấn đề nghiên cứu - Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ ngày năm 2012 đến năm 2016, - Phạm vi không gian: thành phố Hà Nội. - Phạm vi nội dung: luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật công chứng ở ba góc độ về tổ chức hành nghề công chức, công chứng viên và thủ tục, hoạt động công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp luật nói chung và về thực hiện pháp luật công chứng nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin theo quan điểm phát triển toàn diện, lịch sử cụ thể. Ngoài ra, luận văn cũng kết hợp các phương pháp như phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh…nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 5
  6. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về công chứng; Nâng cao nhận thức của công dân đối với hoạt động công chứng; Đề cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện pháp luật về công chứng của các cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt động công chứng hợp đồng giao dịch. Luận văn chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật về công chứng Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: Quan điểm và các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về công chứng- từ thực tiễn Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội 6
  7. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÕNG CÔNG CHỨNG 1.1. Công chứng và pháp luật về công chứng 1.1.1. Khái niệm công chứng Công chứng do người Pháp đưa vào Việt Nam trong những năm 30 của thế kỉ XX. Nhưng mãi đến năm 1987, công chứng mới được đề cập đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là Nhà nước trao thẩm quyền cho một tổ chức hành nghề công chứng của Nhà nước được phép nhân danh Nhà nước để xác định các quan hệ giao dịch dân sự và thương mại. Trước Luật Công chứng 2014, công chứng có nhiều định nghĩa được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: Thông tư 574/QLTPK ngày 10 tháng 10 năm 1987 của Bộ Tư pháp là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nhà nước ta quy định về lĩnh vực công như sau: “Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà nước với mục đích giúp công dân, cơ quan tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó, làm cho văn bản sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản sự kiện đó làm cho các văn bản sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Khái niệm này cũng có những hạn chế như: Ngày 27 tháng 02 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ) đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT đã đưa ra khái niệm Công chứng là: “Công chứng nhà nước là việc xác nhận tính xác thực của các Hợp đồng, giấy tờ theo quy định của Pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ được công chứng có giá trị chứng cứ”. Ngày 18 tháng 05 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công chứng theo đó, khái niệm công chứng đã được những sửa đổi và được hiểu như sau: “Công chứng là việc xác nhận tính xác thực 7
  8. về các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa học hơn. Theo Nghị định này, “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của Hợp đồng được giao kết hoặc của giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và các quan hệ giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này” (Khoản 1 Điều 2). Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định được khái niệm chứng thực “là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y các giấy tờ hợp đông giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (Khoản 2 Điều 2). Điều 2 Luật công chứng 2006 quy định: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng” . Ngày 20/06/2014, Quốc hội đã ban hành Luật Công chứng số 53/2014/QH13 (Luật công chứng 2014) với 10 chương, 81 điều, quy định về công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, việc hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà nước về công chứng. Luật công chứng 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Trong đó tại Khoản 1, Điều 2 quy định “Công chứng là việc Công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực hợp pháp của hợp đồng giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng giao dịch), tính xác thực hợp pháp không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ Văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc ngược lại từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo 8
  9. quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. 1.1.2. Pháp luật về công chứng Từ khái niệm công chứng, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm pháp luật về công chứng như sau: Pháp luật về công chứng là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Nhà nước với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên khi quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện hành nghề; giữa tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên với các cá nhân, tổ chức trong xã hội khi tiến hành hoạt động công chứng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, pháp luật về công chứng được tiếp cận ở một số nội dung cơ bản như sau: Thứ nhất, về tổ chức hành nghề công chứng Tổ chức hành nghề công chứng theo quy định tại Khoản 5, Điều 2 Luật Công chứng 2014 quy định “Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”. Thứ hai, về công chứng viên. Luật Công chứng 2014 quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn công chứng viên, quy định thời gian đào tạo nghề công chứng là mười hai tháng; quy định người được miễn đào tạo nghề công chứng phải tham gia khóa bồi dưỡng trước khi đề nghị bổ nhiệm, được giảm một nửa thời gian tập sự và cũng phải tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; bổ sung quy định về bổ nhiệm lại; bổ sung một số quyền và nghĩa vụ đối với công chứng viên. Nội dung pháp luật quy định về công chứng viên bao gồm: Về tiêu chuẩn công chứng viên: Theo Điều 8 Luật Công chứng 2014: “Tiêu chuẩn công chứng viên. Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên: 1. Có bằng cử nhân luật; 9
  10. 2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; 3. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại khoản 2 Điều 10 của Luật này; 4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; 5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng” Về thời gian đào tạo công chứng: Luật Công chứng năm 2014 tăng thời gian đào tạo công chứng từ 06 tháng lên 12 tháng. Thứ ba, về thủ tục và hoạt động công chứng Thủ tục công chứng là trình tự, thủ tục thực hiện các quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch đã được soạn thảo sẵn, công chứng hợp đồng, giao dịch do công chứng viên soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, thẩm quyền công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản, thời hạn công chứng, địa điểm công chứng, chữ viết trong văn bản công chứng, ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng. 1.2. Thực hiện pháp luật về công chứng 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về công chứng Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích nhằm làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật [ Error! Reference source not found. ;tr.349]. Thực hiện pháp luật về công chứng là thực hiện pháp luật về một lĩnh vực có phạm vi khá rộng, nên thực hiện pháp luật về công chứng không chỉ bó hẹp trong phạm vi pháp luật về hình thức (pháp luật công chứng), mà còn trải rộng trong đó có nhiều mảng pháp luật về nội dung khá đồ sộ (như pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, pháp luật về giao dịch bảo đảm, về hôn nhân gia đình, doanh nghiệp…) 10
  11. 1.2.2 Đặc điểm thực hiện pháp luật về công chứng Thứ nhất, thực hiện pháp luật về công chứng mang tính chất là hoạt động bổ trợ tư pháp. Cùng với các hoạt động như: Luật sư, Giám định tư pháp…Công chứng cũng là một trong những hoạt động được sắp xếp vào nhóm công tác bổ trợ tư pháp. Đây là những hoạt động không chỉ liên quan đến lợi ích của khách hàng mà còn có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, Công chứng viên (cũng như luật sư, giám định viên…) có thể gây ảnh hưởng đến công lý, tác động đến cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng đề cao tính độc lập, chủ động, sáng tạo của công chứng viên và tính tự chịu trách nhiệm của người yêu cầu công chứng. Tính độc lập của người công chứng viên thể hiện rõ nét trong nguyên tắc hành nghề công chứng, công chứng viên phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng do mình chứng nhận. Trong quá trình tác nghiệp, công chứng viên có quyền lựa chọn phương án giải quyết nếu cho rằng cách giải quyết đó là phù hợp với quy định của pháp luật. Thứ ba, thực hiện pháp luật về công chứng phải tuân theo các trình tự thủ tục được pháp luật quy định. Công chứng viên là người hoạt động trong lĩnh vực vừa mang tính chất công quyền, lại vừa mang tính chất dịch vụ công. Tính chất công quyền thể hiện ở chỗ Công chứng viên là chức danh tư pháp và do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch theo quy định của pháp luật khi đã hội tủ đầy đủ các điều kiện được quy định tại Khoản 2, Điều 2 và Điều 8 Luật công chứng 2014 như là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật… Thứ tư, thực hiện pháp luật về công chứng được triển khai trên phạm vi rộng lớn. 11
  12. Thực hiện pháp luật về công chứng có phạm vi rất rộng lớn, như về không gian các yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch khác được cá nhân, tổ chức yêu cầu công chứng không chỉ diễn ra trên phạm vi một địa phương mà diễn ra trên mọi miền đất nước. Thứ năm, thực hiện pháp luật về công chứng được thể hiện thông qua các hình thức khác nhau, do các chủ thể khác nhau (Nhà nước, tổ chức hành hành nghề công chứng, công chứng viên, cá nhân, tổ chức xã hội) tiến hành. Thi hành pháp luật về công chứng: là một hình thức thực hiện pháp luật về công chứng, trong đó các chủ thể pháp luật tự thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực. Theo đó, trên cơ sở các quy định của pháp luật đã quy định rõ, nếu chủ thể nao tham gia quan hệ pháp luật thì phải có nghĩa vụ thực hiện một số yêu cầu mà pháp luật đã đặt ra. Nghĩa vụ đó không chỉ là nghĩa vụ lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia quan hệ, mà còn là nghĩa vụ giữa các chủ thể đó trước Nhà nước. Sử dụng pháp luật về công chứng: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể thực hiện các quyền trong hoạt động công chứng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hình thức này khác với hình thức tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật ở chỗ, chủ thể có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải thực hiện. Áp dụng pháp luật về công chứng Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống và đạt hiệu quả cao thì tất cả những quy định của pháp luật hiện hành đều được thực hiện chính xác, triệt để. Nhưng nếu chỉ thông qua các hình thức tuân theo, thi hành và sử dụng pháp luật thì sẽ có nhiều các quy phạm pháp luật không được thực hiện, bởi nó còn tùy thuộc vào sự nhận thức, ý thức chấp hành của các chủ thể thực hiện pháp luật hoặc họ không đủ khả năng thực hiện nếu thiếu sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đó cần phải có hoạt động áp dụng pháp luật. 12
  13. 2.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về công chứng Tính chất quan trọng của việc thực hiện pháp luật công chứng không chỉ thể hiện quan điểm và chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự an toàn cho các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại của công dân và các tổ chức, mà còn hướng đến việc tạo lập hành lang pháp lý cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam, các quy phạm pháp luật công chứng không tồn tại một cách riêng biệt, đơn lẻ, mà gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất với các quy phạm pháp luật dân sự, kinh tế, đất đai, hôn nhân gia đình… Thứ nhất, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò hỗ trợ cho công dân, tổ chức và bảo đảm an toàn cho các bên trong quan hệ dân sự, kinh tế bằng cách tạo lập văn bản công chứng (có giá trị chứng cứ không phải chứng minh theo quy định của pháp luật công chứng) bằng việc quy định trình tự thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt trong quá trình tạo lập văn bản công chứng, kết hợp với sự tinh thông nghề nghiệp của công chứng viên, thực hiện pháp luật về công chứng bảo đảm sự bình đẳng, tự nguyện, tự do ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng, giao dịch tránh bị lừa dối, đe dọa, tránh sự nhầm lẫn về chủ thể, đối tượng nội dung của các hợp đồng giao dịch. Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng góp phần hỗ trợ tích cực cho Nhà nước trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng pháp luật. Thực hiện pháp luật về công chứng là phương tiện hữu hiệu để Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên, đồng thời nêu cao vai trò tự quản của tổ chức hành nghề công chứng. Nhà nước thực hiện việc quản lý hoạt động thông qua việc ban hành pháp luật và chính sách, nhằm tạo ra khuôn mẫu xử sự chung, quy định các biện pháp, các chế tài xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Thứ ba, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò đưa chủ trương quan điểm của Đảng đi vào cuộc sống nhằm thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm công bằng xã hội gắn với tăng trưởng kinh tế. Thực hiện pháp luật về công chứng chính là một trong những phương tiện công cụ tạo ra khả năng để công 13
  14. dân và các tổ chức tự bảo vệ các quyền tự do và lợi ích chính đáng của mình khi thực hiện các giao dịch dân sự, đồng thời có điều kiện tham gia giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước và công chức, viên chức nhà nước được trao quyền. Thứ tư, thực hiện pháp luật về công chứng có vai trò quan trọng trong việc phục vụ nhân dân và xã hội. Thực hiện pháp luật về công chứng một mặt để công chứng viên cung cấp các dịch vụ pháp lý chất lượng cho người dân, mặt khác công chứng viên có thể tham gia vào các nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế xã hội. Thực hiện pháp luật về công chứng góp phần bảo vệ và phát triển các giá trị đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, bảo vệ sự công bằng xã hội, lòng tin vào công lý của con người. 2.1.4. Nội dung thực hiện pháp luật về công chứng Các quy phạm pháp luật về công chứng của nước ta hiện nay được ghi nhận trong rất nhiều văn bản (Luật, Nghị quyết, Nghị định, Chỉ thị, Thông tư, Quyết định...) của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, liên quan đến tất cả các mặt về công chứng. Trên cơ sở phân tích các nội dung của pháp luật công chứng ở trên thì nội dung thực hiện pháp luật về công chứng bao gồm: Thứ nhất, thực hiện pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng Thứ hai, thực hiện pháp luật về công chứng viên Thứ ba, thực hiện pháp luật về thủ tục và hoạt động công chứng Thực hiện pháp luật về thủ tục và hoạt động công chứng bao gồm; - Thực hiện pháp luật đối với hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất; Như vậy, thực hiện pháp luật về công chứng là những hoạt động của các chủ thể tham gia công chứng làm cơ sở lý luận đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng. 2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về công chứng Thứ nhất, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng là yếu tố đầu tiên, quyết định đến việc thực hiện pháp luật về công chứng. Một hệ thống văn 14
  15. bản quy phạm pháp luật về công chứng đồng bộ, chính xác, chất lượng cao sẽ giúp việc thực hiện pháp luật về công chứng được kịp thời nhanh chóng đúng pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như công việc quản lý nhà nước. Thứ hai, cơ sở vật chất trang thiết bị và nguồn lực tài chính Ở mỗi vùng, miền với điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau thì việc thực hiện pháp luật về công chứng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trình độ phát triển kinh tế, xã hội tạo ra tác phong, lối sống tuân thủ pháp luật, tạo ra cơ sở vật chất cần thiết và điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về công chứng nói riêng. Thứ ba, Yếu tố văn hóa Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả những sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống. Thứ tư, trình độ, năng lực, phẩm chất của công chứng viên Trình độ, năng lực quản lý và phẩm chất chính trị đạo đức của viên chức là những yếu tố quyết định bảo đảm thực hiện pháp luật đúng đắn, có hiệu quả.Trình độ, năng lực yếu kém, lại thiếu trách nhiệm, thiếu tính chủ động trong việc triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì pháp luật dù có đúng đắn cũng chỉ nằm trên giấy. Tiểu kết chương 1 Từ việc phân tích khái niệm công chứng qua các văn bản quy phạm pháp luật trong từng thời kỳ cho thấy, bản chất công chứng là một hoạt động xã hội nghề nghiệp mang tính dịch vụ công. Dịch vụ công là những hoạt động nhằm phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ chức. Như vậy, cung ứng dịch vụ công là một chức năng – chức năng xã hội của Nhà nước, là yếu tố quan trọng đảm bảo duy trì, củng cố chứng năng quản lý của Nhà nước. 15
  16. Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG CỦA CÁC VĂN PHÕNG CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội thành phố Hà Nội có ảnh hưởng tới hoạt động thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng 2.1.1. Ảnh hưởng về đặc điểm tự nhiên Thành phố Hà Nội, Nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông hồng, thành phố Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn. 2.1.2. Ảnh hưởng về kinh tế - xã hội Năm 2014, kinh tế Thành phố Hà Nội tiếp tục duy trì mức tăng trưởng khá, ước cả năm 2014 tăng 8,8%. Đáng chú ý, tất cả các ngành, lĩnh vực chủ yếu đều lấy lại đà tăng trưởng: giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng tăng 8,4%, trong đó, riêng xây dựng tăng 9,9%, là mức tăng cao nhất trong 3 năm gần đây; thị trường bất động sản đã có sự chuyển biến, lượng hàng tồn kho giảm. Giá trị gia tăng ngành nông nghiệp ước tăng 2%; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản trên diện tích đất nông nghiệp ước đạt 231 triệu đồng/ha (cao hơn năm trước 4 triệu đồng); đã hoàn thành kế hoạch dồn điền đổi thửa và lũy kế hết 2014 có 100 xã đạt nông thôn mới (bằng 20% số xã nông thôn mới của cả nước). 2.2. Đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân 2.2.1.1. Kết quả đạt được 16
  17. Thứ nhất, về hệ thống tổ chức hành nghề công chứng Tính đến hết ngày 31/5/2017, toàn Thành phố có 122 tổ chức hành nghề công chứng (bao gồm 10 phòng công chứng và 112 Văn phòng công chứng). Số lượng các phòng công chứng nói trên được phủ khắp 30 quận, huyện, thị xã. Việc phát triển rộng khắp hệ thống các phòng công chứng trên địa bàn Hà Nội đã đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ công chứng của các tổ chức và cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội. Hầu hết các văn phòng công chứng được thành lập từ giai đoạn 2008-2017 đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về hoạt động công chứng. Như vậy, có thể thấy rằng so với quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Thành phố Hà Nội giai đoạn 2008 – 2020, thành phố Hà Nội cơ bản đã hoàn thành việc thành lập các Văn phòng công chứng. Số lượng phòng công chứng vượt tiêu chuẩn là 9 văn phòng công chứng. Trong đó chỉ riêng các quận, huyện trong nội thành Hà Nội, số lượng phòng công chứng được thành lập mới là 08 Văn phòng trước khi có Quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ (tức là trước ngày 29/12/2012) bao gồm các quận: Đống Đa, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng Thứ hai, về công chứng viên Sau khi Luật công chứng có hiệu lực và đi vào cuộc sống, thực hiện đúng theo tinh thần và chủ trương của Đảng là xã hội hóa hoạt động công chứng, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đã lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, toàn diện, sâu sắc đến hoạt động thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố. Số lượng Công chứng viên mới được bổ nhiệm qua các năm ngày càng tăng lên, chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cho công chứng viên đang được nâng cao. Hiện nay, thành phố có 416 công chứng viên đang hành nghề tại 122 tổ chức. Thứ ba, về thủ tục và hoạt động công chứng Từ năm 2012 đến hết tháng 10/2015, các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Thành phố Hà Nội đã công chứng được hơn 800.000 giao dịch, thu gần 450 tỷ đồng, nộp ngân sách gần 80 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 17
  18. 1.200 người lao động. Hà Nội cũng là địa phương đầu tiên trong cả nước lập Hội công chứng viên thành phố. Với khối lượng giao dịch ngày một nhiều, chất lượng giao dịch cũng ngày một nâng cao. Bảng 2.1: Số liệu thực hiện pháp luật về công chứng tại một số Văn phòng công chứng trên địa thành phố Hà Nội từ năm 2012 – 2016 Năm Văn phòng công chứng Tổng số lượng Tổng số phí công hợp đồng giao chứng dịch 2012 Văn phòng công chứng Đông 5.123 1.224.225.000 Đô, thành phố Hà Nội 2013 5.876 1.578.600.000 2014 8.125 2.347.286.000 2015 12.146 4.789.537.800 2016 11.446 4.643.878.000 Nguồn: Báo cáo của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội từ 2012 – 2016. Sự phát triển về số lượng việc yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch của tổ chức và cá nhân qua các năm được thực hiện qua biểu đồ sau: Biểu đồ 2.1: Số lượng việc yêu cầu công chứng hợp đồng và các văn bản giao dịch của tổ chức và cá nhân từ 2012 – 2016 18
  19. Nhìn vào kết quả đạt được trong biểu đồ 2.1 cho thấy: số lượng các giao dịch các dịch vụ tăng dần đều. Riêng năm 2015 có sự tăng đột biến và đến năm 2016 lại có dấu hiệu tăng thấp hơn năm 2015. Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện và khách quan vẫn cho thấy hoạt động công chứng rất phát triển. Hoạt động công chứng bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch bảo đảm tiền vay.Trong quá trình tác nghiệp hoạt động công chứng, với kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm trong công tác, các công chứng viên luôn cố gắng thực hiện các hành vi công chứng theo đúng trình tự, thủ tục, hình thức chặt chẽ, lập ra văn bản công chứng trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận, bình đẳng thiện chí, trung thực, tự chịu trách nhiệm dân sự… thông qua hoạt động công chứng tạo cho ngân hàng, cá nhân, tổ chức ý thức thận trọng hơn, tuân thủ pháp luật tốt hơn có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện ý chí của mình phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và truyền thống văn hóa khi tham gia ký kết và thực hiện các hợp đồng giao dịch. 2.2.1.2. Nguyên nhân Việc thực hiện pháp luật về công chứng của các Văn phòng công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm qua đạt được những kết quả kể trên là do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, cụ thể như sau: Thứ nhất, nguyên nhân khách quan Có thể thấy rằng, trong thời gian qua thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt luật công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật công chứng cho người dân và các tổ chức sinh sống và hoạt động trên địa bàn thành phố. Việc thực hiện tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân, các tổ chức, cơ quan đã làm cho người dân và tổ chức hiểu rõ hơn vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện hoạt động công chứng. Thứ hai, nguyên nhân chủ quan Một là, kết quả của hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian vừa qua cũng có công sức đóng góp không nhỏ của đội ngũ công chứng viên 19
  20. và chuyên viên các tổ chức hành nghề công chứng. Những cán bộ này đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của hoạt động công chứng là thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch bắt đầu từ khâu tư vấn, giải thích, thực hiện tốt việc tuyên truyền pháp luật công chứng đến người dân tham gia giao dịch và người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội. 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.2.2.1. Hạn chế Cũng như nhiều tỉnh, thành phố khác trong cả nước, thành phố Hà Nội đã triển khai thực hiện pháp luật công chứng và các văn bản pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực công chứng, tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng cũng có những hạn chế, bất cập dẫn đến những yếu kém trong thực hiện pháp luật về công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện các hoạt động giao dịch về công chứng, việc xử lý nhiều trường hợp cụ thể còn khá lung túng .Có thể chỉ ra hàng loạt những bất cập, những vướng mắc sau đây: Thứ nhất, về hệ thống tổ chức hành nghề công chứng Bên cạnh sự phát triển, thì tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn Hà Nội giai đoạn vừa qua cũng có những hạn chế nhất trong việc thực hiện quy hoạch của thành phố. Việc sắp xếp lại các tổ chức hành nghề công chứng tại các địa bàn vừa được quy hoạch gặp nhiều khó khăn. Hoạt động của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, Sự thiếu chuyên nghiệp thể hiện rõ nhất ở đội ngũ nhân viên chưa có nhiều kinh nghiệm. Thứ hai, về công chứng viên Thật ra với lượng dân số quá đông như hiện nay ở thành phố Hà Nội thì con số 416 công chứng viên vẫn còn rất khiêm tốn so với nhu cầu của người dân. Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn đang thiếu công chứng viên, những người được đào tạo về chuyên môn một cách bài bản. Thứ ba, về thủ tục và hoạt động công chứng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2