intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Thực hiện pháp luật về Đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

5
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu về cơ sở lý luận của pháp luật và thực hiện pháp luật về đầu tư công; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật hiến pháp và luật hành chính: Thực hiện pháp luật về Đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRƯƠNG TẤN PHÁT THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 8 38 01 02 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2023
  2. Công trình được thực hiện tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh Phản biện 1: Phản biện 2: Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn thạc sĩ, Học viện hành chính quốc gia Địa điểm: Thời gian: Vào hồi … giờ …, ngày … tháng … năm 2023 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang web Khoa Sau đại học, Học viện hành chính quốc gia
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU 4 TƯ CÔNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về đầu tư công 4 1.2. Nguyên tắc, chủ thể, nôi dung thực hiện pháp luật về đầu tư công 6 1.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về đầu tư công 7 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI 10 SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Khái quát chung về tình hình đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành 10 phố Hồ Chí Minh 2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và 12 Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế 13 hoạch và Đầu tư Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP 16 LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch 16 và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và 17 Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh KẾT LUẬN 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh kinh tế thị trường, đầu tư công đã trở thành một trong những giải pháp hiệu quả nhất để tăng cường phát triển kinh tế và xã hội. Đầu tư công đóng vai trò quan trọng, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Theo góc độ xã hội, hoạt động đầu tư công được tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giáo dục, y tế hay xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt hơn, đầu tư công là một trong những công cụ quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Các khoản đầu tư này có thể bao gồm việc xây dựng, sửa chữa hoặc nâng cấp các cơ sở hạ tầng như đường, cầu, đường sắt, sân bay, cảng biển, đường ống dẫn dầu, điện, nước, trường học, bệnh viện và các công trình khác. Tầm quan trọng của đầu tư công nằm ở việc nó giúp tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội của người dân. Bên cạnh đó, đầu tư công cũng giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên trường quốc tế bằng cách cải thiện năng lực cơ sở hạ tầng. Có thể nói, hoạt động đầu tư công giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân thông qua việc tạo ra các dự án hạ tầng mới. Tuy nhiên, để đầu tư công thực sự mang lại giá trị, đòi hỏi việc áp dụng pháp luật về đầu tư công trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Với tầm quan trọng đó, trong thời gian qua, nhà nước ta tập trung và tăng cường hoạt động đầu tư công nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, về kết quả thực hiện pháp luật đầu tư công những năm qua đã đạt nhiều kết quả tích cực, nhất là kết quả thực hiện các Nghị quyết của HĐND TP, trong đó năm 2022 là năm thứ hai triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021- 2025. Theo đó, tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022 được HĐND TP thông qua là 35.516,968 tỷ đồng; UBND TP đã giao kế hoạch vốn là 29.464,008 tỷ đồng, đạt 82,95%. Tuy nhiên, tính đến ngày 12/8/2022, TP mới giải ngân đạt tỷ lệ 29% so với tổng kế hoạch vốn được giao. Nhiều công trình trọng điểm trên địa bàn thành phố có tiến độ giải ngân chậm; công tác bồi thường giải phóng mặt bằng nhiều dự án còn chậm, kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư để tiến hành thi công. Để thực hiện tốt các dự án đầu tư công trên cơ sở Nghị quyết số 99/NQ-HĐND ngày 19/10/2021 về ban hành kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025; những vấn đề có liên quan lĩnh vực đầu tư công khi thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội (khóa XIV) và Nghị định số 33/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ, TP đã thông qua hoạt động giải trình để các sở (Sở Kế hoạch và Đầu tư), ban, ngành, cơ quan chức năng có liên quan của TP, UBND các quận, huyện và TP Thủ Đức, các đơn vị chủ đầu tư dự án thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Sở Kế hoạch đầu tư cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong việc tăng cường tính minh bạch, giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa hiệu quả của đầu tư công. Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách, pháp luật đầu tư công taị các dự án đầu tư cũng đòi hỏi sự liên kết và phối hợp giữa các đơn vị, cơ quan chức năng và người dân để đạt được mục tiêu phát triển chung của thành phố. Trên cơ sở những khó khăn thách thức trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công trên địa bản TP và đề tìm ra những giải pháp căn cơ cho việc thực hiện tốt pháp luật (Luật Đầu tư công năm 2019 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2020) về Đầu tư công, tác giả lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về Đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh” là đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính của mình. 1
  5. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Các nghiên cứu về thực hiện pháp luật về đầu tư công đã có nhiều công trình khoa học được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, trong đó có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: - “Một số vấn đề cơ bản về đầu tư công trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới của Việt Nam 2011- 2020” của Vũ Tuấn Anh (2010), được đăng trên Báo cáo Kỷ yếu hội thảo khoa học định hướng phát triển tài chính giai đoạn 2011-2020. - “Đổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020” của Vũ Như Thăng (2020) được đăng trên Kỷ yếu hội thảo khoa học định hướng phát triển tài chính giai đoạn 2011-2020. - “Nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” của Phạm Mạnh Hùng được đăng trên Tạp chí Khoa học và đào tạo ngân hàng, số 246 (11/2022). - Bài báo khoa học và sách chuyên khảo “Đầu tư công, đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế: Lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm” (2018), do Nguyễn Thị Cành chủ biên. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Hoàn thiện pháp luật về quản lý vốn ĐTC qua công tác thanh tra, kiểm toán nhà nước” do Tiến sĩ Tăng Thị Nhiệm làm chủ nhiệm. Các bài viết này chủ yếu trình bày các chủ trương, đường lối, chính sách, khung pháp lý về đầu tư công mà chưa tập trung làm rõ thực trạng của pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công. Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về đầu tư công và thực tiễn thi hành tại tỉnh Điện Biên” của tác giả Lê Văn Toán. Luận văn nghiên cứu đối tượng là quy định của pháp luật về đầu tư công trong phạm vi thực tiễn tại tỉnh Điện Biên. Trên cơ sở đó, luận văn này tiếp tục kế thừa những kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Văn Toán. Tuy nhiên, luận văn này vẫn tập trung nghiên cứu ở phạm vi thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh, được xem là địa phương thực hiện đầu tư công mạnh mẽ và lớn nhất của cả nước. Trên đây là các công trình nghiên cứu liên quan đến đầu tư công được tham khảo để kế thừa, mở rộng và củng cố cho việc hoàn thiện luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu về cơ sở lý luận của pháp luật và thực hiện pháp luật về đầu tư công; phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về đầu tư công như khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc; những nội dung cơ bản của việc thực hiện pháp luật về đầu tư công; những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật về đầu tư công. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở kế hoạch và Đầu tư TP Hồ Chí Minh. - Định hướng kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đầu tư công và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư trên địa bản TP Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. 2
  6. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài được giới hạn trong phạm vi không gian tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2023. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn sử dụng các phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để làm nền tảng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được áp dụng trong quá trình thực hiện đề tài bao gồm phương pháp so sánh, phương pháp thu thập số liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê số liệu và so sánh. Trong đó: - Phương pháp thu thập dữ liệu: thu thập tư liệu từ các văn bản pháp luật, quy định, chính sách của Nhà nước về đầu tư công, báo cáo thống kê, các dữ liệu thực tiễn về hoạt động đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: tổng hợp dữ liệu và phân tích dữ liệu nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực trạng của đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp so sánh: phương pháp so sánh được sử trên cơ sở các số liệu thống kê qua các năm; từ đó, đề tài làm rõ những những tồn tại, bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. - Phương pháp tổng hợp và dự báo: tổng hợp các nguyên nhân của thực trạng và xây dụng các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hoạt động đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn đã hệ thống hóa và làm rõ mộtsố vấn đề lý luận về pháp luật đầu tư công. - Luận văn cung cấp nguồn tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy về pháp luật trong lĩnh vực đầu tư công kể cả về lý luận và thực tiễn. - Kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tham khảo cho các cơ quan quản lý và thực hiện áp dụng pháp luật về đầu tư công tại địa phương có cái nhìn tổng quan, cũng như những đặc thù khi thực hiện. - Kết quả nghiên cứu của đề tài còn giúp cho việc ban hành và hoàn thiện chính sách pháp luật về đầu tư công ngày càng được hoàn thiện. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật về đầu tư công Chương 2. Thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh 3
  7. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thực hiện pháp luật về đầu tư công 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm đầu tư công và đầu tư từ vốn thuộc ngân sách nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm đầu tư công Theo Từ điển của Cambridge, “đầu tư công là số tiền mà chính phủ chi cho các dịch vụ công cộng, chẳng hạn như giáo dục và y tế” [26, tr. 201]. Theo Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA), tổ chức này định nghĩa đầu tư công là chi tiêu của chính phủ cho cơ sở hạ tầng công cộng. Cơ sở hạ tầng gồm hai loại: “i) cơ sở hạ tầng kinh tế như sân bay, đường bộ, đường sắt, cảng, nước và nước thải, điện, khí đốt và viễn thông; và ii) cơ sở hạ tầng xã hội như trường học và bệnh viện” [27, tr. 127]. Tổ chức OECD đưa ra khái niệm về đầu tư công như sau: “đầu tư công thường được định nghĩa là chi tiêu công làm tăng thêm vào vốn vật chất công. Vốn vật chất này bao gồm các tài sản cố định như nhà ở, các tòa nhà và công trình hác (đường, sân bay, cầu, đập, cấu trúc viễn thông, tiện ích, tòa nhà văn phòng chính phủ, trường học, bệnh viện, nhà tù...), thiết bị vận chuyển, máy móc, tài sản canh tác, và tài sản cố định vô hình như tài sản trí tuệ. Đầu tư công dành tỷ trọng lớn là đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất và được thực hiện bởi các cấp quốc gia và địa phương” [28, tr. 52]. Theo cách tiếp cận trong lĩnh vực tài chính công thì “đầu tư công bao gồm đầu tư bằng nguồn vốn NSNN và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước” [7, tr.24-28]. Theo khoa học pháp lý, khái niệm đầu tư công lần đầu tiên được quy định tại Khoản 5 Điều 4 Luật đầu tư công năm 2014, theo đó “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội” [15]. Sau đó, Khoản 15 Điều 4 Luật Đầu tư công 2019 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) thay thế Luật Đầu tư công 2014 quy định rằng “Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án và đối tượng đầu tư công khác theo quy định của Luật này” [16]. Từ các cách tiếp cận trên, đầu tư công được hiểu là hoạt động đầu tư của nhà nước vào vào các chương trình, dự án thuộc mọi mặt của đời sống xã hội mà nhà nước quản lý. 1.1.1.2. Đặc điểm đầu tư công Thứ nhất, về chủ thể, đầu tư công được thực hiện bởi nhà nước. Nhà nước là chủ thể mang quyền lực công cộng, được tổ chức thành hệ thống cơ quan từ trung ương đến địa phương và có chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, đặc điểm này được hiểu cụ thể là đầu tư công được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bởi các tổ chức kinh tế được nhà nước ủy quyền thực hiện. Thứ hai, về đối tượng, đối tượng của đầu tư công là các chương trình, dự án được quy định tại Điều 5 Luật Đầu tư công 2019. Theo đó, chương trình, dự án được nhà nước thực hiện gồm “đầu tư chương trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đầu tư phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; đầu tư và hỗ trợ hoạt động đầu tư cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích, phúc lợi xã hội; đầu tư của Nhà nước tham gia thực hiện dự án theo phương thức đối tác công tư; đầu tư phục vụ công tác lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch; đầu tư phục vụ công tác lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch theo quy định của pháp luật về quy hoạch”. [16] Thứ ba, về nguồn gốc ngồn vốn thực hiện đầu tư công, đầu tư công được thực hiện từ vốn ngân sách nhà nước và vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu 4
  8. tư. Trong đó, nguồn vốn ngân sách nhà nước được tạo lập trên cơ sở dự toán ngân sách đã được Quốc hội và Hội đồng nhân dân quyết định. Thứ tư, về mục đích của đầu tư công, đầu tư công nhằm mục đích phát triển kinh tế – xã hội. Đầu tư công luôn gắn liền với quá trình nhà nước thực hiện bản chất, chức năng và vai trò của mình. Nhờ đầu tư công, đời sống của người dân ngày càng cải thiện, môi trường đầu tư kinh doanh từng bước được thông thoáng, năng lực cạnh tranh của nhà nước được tăng lên, đặc biệt là hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng hoàn thiện và hiện đại. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về đầu tư công 1.1.2.1. Khái quát pháp luật về đầu tư công Pháp luật về đầu tư công là hệ thống quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhà nước sử dụng vốn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện các dự án đầu tư nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư công là Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 được Quốc hội khóa 14 kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13/6/2019. Ngoài ra, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công năm 2019 cũng được ban hành lần lượt như Nghị định số 15/2015/NĐ- CP về hình thức đầu tư đối tác công tư - PPP; Nghị định số 63/2018/NĐ-CP về hình thức đầu tư đối tác công tư - PPP; Nghị định số 136/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật 49/2014/QH13 về đầu tư công; Nghị định số 120/2018/NĐ-CP sửa bổ sung một số nghị định về Đầu tư công. 1.1.2.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về đầu tư công Thực hiện pháp luật về đầu tư công được hiểu là hoạt động có mục đích của các chủ thể (gồm cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức và cá nhân có liên quan) nhằm đưa những quy định của pháp luật về đầu tư công vào thực tiễn cuộc sống một cách hợp pháp. Có thể nói, thực hiện pháp luật về đầu tư công là quá trình hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy đinh pháp luật về đầu tư công một cách hợp pháp. Như vậy, quá trình thực hiện pháp luật về đầu tư công góp phần khẳng định tính phù hợp, khả thi của pháp luật hiện hành. 1.1.2.3. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, thực hiện pháp luật về đầu tư công là hành vi hợp pháp của chủ thể. Đây là đặc điểm đặc trưng của quá trình thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về đầu tư công nói riêng. Thứ hai, thực hiện pháp luật về đầu tư công là hoạt động có mục đích của chủ thể. Thực hiện pháp luật về đầu tư công trước hết là hoạt động có mục đích của nhà nước và mang ý chí của nhà nước. Chủ thể còn lại trong quan hệ pháp luật đầu tư công – chủ thể chịu sự quản lý (chủ thể chấp hành), đương nhiên cũng phải có khả năng nhận thức về mục đích khi tham gia vào quan hệ pháp luật đầu tư công. Thứ ba, thực hiện pháp luật về đầu tư công là hoạt động mang tính chấp hành – điều hành trong quản lý nhà nước về hành chính và kinh tế. Quan hệ pháp luật đầu tư công phát sinh giữa một bên là nhà nước với vai trò là chủ thể điều hành và quản lý mọi mặt đời sống xã hội; bên còn lại là các tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý của nhà nước – chủ thể chấp hành. Ngoài ra, quan hệ pháp luật đầu tư công còn mang đặc điểm của quan hệ trong quá trình quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước giữa một bên là chủ thể quản lý, sử dụng ngân sách được cho là chủ trả, bên còn lại là chủ thể nhận chi trả, thụ hưởng đầu tư công, nên thể hiện tính kinh tế rõ nét. 5
  9. Thứ tư, thực hiện pháp luật về đầu tư công là hoạt động mang tính khách quan và chủ quan. Tính khách quan trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công thể hiện ở chỗ các chủ thể thực hiện pháp luật chỉ tuân theo quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, việc thực hiện pháp luật về đầu tư công còn mang tính chủ quan; theo đó, chủ thể thực hiện pháp luật cần linh hoạt, sáng tạo trong việc lựa chọn cách thức xử sự phù hợp. 1.1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, thực hiện pháp luật về đầu tư công góp phần đưa những quy tắc xử sự do nhà nước ban hành được hiện thực hóa trong cuộc sống. Qua đó, ý chí, mục đích và sự điều chỉnh của nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật trở thành hiện thực; đồng thời các chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước được đi vào thực tiễn cuộc sống. Thứ hai, thực hiện pháp luật về đầu tư công làm ổn định các quan hệ xã hội, từ đó làm ổn định và phát triển đời sống kinh tế xã hội. Việc thực hiện pháp luật về đầu tư công, suy cho cùng là quá trình xác lập các mối quan hệ phát sinh trong quá trình nhà nước thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội. Quá trình này tiếp diễn không ngừng trong suốt thời gian có hiệu lực của các quy định pháp luật. Có thể nói, việc thực hiện pháp luật về đầu tư công góp phần làm ổn định các quan hệ xã hội, từ đó làm ổn định và phát triển đời sống kinh tế xã hội. Thứ ba, thực hiện pháp luật về đầu tư công giúp nâng cao nhận thức chủ thể thực hiện, từ đó hình thành và nâng cao nhận thức của toàn xã hội. Việc thực hiện pháp luật góp phần giáo dục các chủ thể trong quan hệ pháp luật, giúp nâng cao nhận thức chủ thể thực hiện, từ đó hình thành và nâng cao nhận thức của toàn xã hội. Thứ tư, thực hiện pháp luật về đầu tư công giúp phát hiện, khắc phục những tồn tại và bất cập của pháp luật. Thông qua việc thực hiện pháp luật, giúp phát hiện những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về đầu tư công; đồng thời đưa ra những định hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đầu tư công; từ đó có thể nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đầu tư công. 1.2. Nguyên tắc, chủ thể, nôi dung thực hiện pháp luật về đầu tư công 1.2.1. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, nguyên tắc công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình. Hoạt động đầu tư công cần được công khai, minh bạch để bảo đảm quyền lợi chung của toàn xã hội. Bên cạnh đó, chủ thể thực hiện pháp luật về đầu tư công phái có trách nhiệm giải trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền và toàn xã hội về toàn bộ quá trình thực hiện đầu tư công. Thứ hai, nguyên tắc bảo đảm sự ổn định, bền vững của hoạt động đầu tư công gắn với kỷ luật tài khoá của cơ quan, tổ chức đơn vị nhà nước. Đầu tư công phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn thực hiện. Theo đó, việc thực hiện pháp luật về đầu tư công, đặc biệt là sử dụng vốn đầu tư công phải tuân theo quy định chặt chẽ của pháp luật, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục. Thứ ba, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản về áp dụng pháp luật trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, chủ thể áp dụng pháp luật về đầu tư công cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 như nguyên tắc áp dụng văn bản có giá trị pháp lý cao, áp dụng văn bản được ban hành sau cùng, nguyên tắc áp dụng văn bản chuyên ngành. Thứ tư, nguyên tắc phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Các dự án đầu tư công thường là các dự án trọng điểm và nhu cầu sử dụng vốn lớn. Trong khi đó, việc tạo lập nguồn ngân sách nhà nước và các 6
  10. nguồn vốn hợp pháp khác cần bảo đảm cân đối nhiều nhiệm vụ chi của nhà nước. Như vậy, việc thực hiện pháp luật về đầu tư công cần đáp ứng nguyên tắc phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. 1.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, chủ thể quyết định về đầu tư công: Quốc hội và Hội đồng nhân dân có thẩm quyền quyết định đầu tư công thông qua các chức năng, quyền hạn cụ thể như quyết định về chủ trương đầu tư, quyết định về Kế hoạch đầu tư trung hạn hay quyết định về nguồn vốn đầu tư. Thứ hai, chủ thể tổ chức thực hiện đầu tư công: cơ quan hành chính nhà nước (Chính phủ, các Bộ và Ủy ban nhân dân) chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đầu tư công như lập Kế hoạch và lập điều chỉnh Kế hoạch đầu tư công và giải ngân vốn đầu tư công để tiến hành thực hiện dự án đầu tư công. Thứ ba, nhóm chủ thể thụ hưởng đầu tư công: chủ thể thực hiện pháp luật trong quan hệ thụ hưởng đầu tư công chính cá nhân, tổ chức trong xã hội được hưởng các lợi ích từ các chương trình, dự án đầu tư công. 1.2.3. Nội dung thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, thực hiện pháp luật về lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư và các chương trình, dự án đầu tư công. Theo đó, Chính phủ và ủy ban nhân dân có trách nhiệm lập chủ trương đầu tư để trình Quốc hội và hội đồng nhân dân thẩm định và quyết định. Nội dung thực hiện pháp luật này được quy định tại các Điều từ 17 đến 45 Luật Đầu tư công năm 2019. Thứ hai, thực hiện pháp luật về lập, thẩm định, phê duyệt và giao kế hoạch đầu tư công; trong đó phổ biến là Kế hoạch đầu tư công trung hạn trong giai đoạn 5 năm. Nội dung thực hiện pháp luật được quy định từ điều 46 đến điều 63 Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thứ ba, thực hiện pháp luật về thực hiện kế hoạch đầu tư công, kiểm tra, đánh giá, thanh tra, giám sát kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công. Nội dung cụ thể được quy định từ điều 64 đến điều 77 Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản hướng dẫn. Bên cạnh việc thực hiện quy định của Luật Đầu tư công năm 2019, chủ thể thực hiện đầu tư công còn áp dụng các quy định của luật chuyên ngành để thực hiện hoạt động đầu tư công. Như đã phân tích, hoạt động đầu tư công liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật (đất đai, ngân sách nhà nước, xây dựng, môi trường…). Do đó, Luật Đầu tư công năm 2019 chỉ là văn bản điều chỉnh chung về đầu tư công. Còn việc thực hiện đầu tư công phải căn cứ vào nhiều quy định của pháp luật chuyên ngành. 1.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về đầu tư công 1.3.1. Yếu tố pháp lý (i) Tác động tích cực của pháp luật hiện hành đến thực hiện pháp luật về đầu tư công: Thứ nhất, Luật Đầu tư công năm 2019 đã có sự điều chỉnh thống nhất với Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 về khái niệm vốn đầu tư công. Khác với các quy định trước đây khi đồng nhất vốn đầu tư công là vốn từ ngân sách nhà nước; pháp luật hiện hành đã mở rộng về nội hàm của khái niệm vốn đầu tư công. Từ đó, việc xác định nội hàm của các dự án đầu tư công cũng được mở rộng, bao gồm các dự án sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước và các dự án sử dụng vốn từ nguồn thu hợp pháp của cơ quan, tổ chức hay đơn vị sự nghiệp công lập. Thứ hai, bổ sung đối tượng đầu tư công. Luật Đầu tư công năm 2014 chưa bao quát các đối tượng đầu tư công, từ đó làm ảnh hưởng tiêu cực đến thực tiễn thực hiện pháp luật trong thời gian Luật Đầu tư công năm 2014 có hiệu lực. Bất cập này đã được Luật Đầu tư công năm 2019 bổ sung kịp thời tại Điều 5 Luật Đầu tư công năm 2019. 7
  11. Thứ ba, tách giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với các dự án quan trọng quốc gia (dự án nhóm A). Quy định về tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với dự án nhóm A tại Luật Đầu tư công năm 2019 đã tháo gỡ những khó những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư công, đặc biệt là sự phân định rõ ràng trong từng nhóm dự án giữa dự án giải phóng mặt bằng và dự án triển khai đầu tư xây dựng và hoàn thiện. Từ đó, rút ngắn tiến độ thực hiện dự án và góp phần tăng cường trách nhiệm của các chủ thể thực hiện đầu tư công. Thứ tư, kịp thời sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về phân cấp về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về quyết định chủ trương đầu tư. Theo đó, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án trọng điểm (dự án nhóm A) do địa phương quản lý. Có thể nói, quy định về phân cấp về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về quyết định chủ trương đầu tư đã khắc phục sự bất cập, cứng nhắc của pháp luật trước đây; góp phần nâng cao thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, từ đó giúp cho hoạt động đầu tư công đối với các dự án nhóm A được linh hoạt và thuận tiện. Thứ năm, cắt giảm một số trường hợp dự án không phải qua thủ tục quyết định chủ trương đầu tư. Việc đã cắt giảm một số trường hợp dự án không phải qua thủ tục quyết định chủ trương đầu tư trong Luật Đầu tư công năm 2019 cũng là một điểm mới và tiến bộ của pháp luật, đặc biệt là góp phần làm thông thoáng trình tự, thủ tục thực hiện đầu tư công; rút ngắn tiến độ trong việc triển khai thực hiện đầu tư công. Thứ sáu, tăng cường phân cấp quản lý trong thủ tục thực hiện đầu tư công. Theo đó, Luật Đầu tư công năm 2019 đẩy mạnh phân cấp thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đồng thời, Luật Đầu tư công năm 2019 đã đơn giản hóa quy trình, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án theo hướng các bộ, cơ quan trung ương và địa phương được phân cấp thẩm định các dự án do mình quản lý. Ngoài ra, pháp luật hiện hành đã tăng cường phân cấp trong công tác xây dựng kế hoạch và phê duyệt đầu tư công. Thứ bảy, hoàn thiện các quy định về thủ tục giải ngân vốn. Theo quy định tại Điều 68 Luật Đầu tư công 2019 thì “Thời gian thực hiện và giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công hằng năm đến ngày 31 tháng 01 năm sau”. Như vậy, so với Luật Đầu tư công 2014, quy định của pháp luật hiện hành đã rút ngắn việc giải ngân đầu tư công từ 02 năm xuống còn 01 năm. Với quy định này, việc thực hiện giải ngân đã hiệu quả hơn rất nhiều so với trước đây. (ii) Tác động tiêu cực của pháp luật đến việc thực thiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, chưa có sự thống nhất trong Luật Đầu tư công 2019 và Luật Ngân sách nhà nước 2015 về xác định dự án đầu tư công.Theo đó, trường hợp dự án đầu tư công đã hoàn thiện và được đưa vào sử dụng bị hư hỏng do nguyên nhân thiên tai (mưa bão, lũ lụt) và cần được cải tạo thì thủ tục giải ngân vốn nên được áp dụng theo quy định của việc áp dụng quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 thay vì áp dụng quy định trong Luật Đầu tư công năm 2019. Thứ hai, chưa có sự tương thích giữa quy định về Kế hoạch đầu tư trung hạn trong Luật Đầu tư công 2019 và quy định về giải ngân vốn thực hiện dự án trong Luật Ngân sách nhà nước 2015. Sự khác biệt trong các quy định gây chồng chéo về thẩm quyền phê duyệt Kế hoạch đầu tư công trung hạn và thẩm quyền phê duyệt Kế hoạch giải ngân vốn; từ đó ảnh hưởng đến thực tiễn thực hiện thủ tục đầu tư công. Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa có những quy định về khả năng cân đối vốn nhằm bảo đảm cho việc thực hiện các dự án, đặc biệt là các dự án thực hiện trong nhiều năm. Bất cập này của pháp luật có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện dự án đầu tư công, đặc biệt là tiến độ thực hiện dự án. 8
  12. Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa tách nội dung về giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập. Luật Cạnh tranh 2019 đã tách giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với các dự án trọng điểm quốc gia (dự án thuộc nhóm A) nhưng chưa áp dụng đối với các dự án thuộc nhóm B và nhóm C. Đây là sự bất cập của pháp luật hiện hảnh làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện giải ngân vốn. Nếu công tác giải phóng mặt bằng đối với các dự án thuộc nhóm B và nhóm C vẫn chưa hoàn thiện thì cơ quan chức năng không thể phê duyệt kế hoạch giải ngân vốn. Thứ năm, quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục đầu tư công còn cứng nhắc và rườm rà. Bất cập này dẫn đến nhiều trường hợp dự án sau khi được giao vốn thì cơ quan chức năng mới bắt đầu triển khai lập và quyết định chủ trương đầu tư; Kế hoạch đầu tư; sau đó mới triển khai thực hiện dự án. Các thủ tục về lập, quyết định chủ trường và Kế hoạch đầu tư cũng mất nhiều thời gian, thậm chí phải lập điều chỉnh khi thực tiễn có biến động. Đây là một trong những thực trạng lớn nhất trong việc thực hiện đầu tư công tại Việt Nam hiện nay mà nguyên nhân chủ yếu là do quy định rườm rà, phức tạp về thủ tục và trình tự. Thứ sáu, pháp luật đầu tư công hiện hành chưa phân cấp triệt để thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đầu tư công. Đặc biệt, pháp luật hiện hành chưa phân cấp quản lý cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tự chủ thực hiện pháp luật về đầu tư công. Hội đồng nhân dân tỉnh cũng chưa tự chủ trong việc quyết định tách giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với dự án thuộc nhóm B và nhóm C. Thậm chí, trong trường hợp có biến động về thực hiện đầu tư công, Hội đồng nhân dân tỉnh cũng chưa được phân cấp quyết định về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án nhóm C sử dụng vốn ngân sách địa phương. Những bất cập này của pháp luật hiện hành cần thiết được hoàn thiện để nâng cao hiệu quả thực hiện đầu tư công trong thời gian tới. 1.3.2. Trình độ và năng lực của chủ thể thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, trình độ phân cấp quản lý ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Theo đó, trình độ phân cấp quản lý ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về đầu tư công theo hướng tích cực và tiêu cực. Thứ hai, năng lực quản lý và chuyên môn của đội ngũ cán bộ; của nhà thầu và của các chủ thể khác ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Năng lực quản lý và chuyên môn của đội ngũ cán bộ cũng ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện pháp luật về đầu tư công. Nếu đội ngũ cán bộ có năng lực quản lý và năng lực chuyên môn thì việc xây dựng hoạch định, chính sách, kế hoạch đầu tư công… sẽ hiệu quả và khả thi. Ngược lại, nếu đội ngũ cán bộ thiếu năng lực quản lý hoặc năng lực chuyên môn, cán bộ kiêm nhiệm nhiều công việc trong công tác hoặc chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ… sẽ gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý về đầu tư công. 1.3.3. Yếu tố kinh tế thị trường bên cạnh những bất cập trong quy định của pháp luật về đầu tư công, sự biến động của giá nguyên vật liệu là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư công hiện nay. Bởi lẽ, đầu tư công gắn liền với hoạt động đầu tư của nhà nước và thường kéo dài trong nhiều năm. Vì vậy, giá nguyên vật liệu đầu vào biến động ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện đầu tư công. 1.3.4. Yếu tố văn hóa truyền thống Đầu tư công tại Việt Nam chú trọng về phát triển kinh tế nhưng lại ít chú trọng về yếu tố xã hội và môi trường. Tuy nhiên, việc duy trì sự cân bằng của đồng thời các yếu tố này trong quá trình thực hiện đầu tư công luôn là thách thức đối với nhà nước ta. Bởi lẽ, sau một thời gian dài của thời kì chiến trình, đổi mới và hội nhập; điều kiện kinh tế xã hội của nước ta gặp nhiều khó khăn. 9
  13. Đầu tư công tại Việt Nam phân tán trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề mà chưa chú trọng ở những lĩnh vực trọng yếu. Theo đó, một số lĩnh vực đầu tư công thuộc lĩnh vực trọng yếu như giáo dục, nông nghiệp lại không được chú trọng. Vì vậy, việc đầu tư công trong các trường hợp này không chỉ làm lãng phí nguồn lực mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công Tiểu kết chương 1 Đầu tư công là hoạt động đầu tư của nhà nước nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, hoạt động đầu tư công cũng là một trong những chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện. Trong thời gian qua, nhà nước ta luôn nghiêm chỉnh trong việc xây dựng pháp luật về đầu tư công và tăng cường mọi biện pháp để hiện thực hóa các quy định của pháp luật. Trong Chương 1, tác giả đã hệ thống các vấn đề lý luận và phân tích những yếu tố tác động lên hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Có thể thấy rằng, quá trình hiện thực hóa các quy định của pháp luật về đầu tư công ngày càng đạt nhiều kết quả tích cực. Nguyên nhân chính đem lại kết quả như mong đợi trong hoạt động đầu tư công chủ yếu đến từ sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Ngoài ra, những yếu tố khách quan của thị trường, sự ổn định về chính trị và văn hóa, sự đồng lòng của cả hệ thống nhà nước và toàn Đảng, toàn dân cũng là những nguyên nhân làm cho việc thực hiện pháp luật về đầu tư công đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật về đầu tư công cũng bị ảnh hưởng nặng nề đến từ các yếu tố trên. Pháp luật hiện hành vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập như thủ tục cứng nhắc, rườm rà; chưa có sự phân cấp cụ thể về đầu tư công, đặc biệt là cho các cơ quan nhà nước ở địa phương; chưa thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công; từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Khái quát chung về tình hình đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên của thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn ở miền Nam của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội gần 1.730 km đường bộ, nối liền các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương; Bà Rịa Vũng Tàu) và Tây Nam Bộ (Long An, Tiền Giang) với cơ sở hạ tầng hiện đại và đồng bộ. Bên cạnh đó, thành phố Hồ Chí Minh còn là cửa ngõ quốc tế với hệ thống cảng hàng không quốc tế và cảng biển quốc tế. 2.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Hồ Chí Minh: Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất ở Việt Nam về dân số và quy mô đô thị hóa. Bên cạnh đó, thành phố là địa phương giữ vị trí đầu tàu về kinh tế. Theo đó, thành phố Hồ Chí Minh là có tỉ lệ đóng ngân sách nhà nước cao nhất trên cả nước; là địa phương đi đầu đổi mới - sáng tạo trong công cuộc phát triển kinh tế của cả nước. Trong những năm tới, thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục nỗ lực vượt qua những khó khăn về kinh tế - xã hội, phấn đấu đạt mục tiêu “trở thành đô thị thông minh, thành phố dịch vụ, công nghiệp theo hướng hiện đại, giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế, động lực tăng trưởng của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, đi đầu trong đổi mới sáng tạo 10
  14. đến 2025”, và “đến năm 2030, thành phố Hồ Chí Minh sẽ là thành phố dịch vụ, công nghiệp hiện đại, thành phố văn hóa, đầu tàu kinh tế số, xã hội số”. 2.1.2. Tình hình đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 2.1.2.1. Quy mô vốn đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước trong tổng vốn đầu tư (i) Quy mô vốn đầu tư công từ vốn ngân sách trung ương cấp cho thành phố Hồ Chí Minh thực hiện đầu tư công Trong 03 năm đầu của Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025, việc thực hiện đầu tư công của thành phố bằng ngân sách trung ương cũng tăng trưởng qua các năm. Theo đó, tổng số vốn Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương được Thủ tướng Chính phủ giao cho Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2021 – 2025 là 33.374,951 tỷ đồng. Qua đây, có thể đánh giá về mức độ triển khai thực hiện pháp luật về đầu tư công của thành phố Hồ Chí Minh như sau: Thứ nhất, việc hỗ trợ nguồn vốn của ngân sách trung ương cho thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện đầu tư công trong năm 2022 giảm so với 2021 (giảm 35%). Nguyên nhân chủ yếu là do nhà nước gặp khó khăn trong việc thu ngân sách trung ương trong năm 2022 (tác động của đại dịch COVID). Việc giảm nguồn thu ngân sách nhà nước đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện đầu tư công trên cả nước nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Thứ hai, trong năm 2023, nguồn vốn hỗ trợ của trung ương cho thành phố Hồ Chí Minh tăng mạnh, tăng hơn 6 lần so với năm 2022. Điều này chứng tỏ sự quyết tâm của trung ương và thành phố trong việc tăng cường thực hiện đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2023. Thứ ba, qua việc ban hành các văn bản của thành phố nhằm triển khai chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cho thấy, thành phố đã chấp hành nghiêm túc chủ trương, đường lối và chỉ đạo của trung ương trong việc phân bổ kế hoạch sử dụng vốn. Trong các năm 2021 và 2022, thành phố triển khai phân bổ 100% nguồn hỗ trợ của trung ương để thực hiện các dự án đầu tư công và triển khai phân bổ 98,1% nguồn hỗ trợ của trung ương để thực hiện đầu tư công trong năm 2023. (ii) Quy mô vốn đầu tư công từ vốn ngân sách thành phố Ngoài mức vốn được Thủ tướng Chính phủ giao, thành phố có khả năng có thể cân đối nguồn vốn chi đầu tư phát triển cho kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 là 261.967,923 tỷ đồng. Trên cơ sở nội dung của các Quyết định của Thủ tướng chính phủ và Hội đồng nhân dân thành phố về quy mô vốn ngân sách thành phố thực hiện đầu tư công giai đoạn 2021 – 2025 và khả năng cân đối vốn trên thực tế của thành phố Hồ Chí Minh, nhận thấy: Thứ nhất, khả năng cân đối vốn ngân sách thành phố cho đầu tư công giai đoạn 2021-2025 vượt khá xa so với yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ giao cho thành phố. Điều này chứng tỏ những nỗ lực không ngừng của chính quyền địa phương trong việc chấp hành thu ngân sách nhà nước và sự quyết tâm cao trong chấp hành nhiệm vụ chi cho đầu tư công của thành phố. Thứ hai, quá trình thực hiện lập, thẩm định, tham mưu quyết định chủ trương đầu tư các dự án đầu tư công bảo đảm đúng chủ trương, chính sách và quy định pháp luật về đầu tư công. Việc chuẩn bị hồ sơ trình Thủ tướng chính phủ và Hội đồng nhân dân thành phố quyết định chủ trương đầu tư đều đảm bảo tuân thủ quy định của Nghị định 40/2020/NĐ-CP và các Điều 29, 30, 31 của Luật Đầu tư công 2019. 2.1.2.2. Sự tăng trưởng vốn đầu tư công từ ngân sách của thành phố từ 2017- 2023 11
  15. Trong những năm 2017 đến năm 2020, đây là những năm thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 – 2020, thông qua công tác rà soát các dự án đầu tư công đã được Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt cho thấy tiến độ và hiệu quả thực hiện dự án tốt. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện đầu tư công có sự thay đổi so với Kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020, đặc biệt là nhu cầu sử dụng vốn tăng. Theo đó, Hội đồng nhân dân quyết định điều chỉnh tăng vốn cho 127 dự án với mức tăng là 1.185,384 tỷ đồng. Từ năm 2021 đến năm 2023, nhu cầu sử dụng vốn đầu tư công và phân bổ vốn đầu tư công của thành phố Hồ Chí Minh cũng tăng lên qua từng năm, thể hiện qua nhu cầu sử dụng vốn trung ương và nguồn vốn ngân sách thành phố. Theo đó, việc phân bổ vốn đầu tư công từ ngân sách thành phố tăng 47,1% trong năm 2022 và 65% trong năm 2023. Có thể nói, sự tăng trưởng trong nhu cầu sử dụng vốn trong giai đoạn này thể hiện sự quyết tâm của chính quyền và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, nhận thức tầm quan trọng của đầu tư công nhằm phát triển kinh tế – xã hội của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung. 2.1.2.3. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư công từ vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh do Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện quản lý đầu tư Trong năm 2020, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố được phân công thực hiện đầu tư công với tổng số vốn đầu tư công đã giải ngân tính đến hết ngày 04 tháng 12 năm 2020 được Kho bạc Nhà nước thành phố xác nhận là 27.248,534 tỷ đồng. Trong năm 2021, tổng số vốn kế hoạch đầu tư công của Thành phố giao Sở Kế hoạch và Đầu tư đã giải ngân tại Kho bạc Nhà nước Thành phố là 19.721,157 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 61,13% tổng kế hoạch vốn giao (32.262,986 tỷ đồng). Trong năm 2022, theo số liệu cập nhật đến hết ngày 31 tháng 01 năm 2023 do Kho bạc Nhà nước Thành phố cung cấp thì tổng vốn số vốn Sở Kế hoạch và Đầu tư triển khai thực hiện và đã giải ngân là 25.491,462 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 68,2% tổng kế hoạch vốn giao (37.366,206 tỷ đồng). 2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 2.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy tại Sở Kế hoạch và đầu tư trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công Theo Quyết định số 59/2017/QĐ-UBND ngày 20 tháng 11 năm 2017 thì Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước về quy hoạch, kế hoạch và đầu tư. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Sở Kế hoạch và đầu tư của được ban hành theo Quyết định số 248/QĐ-SKHĐT ngày 20 tháng 8 năm 2019 và Quyết định số 248/QĐ-SKHĐT ngày 10 tháng 10 năm 2019. Theo đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố gồm Lãnh đạo Sở; Văn phòng; Thanh tra Sở; các Phòng chuyên môn, nghiệp vụ và các đơn vị sự nghiệp. Như vậy, việc tổ chức bộ máy và phân công phân cấp cho Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Các Quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về phân cấp quản lý cho Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đều được ban hành trên các cơ sở pháp lý rõ ràng và cụ thể, phù hợp với quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, với Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 04 năm 2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các văn bản hướng dẫn thi hành. 12
  16. 2.2.2. Thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công tại Sở kế hoạch đầu tư 2.2.2.1. Thực hiện công tác tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố trong việc ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện pháp luật đầu tư công Trong những năm qua, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh thực hiện tích cực công tác tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố trong việc lập Chủ trương và Kế hoạch đầu tư công trình Hội đồng nhân dân thành phố và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng đã tham mưu Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện lập điều chỉnh Kế hoạch đầu tư công linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tiễn. Qua đây cho thấy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong lĩnh vực đầu tư công đều căn cứ vào văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hành chính quy định về địa vị pháp lý, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Kế hoạch và đầu tư. 2.2.2.2. Thực hiện Kế hoạch đầu tư công trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh Việc thực hiện pháp luật đầu tư công của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh còn được thể hiện qua nội dung quan trọng là trực tiếp thực hiện hoặc phối hợp thực hiện hoạt động đầu tư công trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền như giao thông, y tế, giáo dục, cấp thoát nước, các dự án trọng điểm và có tính chất liên vùng… Nhiệm vụ này được xác định trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật quy định về đầu tư công và quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Có thể thấy, trong giai đoạn từ 2021 đến 2023, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực triển khai thực hiện Kế hoạch đầu tư công trong thẩm quyền và nhiệm vụ được giao. Điều này thể hiện sự quyết tâm của thành phố trong việc nỗ lực đạt được những mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tuy còn gặp nhiều khó khăn trong cơ chế, đặc biệt là tình hình giải ngân vốn, nhưng thực tiễn hoạt động đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần phát triển kinh tế xã hội tại địa phương và cả nước. 2.2.2.3. Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra và tổng kết đánh giá việc thực hiện pháp luật về đầu tư công Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh đã quán triệt và tích cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Việc thanh tra, kiểm tra và tổng kết được thực hiện thường xuyên, quyết liệt trong nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố. Trên cơ sở đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại đang mắc phải và xây dựng các giải pháp hoàn thiện nhằm cải thiện tình hình đầu tư công trong giai đoạn sắp đến. 2.3. Đánh giá chung về thực trạng thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư 2.3.1. Những kết quả đạt được Thứ nhất, việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công bảo đảm tuân thủ theo quy định của Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản hướng dẫn. Việc thực hiện đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư đều căn cứ trên những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; đặc biệt là trên cơ sở những quy định của pháp luật về đầu tư công mà trước hết là căn cứ vào Luật Đầu tư công năm 2019. Thứ hai, việc triển khai thực hiện đầu tư công trong những lĩnh vực được phân công tại Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2021 –2025 đã đạt nhiều thành tích nổi bật. Trong giai đoạn 2021 – 2025, Ủy ban nhân dân Thành phố trình Hội đồng nhân dân Thành phố quyết định chủ trương đầu tư 11 dự án mới, trong đó có 04 dự án sử dụng vốn ngân sách trung ương.Nhìn chung, các dự án khi 13
  17. trình cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư đều được thẩm định, đủ điều kiện quyết định chủ trương đầu tư dự án, đầy đủ các nội dung được quy định của Luật Đầu tư công và Nghị định 40/2020/NĐ- CP. Thứ ba, việc chấp hành quy định trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn và phân bổ vốn đầu tư công đáp ứng điều kiện được bố trí vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn quy định tại Luật Đầu tư công năm 2019 và các văn bản liên quan. Theo đó, việc chấp hành các quy định trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn; phân bổ vốn đầu tư công chi tiết cho từng dự án được Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh thực hiện bảo đảm đúng nguyên tắc, định hướng đã được quy định trong Luật Đầu tư công năm 2019, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 và các văn bản khác có liên quan. Đồng thời; việc thực hiện đầu tư công tại Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cũng phù hợp tại Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 và Nghị quyết số 30/NQ-HĐND ngày 25 tháng 6 năm 2021 của Hội đồng nhân dân Thành phố. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế 2.3.2.1. Những tồn tại về thực hiện pháp luật về đầu tư công của Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh Thứ nhất, tình hình giải ngân vốn đầu tư công từ ngân sách nhà nước chưa hiệu quả. Có thể thấy, việc giải ngân vốn trong những năm qua đều không đạt yêu cầu theo chỉ đạo của trung ương và lãnh đạo thành phố. Trong năm 2021, tỉ lệ giải ngân chỉ đạt 85,27% so với yêu cầu; riêng trong năm 2022, tỉ lệ này giảm còn 71,9% và tỉ lệ giải ngân trong năm 2023 (95%) chỉ là dự báo và cam kết hành động chứ chưa phải là kết quả từ thực tiễn thực hiện. Thứ hai, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa hiệu quả. Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các đơn vị chủ đầu tư trên địa bàn thành phố nhìn chung còn chậm so với tiến độ dự kiến, gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công và giải ngân của các dự án xây lắp liên quan. 2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế Một là, do sự bất cập trong các quy định của pháp luật về đầu tư công. Các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư còn nhiều bất cập dẫn đến thủ tục rườm rà và phức tạp, cụ thể là các vướng mắc trong việc xác định đối tượng được bồi thường, loại đất để tính bồi thường và các quy định pháp lý về sử dụng đất. Từ đó, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Hai là, do tình hình thu ngân sách nhà nước không đạt so với dự toán. Trong các năm 2021 và 2022, do ảnh hưởng nặng nề của dịch COVID, việc thu ngân sách của trung ương và thành phố Hồ Chí Minh gặp biến động. Từ đó, ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước nói chung và chi đầu tư công nói riêng. Ba là, do chi phí thực hiện dự án đầu tư công tăng cao đột biến. Dịch bệnh COVID xảy ra cùng với những xung đột quân sự, chính trị thế giới đã làm cho tình hình cung ứng nguyên vật liệu giảm mạnh; đồng thời giá nguyên vật liệu, giá nhân công và các chi phí khác tăng cao. Trong khi đó, các quy định của pháp luật chưa kịp thời điều chỉnh hoặc chưa có quy định hướng dẫn thực hiện ảnh hưởng đến kế hoạch thi công của nhà thầu (như quản lý chi phí, hợp đồng xây dựng...). Bốn là, do việc điều chỉnh chủ trương và kế hoạch đầu tư ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện đầu tư công. Việc điều chỉnh chủ trương và kế hoạch đầu tư phải tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật và được cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn thì dự án mới được tiếp tục thực hiện. Do đó, việc giải ngân vốn đầu tư 14
  18. trong các trường hợp phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, kế hoạch đầu tư bị chậm trễ; từ đó ảnh hưởng đến tiến độ chung của dự án. Năm là, một số dự án được sử dụng vốn ODA không thể giải ngân bất cập trong các quy định về thủ tục. Đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA, quy trình, thủ tục quản lý và sử dụng vốn ODA còn phức tạp; thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh dự án, thủ tục gia hạn, đàm phán, ký kết Hiệp định vay còn mất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện đầu tư công. Sáu là, do đặc thù công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là đầu năm Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố phân bổ vốn thì địa phương với có cơ sở triển khai, cho nên thường kéo dài và sẽ rơi vào cuối năm mới phê duyệt được giá làm cơ sở giải ngân, do đó vốn tập trung giải ngân vào cuối năm (quý 4 hằng năm). Từ đó, tình hình giải ngân để thực hiện dự án thường dồn vào các tháng cuối của năm và gây áp lực cho các tháng cuối năm. Bảy là, công tác quản lý của nhà nước về đầu tư công chưa hiệu quả. Với vai trò là cơ quan chuyên môn quản lý đầu tư công của Thành phố, Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng nhận định mặc dù đã được Sở tập trung, thường xuyên rà soát, đề xuất nhiều giải pháp để giao, phân bổ hết vốn đầu tư công năm 2022 cũng như nhiều giải pháp để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công nhưng nhìn chung việc tham mưu quản lý, điều hành, thực hiện Kế hoạch đầu tư công năm 2022 chưa đạt hiệu quả cao. Tám là, do việc chấp hành pháp luật của các chủ đầu tư chưa hiệu quả. Một số chủ đầu tư có thay đổi nhân sự dẫn đến có khó khăn trong công tác phối hợp giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Bên cạnh đó, vẫn còn một số chủ đầu tư đã có khối lượng thực hiện nhưng chưa hoàn tất thủ tục giải ngân với Kho bạc Nhà nước Thành phố. Ngoài ra, các chủ đầu tư chưa thực sự quan tâm đúng mực đến công tác kiến nghị, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc cố hữu của các dự án chuyển tiếp đã kéo dài nhiều năm dẫn đến nghịch lý “có tiền nhưng không “tiêu” được”. Chín là, chưa được sự đồng thuận và phối hợp của người dân vì các hộ dân được bồi thường khi thu hồi đất cho rằng giá bồi thường thấp so với thực tế. Một số hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không hợp tác với cơ quan chức năng; thậm chí trong một số trường hợp cơ quan chức năng không xác định được được người sử dụng đất nên phải áp dụng các biện pháp hành chính để thực hiện. Bên cạnh đó, công tác kiểm đếm đo đạc tốn nhiều thời gian cũng làm cho hoạt động đầu tư công tại thành phố chưa đạt hiệu quả. Tiểu kết chương 2 Với những nội dung đã được triển khai và phân tích trong chương 2, có thể nhận thấy rằng: Một là, thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh nói chung, tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Đặc biệt là Sở Kế hoạch và Đầu tư luôn thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư công như tăng cường công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố ban hành các văn bản về đầu tư công tại địa phương nhằm cụ thể hóa các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; chủ trì thực hiện đầu tư công trong nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; đôn đốc, phối hợp và hỗ trợ các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công. Hai là, tuy đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong việc thực hiện pháp luật về đầu tư công, thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhiều bất cập. Những tồn tại điển hình đã được Chương 2 của luận văn làm rõ trong thực tiễn thực hiện pháp luật của Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh tập trung vào các vấn đề như chậm trễ trong việc giải ngân vốn ngân sách nhà nước và vốn ODA 15
  19. hay những khó khăn trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng… đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện đầu tư công. Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Phương hướng bảo đảm thực hiện pháp luật về đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh 3.1.1. Bảo đảm nâng cao việc thực hiện pháp luật về đầu tư công Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Thứ hai, tăng cường triển khai nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về đầu tư công như: Một là, tăng cường công tác tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố và chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố trong việc ban hành văn bản chỉ đạo về thực hiện đầu tư công trên địa bàn. Hai là, tích cực ban hành các Dự thảo về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội dài hạn, trung hạn hay hằng năm, Dự thảo chương trình hành động thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong các lĩnh vực thuộc quản lý của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Ba là, tăng cường quản lý và điều hành đầu tư công trong các lĩnh vực được Ủy ban nhân dân thành phố giao (Giao thông; Y tế, Dân số và Gia đình; Giáo dục và Đào tạo; Cấp nước, thoát nước và Thủy lợi…). Bốn là, tăng cường công tác hỗ trợ, kiểm tra, giám sát các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các quận, huyện trên địa bàn thành phố xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chương trình, dự án kinh tế xã hội chung của thành phố đã được phê duyệt. 3.1.2. Phương hướng bảo đảm tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công Một là, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động cần tiến hành theo hướng tăng số lượng, chất lượng và kỹ năng xây dựng luật của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Hai là, củng cố, nâng cao đội ngũ trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc các bộ, Sở, ban ngành. Theo đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố cần có biện pháp nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ soạn thảo văn bản thực thi pháp luật về đầu tư công. Ba là, tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố đối với hoạt động soạn thảo, ban hành các Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Sở Kế hoạch và Đầu tư trong lĩnh vực đầu tư công trên địa bàn thành phố. Bốn là, nghiêm chỉnh rà soát quy định của pháp luật về đầu tư công và kịp thời kiến nghị bổ sung, sửa đổi những quy định còn bất cập, vướng mắc. Từ đó, nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện pháp luật về đầu tư công. Năm là, tăng cường kinh phí cho các hoạt động xây dựng pháp luật về đầu tư công trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói chung và tại Sở Kế hoạch và Đầu tư nói riêng. Sáu là, Sở Kế hoạch và Đầu tư tăng cường phối hợp với các Sở, ban, ngành, các trường đại học uy tín để tổ chức Hội nghị, Hội thảo khoa học tổng kết công tác xây dựng và thực hiện pháp luật về đầu tư công. 3.1.3. Phương hướng bảo đảm tính an toàn pháp lý khi thực hiện các dự án đầu tư công Trong thời gian tới, đầu tư công vẫn được xác định là nguồn lực quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Để nâng cao hiệu quả đầu tư công tại Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh, cần tập trung triển khai một số giải pháp trọng tâm sau: 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1