Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam khu vực miền Trung
lượt xem 6
download
Nội dung của luận văn gồm 3 chương được trình bày như sau: Lý luận về giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam; Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam khu vực miền Trung; Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam khu vực miền Trung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam khu vực miền Trung
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .............../ ............... ......../ ........ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA ĐỖ MẠNH THẮNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN Ở CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN TRUNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017 1
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ HUYÊN Phản biện 1: .................................................................. . ....................................................................................... Phản biện 2: .................................................................. . ....................................................................................... Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số:… - Đường…………… - Quận……………… - TP……………… Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2017 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia 2
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trại giam không chỉ là nơi thi hành các biện pháp trừng phạt người phạm tội mà còn mang một mục đích cao cả hơn là giáo dục cải tạo họ trở thành một công dân lương thiện, có ích cho xã hội. Do vậy, công tác giáo dục pháp luật trở thành mục tiêu và là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác quản lý và giáo dục phạm nhân của các trại giam. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam ở khu vực miền Trung, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nghiên cứu, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện về mọi mặt những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân để từ đó đưa ra một số biện pháp khác có hiệu quả. Đây là một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa về lý luận, thực tiễn và chính trị,thể hiện tính nhân đạo sâu sắc. Xuất phát từ lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam khu vực miền Trung” làm đề tài thực hiện luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận văn, tiêu biểu là: Sách chuyên khảo: “Bàn về giáo dục pháp luật” của Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005. Luận án tiến sĩ luật học: “Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam” của Ngô Văn Trù, Học viện chính trị quóc gia Hồ Chí Minh 2015. Luận án tiến sỹ xã hội học: “Vai trò giáo dục pháp luật đối với phạm nhân đang chấp hành tại các trại giam thuộc Bộ Công an”, Trường Đại học Khoa học, xã hội & nhân văn Hà Nội, 2014. Bài viết “Nâng cao tri thức pháp luật: một nội dung quan trọng của giáo dục pháp luật trong phòng ngừa tội phạm” của tác giả Hoàng Thị Bích Ngọc . - Tạp chí Khoa học Giáo dục Số 9, 2006. Bài viết “Đặc trưng của hoạt động giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam Việt Nam” của tác giả Ngô Văn Trù , Tạp chí Pháp luật và phát triển online, 2014. Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài có thể thấy các công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài còn khá ít. Riêng đối với các trại giam tại Miền Trung với những đặc thù riêng về điều kiện địa lý,vật chất và tình hình phạm nhân... vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục pháp luật cho phạm nhân. 3
- 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Đánh giá công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam ở khu vực miền Trung, ghi nhận những kết quả đạt được, chỉ ra những hạn chế bất cập, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tồn tại. Trên cơ sở đó luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho tại các trại tam giam khu vực Miền Trung. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, những nghiên cứu của luận văn càng nhằm góp phần bảo đảm quyền con người của phạm nhân, trang bị những kiến thúc cơ bản nhất của pháp luật, tạo điều kiện tốt cho phạm nhân tái hòa nhập cộng đồng. Khi họ chấp hành xong án phạt tù, để họ trở thành những công dân lương thiện, mẫu mực trong xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về hoạt động giáo dục pháp luật cho các phạm nhân như vai trò, các nguyên tắc, đặc trưng, các yếu tố cấu thành của hoạt động giáo dục pháp luật tại trại giam. Thứ hai, đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật trong các trại giam tại Miền Trung. Thứ ba, trên cơ sở phân tích các nguyên nhân của những bất cập, tồn tại, dựa trên định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho các trại giam Miền Trung nói trên và các trại giam trong cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Về không gian: luận văn nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật tại các trại giam ở khu vực Miền Trung. Về thời gian: nghiên cứu trong giai đoạn 2012 – 2016 (05 năm). Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác giáo dục pháp luật cho các phạm nhân tại các trại giam. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như: + Phương pháp phân tích: được sử dụng trong luận văn để phân tích các quy định pháp luật tại Chương 1 và phân tích các tình huống thực tiễn tại Chương 2 để làm căn cứ đưa ra các kết luận. 4
- + Phương pháp thống kê: được sử dụng trong luận văn để thống kê tình hình vi phạm pháp luật, các trường hợp tái phạm sau khi chấp hành xong hình phát tại trại giam. + Phương pháp quy nạp: sử dụng các kết quả nghiên cứu đã công bố để đưa vào luận văn của mình. + Phương pháp điều tra xã hội học: để thu thập các thông tin, nhằm đưa ra các luận cứ thuyết phục. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau: Về mặt lý luận: Trên cơ sở kế thừa những công trình khoa học đã công bố, luận văn đi sâu nghiên cứu về công tác giáo dục pháp luật trong các trại giam khu vực Miền Trung nhằm hệ thống hóa, phân tích, đánh giá các vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân. Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp cơ sở khoa học cho các nghiên cứu tiếp theo, góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống lý luận về giáo dục pháp luật cho nhóm đối tượng đặc biêt: các phạm nhân trong trại giam. Về mặt thực tiễn: Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, các cán bộ làm công tác quản lý và giáo dục phạm nhân trong trại giam nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn có ý nghĩa xã hội rất lớn trong việc góp phần giáo dục cải tạo phạm nhân, ngăn ngừa tình trạng tái phạm tội, giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng và trở thành người công dân tốt sau khi chấp hành xong hình phạt tù. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận về giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam khu vực miền Trung Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam khu vực miền Trung 5
- Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM 1.1. Khái niệm, đặc trƣng, vai trò của công tác giáo dục pháp luật tại các trại giam 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật tại các trại giam Trong ngành học thuật khoa học giáo dục, khái niệm giáo dục thường được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Giáo dục theo nghĩa rộng bao hàm tất cả những tác động xã hội đến cá nhân và trong mối quan hệ của cá nhân đó với các quan hệ xã hội nhằm làm hình thành, biến đổi và phát triển nhân cách của cá nhân. Quá trình giáo dục tổng thể được hiểu là một quá trình bao gồm nhiều quá trình giáo dục bộ phận tồn tại, vận động và phát triển trong sự thống nhất với nhau, đều hướng mục đích là làm cho người được giáo dục tự giác, chủ động, tích cực chiếm lĩnh các tri thức, giá trị, chuẩn mực xã hội; từ đó, hình thành và phát triển nhân cách phù hợp với mục đích giáo dục. Theo nghĩa hẹp, trong từ điển tiếng Việt, nhà xuất bản Đà Nẵng do tác giả Hoàng Phê biên soạn năm 2005: “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”. Theo nghĩa rộng, GDPL được coi là một bộ phận, một hệ thống con của hệ thống giáo dục nói chung, là một hoạt động có tính độc lập tương đối và có mối quan hệ tương hỗ với các hệ thống con khác, như kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức... tạo nên một hệ thống các quan hệ xã hội tác động đến cá nhân, làm hình thành nên bản chất lịch sử - xã hội của con người. Quan niệm GDPL này xuất phát từ nghĩa rộng nhất của thuật ngữ GDPL, đồng nhất GDPL với quá trình xã hội hóa cá nhân trong môi trường có sự tác động, điều chỉnh của pháp luật và các loại chuẩn mực xã hội khác. Nhân cách con người được hình thành và phát triển là do tác động, ảnh hưởng của tổ hợp các nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, lễ nghi... trong quá trình các cá nhân tham gia vào những quan hệ xã hội đó. Quan niệm GDPL theo nghĩa rộng này có hai ý nghĩa quan trọng: Một là, thấy được quá trình xã hội hóa cá nhân nói chung và GDPL nói riêng chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố xã hội khác nhau. Chủ thể giáo dục có thể chủ động khai thác, phát huy những yếu tố tích cực và hạn chế những ảnh hưởng xấu của các yếu tố tiêu cực. Hai là, không đồng nhất, không coi GDPL đã có hoặc được lồng ghép trong giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Theo nghĩa hẹp, GDPL là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch mà chủ thể GDPL vạch ra 6
- nhằm chuyển tải, truyền đạt những nội dung pháp luật nhất định tới đối tượng giáo dục dựa trên những phương pháp giáo dục khoa học và bằng những hình thức giáo dục phù hợp; qua đó, hiện thực hóa những mục tiêu, nhiệm vụ GDPL nhất định. Cách diễn đạt có thể khác nhau, song đa số các định nghĩa về GDPL đều tiếp cận theo nghĩa hẹp nói trên. Có nhiều định nghĩa về GDPL đã được các nhà nghiên cứu đưa ra, đề cập ở những mức độ khác nhau nội hàm của khái niệm; tác giả luận văn đồng tình với định nghĩa sau đây: Từ đó, có thể coi giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua những phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể giáo dục pháp luật, tác động đến đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật nhằm làm hình thành và phát triển ở họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật; làm hình thành tình cảm, thói quen và hành vi xử sự tích cực theo pháp luật. Như vậy, theo quan điểm cá nhân tác giả có thể định nghĩa: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam là hoạt động có mục đích, có tổ chức, tuân theo kế hoạch, chương trình nhất định; được các trại giam triển khai thực hiện thông qua các phương pháp đặc thù và bằng những hình thức phù hợp, hướng tới trang bị cho phạm nhân những thông tin, kiến thức pháp luật về các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung, các nội dung pháp luật cụ thể liên quan đến quá trình chấp hành án phạt tù trong trại giam nói riêng; làm hình thành ở phạm nhân tri thức, hiểu biết pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo phạm nhân; giúp họ có khả năng tái hòa nhập cộng đồng, biết sống và làm việc theo pháp luật sau khi mãn hạn chấp hành án phạt tù. 1.1.2. Đặc trưng của giáo dục pháp luật cho phạm nhân Thứ nhất, GDPL cho PN trong các TG là dạng hoạt động giáo dục được thực hiện thông qua sự tương tác giữa chủ thể GDPL và đối tượng tiếp nhận GDPL; là hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch, tuân theo những nội dung GDPL cụ thể được chủ thể GDPL xây dựng dành riêng cho đối tượng PN đang chấp hành án phạt tù trong các TG, dựa trên các phương pháp và thông qua những hình thức GDPL phù hợp với điều kiện của từng TG cũng như phù hợp với đặc điểm tình hình PN trong các TG. Thứ hai, GDPL cho PN trong các TG là hoạt động giáo dục diễn ra trong một môi trường đặc biệt và dành cho những đối tượng đặc biệt 7
- Thứ ba, điểm khác biệt cơ bản so với GDPL cho các đối tượng khác thể hiện ở chỗ, GDPL cho PN trong các TG là quá trình hoạt động diễn ra theo cơ chế/mô hình “vừa xây, vừa chống”. Thứ tư, nhìn bề ngoài, có thể nhiều người cho rằng hoạt động GDPL cho PN trong các TG có nhiều điều kiện thuận lợi, dễ thực hiện hơn so với GDPL cho các đối tượng khác vì hoạt động này diễn ra trong một môi trường đặc biệt là TG - nơi mà việc học tập pháp luật là bắt buộc đối với mỗi PN; quan hệ quản lý từ phía chủ thể GDPL đối với PN là quan hệ mang tính chất mệnh lệnh - phục tùng; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ GDPL cho PN được Nhà nước đầu tư.v.v. Quan niệm đó đúng, nhưng mới chỉ phản ánh được một phần đặc điểm, tính chất của GDPL cho PN trong các TG và nếu chỉ nhìn nhận dưới góc độ chủ thể GDPL thực hiện cho xong nhiệm vụ được giao, không cần tính đến chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trên thực tế, để có thể bảo đảm chất lượng, hiệu quả thực sự thì GDPL cho PN trong các TG lại là hoạt động không kém phần khó khăn, phức tạp và chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố chủ quan (ý thức trách nhiệm, năng lực tổ chức, thực hiện của chủ thể GDPL; trình độ học vấn, khả năng tiếp nhận kiến thức pháp luật của các PN; các nhân tố tâm lý) và các yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế; môi trường giáo dục cải tạo, lao động, sinh hoạt trong TG; chính sách và thực hiện chính sách của Nhà nước đối với PN...). Điều đó giúp giải thích tại sao trong cùng điều kiện, hoàn cảnh như nhau, có thể hoạt động GDPL cho PN ở TG này thì diễn ra chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao; còn ở TG khác lại thụ động, cầm chừng và kém hiệu quả. Thứ năm, kết quả, đồng thời là thước đo đánh giá hiệu quả của hoạt động GDPL cho PN trong các TG là những mục tiêu cụ thể mà hoạt động này cần đạt được. Đó là mục tiêu về nhận thức (PN tiếp thu, tích lũy được những thông tin, kiến thức pháp luật cơ bản phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp hành án phạt tù cũng như sau khi trở về hòa nhập cộng đồng); mục tiêu về thái độ, tình cảm (làm hình thành ở PN sự ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội trước đây; có thái độ tôn trọng pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ nội quy, quy chế TG; có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật...); mục tiêu về hành vi (giúp PN có khả năng vận dụng kiến thức pháp luật tiếp thu được qua việc học tập pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của PN trong quá trình chấp hành án phạt tù; xây dựng, củng cố hành vi pháp luật tích cực, lối sống theo pháp luật sau khi chấp hành xong án phạt tù). 1.1.3. Vai trò giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại trại giam Một là, hoạt động giam giữ, cải tạo, giáo dục phạm nhân, người vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành 8
- vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hai là, cách ly người phạm tội để có điều kiện thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ về tội phạm phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi phạm nhân, người vi phạm pháp luật là những người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Ba là, giáo dục cải tạo để phạm nhân, người vi phạm pháp luật nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội. 1.2. Các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục pháp luật trong các trại giam ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Các nguyên tắc giáo dục pháp luật - Một là, đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật. - Hai là, đảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản. 1.2.2. Nội dung giáo dục pháp luật Những nội dung GDPL cho PN nêu trên được thể hiện trong Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập do Tổng cục VIII phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo) biên soạn, mỗi tập đều có phần GDPL với những nội dung cụ thể: Nội dung GDPL trong Tập I gồm: 1) Chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đối với người phạm tội; 2) Một số nội dung cơ bản của Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế TG; 3) Tôn trọng Nội quy TG; 4) Quyền và nghĩa vụ của PN. Nội dung GDPL trong tập II gồm: 1) Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; 2) Quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; 3) Quyền sở hữu tài sản và nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản của công dân, của Nhà nước và lợi ích công cộng; 4) Nghĩa vụ công dân trong việc bảo vệ môi trường; 5) Phòng chống tệ nạn xã hội; 6) Phòng chống HIV/AIDS và các bệnh tuyền nhiễm; 7) Một số nội dung cơ bản của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự; 8) Một số nội dung cơ bản của Luật Đặc xá. Ngoài 8 nội dung GDPL bắt buộc cho PN nêu trên còn có phần tự chọn, linh hoạt: một số vấn đề cơ bản của Luật 9
- Giao thông đường thủy nội địa; pháp luật và chính sách của Nhà nước về tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc; quyền trẻ em; quyền phụ nữ. Nội dung GDPL ở tập III gồm: 1) Giữ gìn trật tự an toàn xã hội; 2) Giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ; 3) Một số nội dung cơ bản của Luật Cư trú; 4, Quyền và nghĩa vụ công dân trong hôn nhân, gia đình. 1.2.3. Hình thức giáo dục pháp luật Hình thức tổ chức thành các lớp học tập trung tại hội trường; Hình thức cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật cho phạm; Hình thức niêm yết thông tin pháp luật tại bảng tin của trại/phân trại, ở buồng giam phạm nhân; Hình thức giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, pa - nô, áp - phích, tranh cổ động. Hình thức GDPL cho PN trong các TG là những mô hình tổ chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ thể mà thông qua đó, chủ thể thực hiện hoạt động GDPL cho PN. Với cách tiếp cận này, có thể đưa ra định nghĩa hình thức GDPL cho PN trong các TG ở Việt Nam như sau: hình thức GDPL cho PN trong các trại giam là tập hợp các mô hình tổ chức triển khai thực hiện, những cách làm cụ thể, đa dạng khác nhau; thông qua đó, chủ thể giáo dục pháp luật chuyển giao các nội dung giáo dục pháp luật cho phạm nhân; hướng tới đạt được mục đích, mục tiêu giáo dục pháp luật cho đối tượng này. 1.2.4. Phương pháp giáo dục pháp luật - Để GDPL nhằm hình thành, củng cố ý thức pháp luật cho PN, có thể sử dụng các phương pháp GDPL sau: + Phương pháp thông tin pháp luật: + Phương pháp tuyên truyền, giải thích pháp luật + Phương pháp nói chuyện, trao đổi về pháp luật: + Phương pháp nêu gương điển hình + Phương pháp tạo dư luận xã hội trong PN để GDPL: + Phương pháp giảng dạy pháp luật trên hội trường, trong lớp học: - Để GDPL làm hình thành kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử phù hợp với các quy định pháp luật, nội quy, quy chế TG... cho PN, chủ thể GDPL có thể dùng các phương pháp GDPL sau: + Phương pháp nêu các yêu cầu pháp luật: + Phương pháp tạo tình huống pháp luật: + Phương pháp rèn luyện, thực hành pháp luật: Chủ thể GDPL tổ chức cho PN rèn luyện, thực hành vận dụng những kiến thức pháp luật, nội quy, quy chế đã được học vào môi trường thực tế trong TG; qua đó, giúp PN biết cách lựa chọn và thực hiện những 10
- hành vi đúng đắn, phù hợp với quy định pháp luật về thi hành án hình sự. 1.3. Các điều kiện bảo đảm cho công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân 1.3.1. Từ phía Nhà nước Hiện nay, kinh phí phục vụ các mặt hoạt động của các TG, trong đó có GDPL cho PN, chủ yếu lấy từ nguồn ngân sách nhà nước và được bảo đảm trong dự toán kinh phí hàng năm của Bộ Công an. 1.3.2. Từ phía các trại giam Mọi hoạt động của TG hầu như phụ thuộc vào nguồn kinh phí được phân bổ từ ngân sách nhà nước. Là cơ quan thi hành án phạt tù, TG có một trong những nhiệm vụ là tiếp nhận, tổ chức quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân, bao gồm cả công tác GDPL cho PN. 1.3.3. Về phía đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giáo dục pháp luật Điều kiện kinh tế cũng có tác động quan trọng tới những cán bộ trực tiếp làm công tác GDPL cho PN. Kinh tế phát triển, đời sống vật chất được cải thiện và nâng cao, đội ngũ CBGDPL có điều kiện tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, tự trang bị thêm thông tin, kiến thức pháp luật mới; đầu tư thời gian, công sức để soạn bài, xây dựng giáo án điện tử, chuẩn bị các bài tập trắc nghiệm, tình huống pháp lý thực tiễn trước khi lên lớp giảng bài cho PN, tạo ra những giờ giảng hấp dẫn, lý thú, thu hút PN. 1.3.4. Về phía phạm nhân trong các trại giam Phạm nhân là những người tham dự và thụ hưởng thành quả công tác GDPL dành cho họ cả trong quá trình chấp hành án phạt tù cũng như sau khi mãn hạn tù, trở về với đời sống cộng đồng. Điều kiện kinh tế, đời sống vật chất trong TG có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động học tập pháp luật của họ. Việc Nhà nước, lãnh đạo TG quan tâm đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở vật chất của TG ngày càng tiện nghi, đầy đủ hơn chính là nhằm bảo đảm cho cuộc sống, lao động, học tập, sinh hoạt của PN. Với điều kiện kinh tế gia đình khá giả, thân nhân có điều kiện định kỳ thăm gặp, hỗ trợ thêm kinh phí, khích lệ, động viên tinh thần PN sẽ giúp họ yên tâm tư tưởng, phấn đấu học tập, cải tạo tốt. Còn điều kiện kinh tế gia đình không cho phép, người thân ít có cơ hội thăm gặp PN thì dễ khiến họ rơi vào trạng thái tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến tinh thần học tập pháp luật. Tiểu kết chương 1 11
- CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬTCHO PHẠM NHÂN TẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN TRUNG 2.1. Khái quát chung về các trại giam khu vực Miền Trung 2.1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên - địa lí và cơ sở vật của các trại giam khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật cho các phạm nhân Về vị trí địa lý: Về khí hậu: Tài nguyên đất: Tài nguyên biển: 2.1.2. Tình hình phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam khu vực miền Trung ảnh hưởng đến công tác giáo dục pháp luật Hiện tại, theo nghiên cứu của tác giả, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu và công bố số liệu liên quan đến tình hình phạm nhân ở miền Trung. Để có được các số liệu chính xác, tác giả đã thực hiện điều tra vào tháng 3 năm 2017, phát phiếu khảo sát nhằm thu thập thông tin. Kết quả điều tra, thu thập thông tin được ghi rõ tại Phần Phục Lục của Luận văn này. Những năm gần đây tình trạng phạm tội có những diễn biến phức tạp, số lượng người có án phạt tù đưa đến các trại giam chấp hành án với hành vi, tính chất phạm tội cũng nguy hiểm hơn (Vì theo quy định của ngành nên tác giả chỉ đưa số liệu tỷ lệ % không đưa số tuyệt đối, ngoài những số liệu đã công khai). Số lượng người bị kết án phạt tù vào trại giam năm sau cao hơn năm trước, nếu lấy năm 2013 là 100,0% thì năm 2016 tỷ lệ phạm nhân nhân trại giam tăng lên 127,0%. Sự biến động số lượng phạm nhân sẽ là khó khăn, thách thức đối với trại giam trong công tác tổ chức giáo dục pháp luật cho phạm nhân; gây áp lực về cơ sở vật chất phục vụ giáo dục pháp luật; về đội ngũ cán bộ giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu giáo dục pháp luật do sự gia tăng số lượng phạm nhân trong từng trại. Giới tính: thực tế trong công tác quản lý trại giam cho thấy phạm nhân là nam giới đông: năm 2013 phạm nhân nam chiếm tỷ lệ 87,4%, phạm nhân nữ là 12,6%; năm 2016 tỷ lệ phạm nhân nam chiếm 85,91%, phạm nhân nữ là 14,09%. Cũng qua nghiên cứu 50 hồ sơ phạm nhân nữ (tháng 3/2012) có 40% phạm nhân tội trộm cắp; 13% phạm nhân tội giết người; 16,6% phạm nhân phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; 10% phạm nhân phạm tội buôn bán phụ nữ; 6,6% phạm nhân phạm tội buôn bán và sử dụng chất ma túy; 6,6% phạm nhân phạm tội tham ô tài sản; 7,2% phạm nhân phạm tội khác. 12
- Từ thực tế công tác quản lý và theo các số liệu thống kê hàng năm cho thấy số lượng phạm nhân nữ đưa vào trại trong các năm gần đây có xu hướng tăng, kéo theo rất nhiều phức tạp trong công tác quản lý, giam giữ và bố trí lao động cải tạo (số phạm nhân nữ được giam khu vực riêng; nhiều trường hợp phạm nhân nữ có thai, sinh con, nuôi con trong trại giam,...). Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc tổ chức và thực hiện các chế độ chính sách đối với họ, việc bố trí cải tạo lao động cho họ cũng rất khó khăn và có thể ảnh hưởng đến quyền lợi mà họ được hưởng. Đặc điểm lứa tuổi: thực tế cho thấy trong tổng thể phạm nhân ở các trại giam, phạm nhân ở độ tuổi sung sức để lao động chiếm số đông, nhưng do động cơ phạm tội, họ đã vi phạm pháp luật phải vào trại. Qua khảo sát năm 2013 số lượng phạm nhân nói trên ở các trại giam cho thấy lứa tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm 0.05 %; từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chiếm 0.97%; từ 18 tuổi đến dưới 30 tuổi chiếm 47.2%; từ 30 tuổi đến dưới 40 tuổi chiếm 28,2%; từ 40 tuổi đến dưới 50 tuổi chiếm 16,3%; từ 50 tuổi đến dưới 60 tuổi chiếm 6.0%; từ 60 tuổi trở lên 1,0%. Cũng qua số liệu trên cho thấy ở lứa tuổi thanh niên chiếm đa phần, đặc điểm ở lứa tuổi này dễ bị kích động, lôi kéo rủ rê, bên cạnh đó về nghề nghiệp lại không có hoặc có nhưng không ổn định, lười biếng lao động cộng với tính hiếu thắng ngông cuồng, thích đua đòi ăn chơi, hưởng lạc dẫn đến vi phạm pháp luật. Về phạm nhân đa số trong độ tuổi lao động chiếm đến trên 92%, về trình độ văn hóa nếu tính trong 5 năm qua: có 428/2.459 phạm nhân mù chữ, chiếm tỉ lệ 17,4%; tiểu học: có 636/2.459 chiếm tỉ lệ 25,3%; trung học cơ sở: có 446/2.459 phạm nhân, chiếm tỉ lệ 19.8%; trung học phổ thông trở lên: có 208/2.459 phạm nhân, chiếm tỉ lệ 8,4%. Trong công tác quản lý phạm nhân, việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém nhất định như: Số lượng cộng tác viên bí mật (CTVBM) còn ít (thời điểm cao nhất là 06 cơ sở bí mật – năm 2016) chưa đủ để bố trí trong tất cả các buồng giam, tổ, đội phạm nhân, hiệu quả hoạt động của một số CTVBM còn hạn chế. Công tác khai thác phạm nhân còn quá ít, cá biệt có trường hợp bị đối tượng nghi ngờ, cô lập, không phát huy được tác dụng hoặc bị khống chế, lợi dụng cung cấp thông tin sai sự thật. Thời gian chấp hành án của số phạm nhân được giữ lại phân trại rất ngắn nên việc xây dựng và sử dụng CTVBM cũng gặp rất nhiều khó khăn. Hoạt động kiểm soát công khai thường xuyên (kiểm tra, soát xét thân thể, thư, quà… khi xuất, nhập trại) hiệu quả còn thấp, chưa có máy móc, công cụ, phương tiện hỗ trợ phát hiện vật cấm do thân nhân phạm nhân gửi vào. Do vậy, trong những năm qua nhiều trường hợp phạm nhân lợi dụng sự sơ hở để mang vật cấm như: 13
- thuốc lá, tiền mặt… vào buồng giam, khu giam. Thống kê cho thấy trong thời gian từ 2005 đến 2015 đã có 248 lượt phạm nhân bị xử lý kỷ luật, trung bình có trên 24 lượt phạm nhân vi phạm/1 năm. Đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp: Kết quả khảo sát số lượng phạm nhân ở các trại giam cho thấy số phạm nhân có nghề nghiệp làm ở các công ty nhà nước chiếm 14,3%, số người làm ruộng chiếm 8%, số làm ăn tự do chiếm 71,9%. Trong số làm ăn tự do thì một số lớn có nghề thuộc loại lao động giản đơn hoặc lao động phổ thông, công việc không ổn định, thu nhập thấp không đáp ứng được nhu cầu vật chất của cuộc sống. Số còn lại (loại không có nghề nghiệp) thì lười biếng, cuộc sống chỉ dựa dẫm vào người khác nhưng lại muốn có nhiều tiền ăn tiêu. Số này vào trại giam rất khó bố trí công việc, bên cạnh đó vì thói quen lười nhác không muốn lao động nên thường trốn tránh lao động bằng nhiều thủ đoạn và bịa ra các lý do khác nhau để xin nghỉ lao động. Vì vậy trên phương diện giáo dục cải tạo cần tổ chức dạy nghề, tổ chức lao động cho phạm nhân, một mặt tạo thói quen lao động, mặt khác giúp họ có nghề nghiệp biết làm việc để khi hết hạn tù trở về gia đình, cộng đồng xã hội tự làm ăn sinh sống, không tái phạm. Công tác giáo dục phạm nhân, đơn vị đã triển khai thực hiện tốt quy định của pháp luật và nội dung giáo dục của Tổng cục Thi hành án Hình sự và Hỗ trợ tư pháp (THAHS&HTTP), những năm qua đã tổ chức các lớp học đầu vào, đầu ra và tổ chức các lớp học theo chương trình, kế hoạch chung của Tổng cục THAHS&HTTP và Công an tỉnh hướng dẫn. Tuy nhiên, trong công tác giáo dục phạm nhân việc áp dụng công tác vận động quần chúng còn những khó khăn hạn chế như: địa bàn trại tiếp giáp nhiều nhà trọ, công ty, xí nghiệp, với số đông công nhân, người ở trọ là những người nhập cư đến từ những địa phương khác nên gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục họ kết hợp phòng chống sự lôi kéo móc nối của phạm nhân với đối tượng bên ngoài (chủ yếu là người thân hoặc đồng bọn đã ra trại) để thực hiện các hành vi vi phạm (năm 2014 đã bắt được 5 vụ phạm nhân câu kết với người thân cất giấu điện thoại di động, thuốc lá, thuốc tân dược vào khu vực lao động để sử dụng). Mặt khác, trách nhiệm quản lý của chính quyền địa phương đôi lúc còn lỏng lẻo, sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của các chủ nhà trọ và ban lãnh đạo của các công ty, xí nghiệp khiến cho tình hình an ninh trật tự ở địa bàn xung quanh khu vực trại luôn phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý, giáo dục phạm nhân; trại chưa có thư viện, phòng đọc sách báo chuyên dụng. Việc tổ chức giáo dục dạy nghề và định hướng nghề nghiệp cho phạm nhân chưa triển khai thực hiện được do tính chất công việc của số phạm nhân được giữ lại chủ yếu là phục vụ vệ sinh, sửa chữa và giúp việc trong 14
- công tác quản lý can phạm. Trong công tác tổ chức ăn, mặc, ở, khám chữa bệnh, thực hiện chế độ, chính sách cho phạm nhân được bố trí ở trong 11 buồng giam tập thể; diện tích nằm trung bình của mỗi phạm nhân là 1,5 m2. 2.2. Đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật cho phạm nhân tại các trại giam khu vực Miền Trung 2.2.1. Những thành tựu đạt được 2.2.1.1. Nâng cao nhận thức pháp luật 2.2.1.2. Phạm nhân nhận thức được tội lỗi của mình gây ra “Khi mới đến qua học tập tôi nhận thức pháp luật thi hành án hình sự, 50 điều nội quy trại giam, 4 tiêu chuẩn thi đua chấp hành án, 20 điều nếp sống văn hoá mới, 8 chỉ tiêu thi đua, cùng tất cả các quy định đối với phạm nhân thể hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước là nhân đạo là tạo điều kiện thuận lợi cho người phạm tội cải tạo để trở thành người công dân tốt. Tuy nhiên phương hướng cải tạo của tôi là không cải tạo chỉ chờ pháp luật công minh xem xét bản án oan sai để sớm trả lại công lý và công bằng cho tôi theo đúng chính sách pháp luật của Nhà nước”. (Một Nam phạm nhân trong cuộc khảo sát của tác giả). 2.2.1.3. Hình thành ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của phạm nhân Ý thức trách nhiệm bắt đầu từ việc chăm lo sức khỏe, trau dồi tri thức cho bản thân, cho đến thực hiện các hành vi của mình theo đúng chuẩn mực đạo đức xã hội, rồi từ đó thực thi nghĩa vụ và trách nhiệm một cách tự nguyện. Từ những việc tưởng chừng là đơn giản như vậy nhưng đã góp phần xây dựng được ý thức trách nhiệm với trại giam nói riêng và xã hội nói chung. 2.2.2. Một số vấn đề đang đặt ra trong công tác giáo dục pháp luật tại các trại giam khu vực miền Trung Thứ nhất, khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án hình sự quy định “Phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học văn hoá, học nghề”. Theo tinh thần đó, việc học pháp luật (GDPL) phải được đặt ngang hàng với giáo dục công dân. Tuy nhiên, theo chương trình hiện hành thì nội dung GDPL cho PN chỉ là một chủ đề thuộc nội dung giáo dục công dân. Thứ hai, trong Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” gồm 3 tập nêu trên, mỗi tập đều gồm 3 chủ đề là giáo dục đạo đức, GDPL và giáo dục kỹ năng sống với số tiết giảng được phân bổ còn nhiều bất cập. Ngoài ra, trong tập II còn dành 4 bài (7 tiết) cho phần tự chọn, linh hoạt thuộc nội dung giáo dục đạo đức và 4 bài (7 tiết) cho phần tự chọn, linh hoạt thuộc nội dung GDPL. Trong 3 nhóm nội dung ở 3 tập tài liệu nói trên, nội dung GDPL luôn được dành số trang nhiều nhất. Ví dụ, tập II có 183 trang thì nội dung giáo dục đạo 15
- đức gồm 53 trang, nội dung GDPL gồm 106 trang và nội dung giáo dục kỹ năng sống gồm 24 trang; suy ra, nội dung GDPL chiếm 57.92% dung lượng trang của tập II. So sánh giữa số tiết dành cho GDPL với số lượng trang dành cho nội dung GDPL thì dễ dàng nhận thấy phần GDPL là quá nặng đối với cả người dạy và người học; nói đúng hơn, số tiết dành cho mỗi phần đều ít so với nội dung cần truyền đạt cho PN. Từ đây, khó tránh khỏi tình trạng dạy và học theo kiểu hình thức, đối phó cho xong chương trình mà không chú trọng tới chất lượng, hiệu quả học tập của PN. Thứ ba, nhiều nội dung GDPL trong tập I liên quan đến Pháp lệnh Thi hành án phạt tù và Quy chế TG, quyền và nghĩa vụ của PN không còn phù hợp sau khi Luật Thi hành án hình sự và Nghị định số 117/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành. Trong khi chờ đợi Tổng cục VIII tổ chức biên soạn lại Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” mới, nếu đội ngũ CBGDPL của các TG không chủ động, linh hoạt trong cập nhật thông tin, không tự giác biên soạn lại bài giảng theo các văn bản QPPL mới thì sẽ dẫn đến việc truyền đạt cho PN những thông tin, kiến thức pháp luật đã lạc hậu, lỗi thời. Thứ tƣ, vì nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, một số TG ở nước ta chưa tổ chức được các lớp GDPL cho số PN đang chấp hành án phạt tù trong TG theo những nội dung GDPL quy định tại Tập II “Giáo dục công dân”; nhiều PN, do đó, cũng chưa được học tập những nội dung pháp luật này. Đây là sự thiệt thòi đối với PN trong quá trình chấp hành án phạt tù; những TG đó, bởi vậy, cũng chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao nếu không nói là chưa thực hiện đúng quy định pháp luật về GDPL cho PN. Thứ năm, tài liệu học tập pháp luật dành cho PN hiện cũng rất ít, số lượng bản photocopy Bộ tài liệu “Giáo dục công dân” trong thư viện, tủ sách, của các TG hiện không đáng kể, đồng nghĩa với việc nhiều PN không được phát tài liệu học tập, phải dùng chung tài liệu học tập cùng PN khác. Thứ sáu, đặc điểm tình hình PN trong các TG ở Việt Nam cho thấy nổi lên sự khác biệt về cơ cấu các tội danh giữa các TG đứng chân trên những khu vực, địa bàn khác nhau (chẳng hạn, tại các trại giam ở khu vực miền núi phía Bắc Trung Bộ tỷ lệ phạm nhân phạm các tội về ma túy chiếm tỷ lệ cao tới 63.13%); khác biệt về đặc điểm nhân thân (phạm tội lần đầu, đã có tiền án...); khác biệt về cơ cấu giới tính, lứa tuổi, thành phần dân tộc... Tiểu kết chương 2 16
- Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO PHẠM NHÂNTẠI CÁC TRẠI GIAM KHU VỰC MIỀN TRUNG 3.1. Quan điểm, chính sách chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc về công tác giáo dục pháp luật cho các phạm nhân tại trại giam khu vực miền Trung Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội; bởi vậy, hoạt động GDPL nói chung, GDPL cho các đối tượng xã hội cụ thể nói riêng phải luôn bám sát quan điểm, đường lối và gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm, coi trọng GDPL cho các tầng lớp nhân dân, cho từng nhóm đối tượng xã hội vì GDPL là biện pháp hữu hiệu để đưa thông tin, kiến thức pháp luật đến với nhân dân nói chung, đội ngũ CBCC, viên chức nói riêng; mặt khác, khẳng định Nhà nước ta luôn đảm bảo tôn trọng quyền con người, quyền công dân, mọi người đếu bình đẳng trước pháp luật. Nghị quyết Đại hội VI đã xác định: “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật... Cán bộ quản lý các cấp, từ trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật”. Mục tiêu của công tác GDPL được Đảng ta xác định: “Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. Chủ thể, hình thức GDPL cũng đã được Đảng ta đề cập rất cụ thể trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật. Huy động các lực lượng đoàn thể, chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan nhà nước và xã hội. 3.2. Các nguyên tắc cơ bản trong giáo dục pháp luật Thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về giáo dục pháp luật cho phạm nhân: đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ đã có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt 17
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi phạm nhân phải tuyệt đối chấp hành các quy định pháp luật về nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức và thời lượng giáo dục pháp luật mà chủ thể giáo dục đã xây dựng và triển khai dành riêng cho phạm nhân đang chấp hành án phạt tù trong các trại giam; phải có tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm cao trong việc học tập pháp luật để vừa vận dụng, phục vụ trực tiếp cho quá trình chấp hành án phạt tù, vừa chuẩn bị hành trang kiến thức pháp luật để tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý nghiêm khắc và đối xử nhân đạo với phạm nhân: Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục. Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Nguyên tắc phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan hữu quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân Công tác giáo dục pháp luật không chỉ là trách nhiệm của cá nhân, cơ quan hay đơn vị chức năng, mà còn là trách nhiệm chung của toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên: Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội, nhà trường, gia đình và sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa trại giam, các cơ quan hữu quan, gia đình phạm nhân và bản thân mỗi phạm nhân Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với giáo dục công dân, dạy văn hóa: phạm nhân phải học pháp luật, giáo dục công dân và được học văn hoá, học nghề. Phạm nhân chưa biết chữ phải học văn hoá để xoá mù chữ. Phạm nhân là người nước ngoài được khuyến khích học tiếng Việt. Việc quán triệt quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục pháp luật cho phạm nhân với giáo dục công dân, dạy văn hóa và dạy nghề cho họ là nhằm bảo đảm tính đồng bộ, hài hòa và hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam. 3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giáo dục pháp luật tại các trại giam 3.3.1. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy hướng dẫn tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho phạm nhân Nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân đảm bảo hiện thực hóa mục đích của hình phạt, Nhà nước, các cơ quan chức năng cần xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm 18
- pháp luật, trong đó có các quy định cụ thể về chủ thể, nội dung, hình thức giáo dục pháp luật cho phạm nhân theo quy định của pháp luật. Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm về phổ biến, giáo dục pháp luật cần: Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật; Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; Bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật; Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật; Thống kê, tổng kết về phổ biến, giáo dục pháp luật; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong phổ biến, giáo dục pháp luật; Hợp tác quốc tế về phổ biến, giáo dục pháp luật. Thứ hai, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần đề cập đến nội dung chính sau: Những thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và của địa phương; những chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước liên quan đến phạm nhân và tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong án phạt tù; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, pháp luật; Quyền và nghĩa vụ của phạm nhân được quy định trong Luật Thi hành án hình sự; Luật đặc xá và các văn bản hướng dẫn thi hành khác; Quy định về tội phạm, hình phạt, về hoãn, tạm đình chỉ, miễn, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, về đặc xá, xóa án tích và những nội dung cơ bản, cần thiết khác được quy định trong các Nghị quyết của Quốc hội, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Cư trú, Luật Giáo dục, Luật Giao thông đường bộ, Luật Giao thông đường thủy nội địa, Luật Dạy nghề, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đặc xá, Luật Phòng, chống ma túy, Luật Phòng, chống vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Nội quy trại giam và các quy định về tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù, xếp loại chấp hành án phạt tù; Những quy tắc cơ bản về nếp sống trật tự, văn minh trong trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; Các chuẩn mực đạo đức xã hội trong các mối quan hệ với bản thân, với người khác, với công việc, với gia đình và cộng đồng; Các kỹ năng sống cơ bản, cần thiết đối với phạm nhân trong quá trình chấp hành án phạt tù và tái hòa nhập cộng đồng; 19
- 3.3.2. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra, thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân Kiểm tra, giám sát (KTGS) là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng; đồng thời, là biện pháp cơ bản, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên (CB,ĐV) quản lý trại giam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với việc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, công tác KTGS và thi hành kỷ luật Đảng (THKLĐ) luôn được bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho phù hợp với yêu cầu của công tác xây dựng Đảng và rèn luyện đội ngũ CB,ĐV. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa X) đã bổ sung hai nội dung quan trọng về công tác KTGS và THKLĐ. Thứ nhất, cấp ủy và ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp được giao nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Thứ hai, tăng thẩm quyền thi hành kỷ luật của chi bộ đối với đảng viên. Mục đích của công tác KTGS và THKLĐ là nhằm xây dựng các tổ chức đảng và đội ngũ CB,ĐV trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao. Trong đó, giám sát là việc làm thường xuyên, liên tục để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các vi phạm ngay từ lúc manh nha. Cùng với giám sát, kiểm tra là để làm rõ đúng, sai, kết luận và xử lý các vi phạm; trên cơ sở đó, cấp ủy xem xét, thi hành kỷ luật theo đúng nguyên tắc, quyền hạn và mức độ vi phạm, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của CB,ĐV. Công tác KTGS và THKLĐ luôn đi liền và hỗ trợ lẫn nhau, bám sát nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời những sai phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và CB,ĐV, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng. 3.3.3. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, nguồn nhân lực phục vụ công tác giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam Trong thời gian qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý của Nhà nước.Tuy nhiên, hiện nay công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam đang bộc lộ một số tồn tại, dẫn đến trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận cán bộ quản lý trại giam còn hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng trên là: Nhận thức chung của xã hội về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại trại giam chưa tương 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 421 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 305 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 330 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 114 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 99 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 232 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 199 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn