intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Chia sẻ: Hàn Nguyệt | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

165
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Từ đó đưa ra những điểm bất cập hạn chế của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và đưa ra một số ý kiến nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT         NGUYỄN TÀI DƯƠNG HËU QU¶ PH¸P Lý CñA VIÖC HñY H¤N NH¢N TR¸I PH¸P LUËT THEO LUËT H¤N NH¢N Vµ GIA §×NH N¡M 2014 Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
  2. HÀ NỘI ­ 2016
  3. Công trình được hoàn thành  tại Khoa Luật ­ Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ Phản biện 1: ......................................................................     Phản biện 2: ......................................................................     Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp  tại Khoa Luật ­ Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi .... giờ ...., ngày .....  tháng .....  năm 2016
  4.   Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
  5. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục   Chương 3                                                                                                                        ....................................................................................................................       21   ĐƯỜNG LỐI XỬ  LÝ VÀ MỘT SỐ  GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ  ĐIỀU   CHỈNH PHÁP LUẬT TRONG VIỆC                                                                              .........................................................................       21   GIẢI QUYẾT HỆ QUẢ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT                                                ...........................................       21  Ở VIỆT NAM HIỆN NAY                                                                                             .........................................................................................       21  3.1. Đường lối xử  lý cụ  thể  các trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn    theo luật định                                                                                                                        ....................................................................................................................       21 1
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hôn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội. Hiện tượng này   tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Thuở  sơ  khai, con người kết hôn với nhau chỉ  nhằm mục  đích suy trì  nòi   giống. Nhưng trải qua quá trình lịch sử  lâu dài, con người gắn kết với  nhau bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ hôn nhân đã dần được pháp luật   bảo vệ. Trong những quy định của pháp luật có những quy định cụ  thể  về  điều kiện kết hôn, những trường hợp cấm kết hôn, thủ  tục và hình  thức kết hôn. Ngày nay, khi kinh tế ­ xã hội ngày càng phát triển thì đi kèm với  đó là hoàn cảnh sống thay đổi, tâm lý con người thay đổi và các mối  quan hệ giữa con người với con người cũng thay đổi kéo theo đó dẫn tới   những hành vi trái pháp luật trong đó có hành vi kết hôn trái pháp luật.   Việc hình thành quan hệ  hôn nhân trái pháp luật  ảnh hưởng không nhỏ  tới đời sống xã hội, gây ra những hậu quả xấu cho các thành viên trong  gia đình, cho những người xung quanh và để  lại nhiều hệ  lụy xấu cho   xã hội. Trong khi đó, hệ  thống pháp luật nói chung và hệ  thống pháp   luật về Hôn nhân và gia đình nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế;   chưa thể  dự  liệu cũng như  điều chỉnh một cách toàn diện các trường   hợp phát sinh cũng như hậu quả pháp lý mà hôn nhân trái pháp luật cũng  như  hậu quả  pháp lý của hôn nhân trái pháp luật. Vì thế, việc nghiên  cứu về  hôn nhân trái pháp luật và hậu quả  pháp lý của hôn nhân trái   pháp luật trong tình hình hiện nay là điều hết sức cần thiết. Việc nghiên   cứu vấn đề này không chỉ nhằm dự liệu thêm các trường hợp phát sinh,  mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa hệ  thống pháp luật nhằm  khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm  quy định của luật hôn  nhân và gia đình. Như  vậy pháp luật mới có hướng bảo vệ  quyền, lợi  2
  7. ích hợp pháp của công dân, đảm bảo xây dựng chế  độ  hôn nhân và gia  đình văn minh, tiến bộ,vì con người, bảo vệ quyền con người. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về  hậu quả pháp lý của  việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014.   Từ đó đưa ra những điểm bất cập hạn chế của Luật hôn nhân gia đình   năm 2014 và đưa ra một số ý kiến nhằm bổ sung, khắc phục những hạn   chế của luật hôn nhân gia đình năm 2014 2.2. Mục tiêu cụ thể Để  đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên cần đạt được một số  mục tiêu cụ thể như sau: ­ Làm rõ những vấn đề  lý luận về  hậu quả  pháp lý của việc hủy  hôn nhân trái pháp luật theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014. ­ Tổng hợp, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện  hành về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật  hôn nhân gia đình năm 2014. ­ Nêu ra những tồn tại, hạn chế, những bất cập của pháp luật hiện   hành những hậu quả  pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo   luật hôn nhân gia đình năm 2014. ­ Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để  sửa đổi, hoàn thiện những   quy định của pháp luật về  hậu quả  pháp lý của việc hủy hôn nhân trái  pháp luật 3. Tính mới và đóng góp của đề tài Trong quá khứ  đã có  một số  công trình nghiên cứu  khoa học  của  những chuyên gia pháp lý, của các bạn học viên, sinh viên viết về  vấn  đề hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật. Tuy nhiên, tất  cả những đề tài khoa học đó chủ yếu dựa trên những quy định của Luật  hôn nhân gia đình cũ. Những đề tài khoa học đó chưa cập nhật được hết  3
  8. những vấn đề  mới về lý luận và thực tiễn cũng như  chưa đưa ra được  những bất cập cũng như  phương hướng hoàn thiện pháp luật về  hôn  nhân gia đình nói chung và những quy định về hậu quả pháp lý của việc   hủy hôn nhân trái pháp luật nói riêng đáp  ứng được yêu cầu ngày càng  cao của thực tiễn cuộc sống. Luận văn được viết vào thời điểm sau khi Luật hôn nhân gia đình  năm 2014 và Bộ luật dân sự 2015 ra đời và có hiệu lực nên luận văn có  thể  đưa ra những điểm mới về  lý luận và thực tiễn trong những quy  định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp   luật, phân tích và chỉ  ra những điểm chưa hợp lý, những bất cập của   pháp luật  hiện hành về  hậu quả  pháp lý của việc hủy hôn nhân trái   pháp luật, đồng thời đưa ra được một số  những kiến nghị  mới, có tính  cập nhật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện  pháp luật về  trách  hậu quả  pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp   luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu:  hậu quả  pháp lý của việc hủy hôn nhân   trái pháp luật Phạm vi nghiên cứu: những quy định của pháp luật hiện hành về  hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật 5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nội dung nghiên cứu Các vấn đề lý luận và thực tiễn về  hậu quả pháp lý của việc hủy  hôn nhân trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của  Chủ  nghĩa Mác­Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  Nhà nước và Pháp  luật. Bên cạnh đó, tác giả  sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ  thể  như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v... 4
  9. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cấu   trúc luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số  vấn đề  lý luận chung về  hậu quả  pháp lý của  việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 Chương 2: Hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình  năm 2014 Chương 3: Đường lối xử  lý và một số  giải pháp tăng cường hiệu  quả  điều chỉnh của pháp luật trong việc giải quyết hệ  quả  của Hôn   nhân trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ  CỦA VIỆC HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT  HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 1.1. Một số  vấn đề  lý luận chung về  hủy hôn nhân trái pháp  luật 1.1.1. Quan niệm về hôn nhân trái pháp luật Dưới giác độ  xã hội học, quan hệ  hôn nhân và gia đình là một  mối quan hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ  này tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên nhằm đảm bảo sự  tồn tại và phát triển của con người. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ  lịch sử  với những hình thái kinh tế­ xã hội khác nhau, pháp luật nói  chung và pháp luật về  hôn nhân và gia đình nói riêng đã ra đời nhằm   điều chỉnh những quan hệ khách quan trong đó có quan hệ hôn nhân và  gia đình. Lúc này, hôn nhân không còn là một mối quan hệ  mang tính   5
  10. bản năng nhằm duy trì nòi giống mà quan hệ  hôn nhân và gia đình trở  thành một mối quan hệ  xã hội chịu sự  điều chỉnh của giai cấp thống   trị  nhằm tuân theo ý chí, bảo vệ  quyền và lợi ích của giai cấp thống   trị. Lúc này xã hội mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu tiên  về  hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật. Trải qua nhiều thời  lỳ  lịch sử  khác nhau,  ở  mỗi quan niệm về  hôn nhân trong đó có quan  niệm về hôn nhân trái pháp luật cũng có những thay đổi khác nhau. Trong xã hội phong kiến, pháp luật thể  hiện ý chí của một bộ  phận rất nhỏ trong xã hội đó chính là những người thuộc tầng lớp quan  lại, vua chúa, địa chủ. Họ đề  ra những quy định điều chỉnh quan hệ  về  hôn nhân và gia đình mà theo họ là hợp lý và những quy định đó trở thành  những nguyên tắc chung của toàn xã hội, được xã hội thừa nhận. Ở thời   kỳ  phong kiến, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc  hôn nhân không tuân thủ một số điều kiện như không môn đăng hộ đối,  không được sự chấp thuận của cha mẹ, họ hàng... Ở  các nước theo chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa, những điều kiện về  kinh tế, xã hội, con người cũng đã làm nảy sinh những quan niệm về  hôn nhân và cũng được pháp luật ghi nhận. Về  vấn đề  kết hôn thì các   nước   tư   bản  có  những  quan  niệm  khác  Việt  Nam  chúng  ta.   Vì  vậy  những quy định về  hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật cũng  khác chúng ta. Đặc biệt do điều kiện về kinh tế, khí hậu, sinh học, môi  trường, văn hóa..... khác chúng ta nên khiến con người có sự  phát triển  nhanh hơn, sự  trưởng thành về  thể  lực, trí lực khác với người Châu Á   nên độ tuổi kết hôn cũng phải được điều chỉnh sao cho phù hợp với tình  hình thực tiễn tại các quốc gia đó. Bên cạnh đó, hiện nay ở nhiều nước   Tư  bản chủ  nghĩa còn thừa nhận hôn nhân đồng giới là hôn nhân hợp  pháp được Nhà nước và xã hội chấp nhận, tôn trọng và ủng hộ. Như  vậy, có thể  thấy rằng quan niệm về  hôn nhân chịu sự  tác   động của rất nhiều yếu tố khác nhau trong xã hội như kinh tế, văn hóa,   6
  11. sinh học, môi trường sống... nhưng yếu tố  quan trọng nhất và có sức  ảnh hưởng mạnh mẽ  nhất tới vấn đề  hôn nhân đó chính là luật pháp.  Pháp luật về hôn nhân và gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp   luật, trong đó sự  tự  nguyện của các bên tham gia quan hệ  hôn nhân và  gia đình là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thừa nhận và tôn trọng của   Nhà nước và xã hội. Pháp luật  ở  mỗi hình thái kinh tế­ xã hội,  ở  mỗi   quốc gia có những quan điểm, những quy định khác nhau về  hôn nhân  cũng như  hôn nhân trái pháp luật, nhưng tựu chung lại thì pháp luật  ở  mỗi quốc gia đều tạo ra một khuôn khổ pháp lý nhất định, trong khuôn  khổ pháp lý đó thì mọi cuộc hôn nhân trên tinh thần tự nguyện đều được   Nhà nước và xã hội tôn trọng và thừa nhận. 1.1.2. Hệ quả của hôn nhân trái pháp luật 1.1.2.1. Hệ quả pháp lý Khoản 6, điều 13, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy đinh:  Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ  đã đăng ký kết hôn tại cơ  quan  nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều  kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này. Việc kết hôn trái  pháp luật tạo ra nhiều hệ  quả  khác nhau, trong đó có hệ  quả  về  mặt   pháp lý. Hệ quả về mặt pháp lý của hôn nhân trái pháp luật trước tiên   là xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Mỗi công  dân đều có quyền sống, quyền tự  do và quyền mưu cầu hạnh phúc và  được pháp luật bảo vệ, vậy mà hành vi thiết lập nên những cuộc hôn  nhân trái pháp luật lại xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới quyền mưu   cầu hạnh phúc của công dân. Khi đã là cuộc hôn nhân trái pháp luật thì  đương nhiên không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Mối quan hệ  của họ không được coi là quan hệ vợ chồng, khi việc kết hôn bị hủy thì  ai đi đường nấy, tài sản cũng không chia như trong trường hợp hôn nhân  hợp pháp mà tài sản của ai thuộc về  người đó, không có khái niệm tài  sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. 7
  12. Điều này gây ra những thiệt thòi cho công dân đặc biệt là người  phụ nữ bởi người phụ nữ trong gia đình Việt Nam thường yếu thế hơn,   không phải là trụ  cột về  mặt kinh tế  mà chủ  yếu lo phần nội trợ  và  chăm sóc chồng con. Bên cạnh đó, cuộc hôn nhân trái pháp luật còn ảnh  hưởng tới con cái họ, tới những người thân xung quanh họ. Đặc biệt là  những đứa trẻ  có quyền được hưởng sự  thương yêu, chăm sóc của cả  cha và mẹ  vậy mà cuộc hôn nhân trái pháp luật vô hình chung đã đẩy  những đứa trẻ  vào hoàn cảnh không được hưởng sự  thương yêu, chăm  sóc một cách đầy đủ  và trọn vẹn,  ảnh hưởng tới tâm sinh lý, tới tương  lai của chúng,  ảnh hưởng tới thế  hệ  tương lai của đất nước. Đối với  trường hợp kết hôn khi chưa đủ  độ  tuổi kết hôn mà vẫn tiến hành   những cuộc hôn nhân không chỉ  xâm hại tới quyền tự  do, tự  nguyện   trong hôn nhân mà còn vi phạm những quy định của pháp luật về bảo vệ  trẻ em, thậm chí phạm một số tội trong Bộ luật hình sự. Hôn nhân đồng   giới cũng không được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân trái pháp luật   không chỉ  gây  ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của công dân  mà còn gây ra những khó khăn không nhỏ  cho các cơ  quan Nhà nước.  Những cuộc hôn nhân trái pháp luật sẽ khiến các cơ quan Nhà nước khó  nắm bắt và quản lý được các vấn đề  liên quan đến hộ  tịch, hộ  khẩu,  khai sinh hoặc giải quyết những tranh chấp dân sự khác. 1.2.2.2. Hệ quả về mặt xã hội Trước hết phải khẳng định rằng quan hệ  hôn nhân vốn dĩ đã là  một quan hệ xã hội. Bởi thế  những cuộc hôn nhân trái pháp luật không  chỉ  gây ra những hệ  quả  về  mặt pháp lý mà còn gây ra những hệ  quả  cho xã hội.  Một gia đình được hình thành và tồn tại để  thực hiện tốt  những chức năng của nó phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu của hai  bên nam nữ, sự  thương yêu, gắn kết và tự  nguyện chung sống, thực   hiện tốt bổn phận của mình, phải được thiết lập giữa những chủ  thể  khác giới có đầy đủ  những tiêu chuẩn về  thể  lực, sinh lý, tâm lý . Nếu  8
  13. một cuộc hôn nhân mà thiếu đi những yếu tố  đó thì sẽ  không thể  xây  dựng được một gia đình hạnh phúc. Đó là những thành tố không tốt gây   ảnh hưởng đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội, góp phần tạo dựng  nên một xã hội không ổn định. 1.3. Những quy định về  hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt   Nam qua các thời kì lịch sử 1.3.1. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt   Nam thời kì phong kiến Ở  thời kỳ  phong kiến, tư  tưởng Nho giáo đóng một vai trò chủ  đạo chi phối hầu hết các mối quan hệ  cơ  bản trong xã hội trong đó có  quan hệ hôn nhân và gia đình. Bởi vậy, hệ thống pháp luật trong thời kỳ  phong kiến cũng chịu  ảnh hưởng không nhỏ  bởi tư  tưởng Nho giáo   nhằm củng cố  địa vị, vị  trí của người gia trưởng. Nhiều vấn đề  thuộc   lĩnh vực hôn nhân và gia đình như  vấn đề  kết hôn, quan hệ  giữa vợ  và  chồng, quan hệ  giữa cha mẹ  và con cái.... đã được nhiều văn bản quy   phạm  pháp  luật   dưới   thời   phong  kiến  quy   định,   trong   đó   không  thể  không nhắc tới hai bộ  luật tiêu biểu là Bộ  Quốc triều Hình luật (Luật  Hồng Đức) được ban hành dưới triều Lê và Hoàng Việt Luật Lệ  (Bộ  luật Gia Long) được ban hành dưới triều Nguyễn.  Tuy nhiên các văn  bản luật thời kỳ này ít quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật. 1.3.2. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt   Nam thời kì pháp thuộc Từ  năm 1858 tới năm 1945, Việt nam chúng ta chịu sự  đô hộ  của  Thực dân Pháp. Sau khi xâm lược nước ta, Pháp đã sử dụng chính sách”  chia để trị” nên đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và   Nam kỳ. Cùng với việc phân về mặt hành chính thì chúng cũng lần lượt  ban hàng những văn bản pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội  trong đó có mối quan hệ  hôn nhân và gia đình dựa trên Bộ  luật Dân sự  Napoleon 1804 bao gồm:  Bộ  dân luật Bắc Kỳ  năm 1931 áp dụng tại  9
  14. miền Bắc; Bộ  dân luật Trung Kỳ  năm 1936 áp dụng tại miền Trung;  Tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 áp dụng tại miền Nam. 1.3.3. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt   Nam giai đoạn 1945 đến năm 1975 Cùng với sự  ra đời của bản Hiến pháp là sự  ra đời của Sắc lệnh  số 90­ SL cho phép áp dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách  có chọn lọc sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tới năm 19050, Nhà  nước ta ban hành Sắc lệnh số 97­ SL ngày 22/05/1950 đã sửa đổi một số  quy định của dân luật theo hướng tiến bộ hơn. Tới năm 1959, Luật hôn  nhân và gia đình năm 1959 Luật hôn nhân gia đình đầu tiên của nước ta  ra đời,văn bản này gồm 6 chương, 35 điều. Có thể  nói rằng, so với  những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia   đình thời kỳ trước thì Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã có những  bước tiến bộ rõ rệt. Đầu tiên phải kể  đến là việc tập trung những quy  định lại thành chế  định cụ  thể. Thứ  hai là việc xóa bỏ  những quy định  còn lạc hậu như  cấm phụ  nữ  góa chồng tái giá trong một khoảng thời   gian nhất định, cấm kết hôn trong thời gian để tang..... Thứ ba, Luật hôn  nhân và gia đình năm 1959 cũng quy định rõ hình thức kết hôn. 1.3.4. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt   Nam giai đoạn từ 1975 đến nay Luật  hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ra đời. Nhìn chung   Luật  hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có sự kế thừa và phát triển Luật hôn  nhân và gia đình năm 1959. Trong đó Luật hôn nhân và gia đình năm  1986 đã nêu rất rõ ràng những căn cứ để xác định hôn nhân trái pháp luật  và hậu quả là hôn nhân trái pháp luật đó phải bị huỷ bỏ. Sau hơn 10 năm kể từ khi áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm   1986 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế không phù hợp với thực tiễn, đòi  hỏi cần có sự  thay đổi, bổ  sung sao cho phù hợp hơn. Từ  bối cảnh đó,  10
  15. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ra đời. Luật hôn nhân và gia đình  năm 2000 đáp  ứng yêu cầu cao hơn trong việc điều chỉnh quan hệ  hôn  nhân và gia đình trong tình hình mới. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là văn bản quy phạm pháp  luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đìnhcó dung lượng lớn nhất từ  trước  tới  nay với  133  điều luật   được  chia làm  9 chương.  Với  dung  lượng như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có những sự sửa   đổi, bổ sung phù hợp hơn với tình hình mới. Như vậy, thông qua việc tìm hiểu những quy định về hôn nhân và  gia đình nói chung và vấn đề  hôn nhân trái pháp luật nói riêng qua các   thời kỳ lịch sử có thể  thấy rằng trải qua hàng trăm năm với nhiều biến   cố  của lịch sử, quy định về  hôn nhân trái pháp luật cũng có những thay  đổi phù hợp với từng thời kỳ  lịch sử. Hiện nay, cùng với sự  phát triển  của đời sống xã hội, quan hệ  hôn nhân và gia đình trong đó có vấn đề  hôn nhân trái pháp luật đang được điều chỉnh theo hướng văn minh, tiến  bộ và được tập trung quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014  với những quy định chặt chẽ, phù hợp với tình hình mới của đời sống xã  hội. 11
  16. Chương 2 HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT  THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 2.1. Các trường hợp hôn nhân trái pháp luật 2.1.1. Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, độ tuổi kết hôn là một  trong những điều kiện kết hôn được quy định tại điều 8, cụ  thể  như  sau: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Độ  tuổi kết hôn được pháp luật xây dựng dựa trên những cơ  sở  khoa học và cơ  sở  xã hội nhất định. Về  mặt khoa học, nam và nữ  kết  hôn với nhau là để  thực hiện chức năng duy trì nòi giống. Các nghiên   cứu khoa học đã chỉ  ra rằng phải đạt đến độ  tuổi này thì việc nam nữ  xáo lập quan hệ hôn nhân và sinh con mới đảm bảo được sự “ ưu sinh”.  Bởi bì, đến độ tuổi này, nam và nữ mới phát triển toàn diện về tâm­ sinh  lý. Một số nghiên cứu trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản kết luận: các bà  mẹ  sinh con trước 18 tuổi thường hay mắc các vấn đề  về  sức khỏe.  Những đứa con của các cặp hôn nhân xác lập quan hệ  hôn nhân trước   tuổi luật định hay mắc các bệnh về  nhiễm sắc thể, sức đề  kháng yếu,  tỷ lệ tử vong sau sinh cao. Chính vì lẽ đó, việc quy định độ tuổi kết hôn  tối thiểu dựa trên cơ sở khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc duy   trì nòi giống, đảm bảo sự  phát triển lành mạnh về  trí tuệ  và thể  chất   cho những thế  hệ  sau, xây dựng gia đình bình yên,  ấm no, hạnh phúc.  Bên cạnh những cơ sở khoa học, việc quy định độ tuổi kết hôn còn căn   cứ  vào những cơ  sở  về  mặt xã hội như  phong tục, tập quán, truyền  thống, đạo đức xã hội, tâm lý, quan niệm của người Việt trong vấn đề  hôn nhân và gia đình. Việt Nam chúng ta là một nước phương Đông chịu   ảnh hưởng của Nho giáo, với truyền thống coi trọng gia đình, từ đó hình  thành nên quan niệm  “ nữ  thập tam, nam thập lục”. Quan niệm này  12
  17. được hình thành từ  rất lâu trong đời sống xã hội. Và hiện nay  ở  nhiều  miền quê Việt Nam vẫn chịu  ảnh hưởng rất lớn của quan niệm này.   Điều này dẫn đến hiện tượng tảo hôn xảy ra ở nhiều nơi, nhất là nông  thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi thế nên việc quy định độ tuổi hôn  nhân như  Luật  hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện nay vừa đảm bảo  hôn nhân được xây dựng dựa trên cơ  sở  khoa học, vừa góp phần quan  trọng vào việc xóa bỏ  những quan niệm về  hôn nhân còn lạc hậu, cổ  hủ. 2.1.2. Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện Nguyên tắc tự  nguyện là nguyên tắc đầu tiên, quan trọng nhất và  xuyên suốt trong các quan hệ dân sự trong đó có quan hệ hôn nhân và gia  đình. Sự  tự  nguyện trong quan hệ  hôn nhân được hiểu là việc người  nam và nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể  hiện sự mong muốn   trở  thành vợ  chồng của nhau và không phụ  thuộc vào ý chí của người   khác. Hôn nhân là một quyền của con người. Hôn nhân không thể duy trì   bền vững, gia đình không thể hạnh phúc nếu không có sự tự nguyện của  cả hai bên nam và nữ. Hôn nhân tự  nguyện, tiến bộ  là xu thế  của cuộc sống hiện đại  đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong các quan hệ dân  sự nói chung và của Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng. Nguyên tắc này  góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ  chế  độ  hôn nhân thời kỳ  phong  kiến, xây dựng chế độ hôn nhân xã hội chủ nghĩa văn minh và tiến bộ. Theo quy định của pháp luật thì cuộc hôn nhân sẽ  được coi là trái  pháp luật do vi phạm sự  tự  nguyện khi có hành vi cưỡng ép kết hôn  hoặc hành vi lừa dối kết hôn. 2.1.3. Kết hôn khi một hoặc cả hai bên bị mất năng lực hành vi   dân sự Điều 22, Bộ luật Dân sự  năm 2005 quy định: “ Khi một người do   bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ   13
  18. được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên   quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ   sở kết luận của tổ chức giám định”. Và theo quy định tại điểm c, khoản  1, điều 8, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “ không bị mất năng   lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện kết hôn mà hai bên  nam, nữ phải tuân theo. Như vậy, một người sẽ không được quyền kết  hôn khi có quyết định của Tòa án tuyên bố  người đó bị  mất năng lực  hành vi dân sự. Việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cho phép người bị  mất năng lực hành vi dân sự  kết hôn còn nhằm đảm bảo quyền và lợi   ích chính đáng của những người có liên quan. Bởi vì khi xác lập quan hệ  hôn nhân, hai bên nam, nữ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với  nhau và các nghĩa vụ  đối với những người liên quan như  cha mẹ, con   cái. Bên cạnh đó, việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cho  phép người bị mất năng lực hành vi dân sự  kết hôn còn nhằm đảm bảo   quyền và lợi ích chính đáng của những người có liên quan. Bởi vì khi  xác lập quan hệ hôn nhân, hai bên nam, nữ phải thực hiện các quyền và  nghĩa vụ  đối với nhau và các nghĩa vụ  đối với những người liên quan   như cha mẹ, con cái. Thêm vào đó, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình  ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu như cho phép người bị mất năng lực  hành vi dân sự  kết hôn sẽ   ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của  những thành viên khác trong gia đình. Một điều nữa không thể không nói  tới đó là dưới góc độ y học, tâm thần là một loại bệnh có thể di truyền  từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều này sẽ gây ra sự ảnh hưởng không  tốt cho những đứa trẻ có cha hoặc mẹ bị mất năng lực dân sự. Hơn thế  nữa nó còn ảnh hưởng không tốt cho gia đình và xã hội, gây ra nguy cơ  đe dọa chất lượng dân số. 14
  19. 2.1.4. Kết hôn giả tạo Tại khoản 11, Điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy   định:  “Kết hôn giả  tạo  là việc lợi dụng  kết  hôn để  xuất cảnh, nhập   cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế   độ   ưu đãi của Nhà nước hoặc để  đạt được mục đích khác mà không   nhằm mục đích xây dựng gia đình”. Bên cạnh đó, điểm a, khoản 2, điều 5  của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định hôn nhân giả tạo  là một trong những hành vi bị  cấm kết hôn. Vì thế, kết hôn giả  tạo là   hành vi kết hôn trái pháp luật. Từ định nghĩa kết hôn giả tạo được quy định tại khoản 11, điều 3,  Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có thể thấy rằng, để  xác định việc  kết hôn trái pháp luật do kết hôn giả tạo cần phải căn cứ vào mục đích   của việc kết hôn giữa hai bên nam, nữ. Nếu hai bên nam, nữ kết hôn với  nhau không nhằm mục đích xây dựng cuộc sống gia đình mà vì nhằm  đạt được một mục đích nào khác thì đều bị  coi là kết hôn giả  tạo và  cuộc hôn nhân đó là hôn nhân trái pháp luật. 2.1.5. Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác   hoặc người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn với người đang có   chồng, có vợ Hôn nhân một vợ  một chồng là cơ  sở  để  tạo dựng hôn nhân lành  mạnh, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hòa thuận,  ấm no, hạnh  phúc. “ Vì bản chất của tình yêu là không thể  chia sẻ... cho nên hôn   nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó, là hôn   nhân một vợ một chồng” (trích tác phẩm: Nguồn gốc của gia đình, của  chế độ tư hữu và của Nhà nước). Thế nên hôn nhân một vợ một chồng  là công cụ để bảo vệ tình yêu, bảo vệ hôn nhân, bảo vệ hạnh phúc gia  đình. Trong luật pháp của Việt Nam, nguyên tắc hôn nhân một vợ  một  chồng được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tiêu  15
  20. biểu trong đó là tạo điều 36, Hiến Pháp năm 2013 có quy định:  “ Nam,  nữ  co quyên kêt hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên t ́ ̀ ́ ắc tự  nguyện, tiến   bộ, một vợ  một chồng, vợ  chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Trên  cơ sở quy định của Hiến Pháp, khoản 1, điều 2 của Luật hôn nhân và gia  đình năm 2014 cũng khẳng đình nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân  và gia đình như  sau: “Hôn nhân tự  nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,   vợ  chồng bình đẳng”. Thêm vào đó, khoản 2, điều 5, Luật hôn nhân và  gia đình năm 2014 cũng quy định cấm hành vi: “Người đang có vợ, có   chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc   chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng   với người đang có chồng, có vợ”. Thực tế hiện nay cho thấy, người đang có vợ, có chồng mà chung  sống như  vợ  chồng với người khác diễn ra khá nhiều thậm chí ngày  càng gia tăng. Đặc biệt là đối với những người từ tỉnh lẻ di chuyển lên   các thành phố lớn để  làm ăn. Do khoảng cách địa lý nên rất khó để  gia  đình, người thân và các cơ  quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện  được hành vi sống chung như vợ chồng với người khác. Thậm chí, có  một số  trường hợp còn giả  mạo giấy tờ  nhằm qua mặt cơ  quan th ực   thi pháp luật dẫn tới tình trạng có hai Giấy đăng ký kết hôn với hai   người khác nhau. Điều đó cho thấy hành vi vi phạm điều cấm của Luật  hôn nhân và gia đình diễn ra  ở  nhiều nơi với nhiều cách khác nhau và  để  lại rất nhiều hệ lụy cho bản thân những người trong cuộc, cho gia   đình, và cho xã hội. Trong khi đó, luật pháp của chúng ta lại chưa có   những chế  tài đủ  mạnh nhằm ngăn ngừa, thậm chí là răn đe đối với   người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng   với  người   khác   hoặc   chưa   có   vợ,   chưa   có   chồng   mà   kết   hôn   hoặc  chung sống như  vợ  chồng với người đang có chồng, có vợ. Điều này  vô hình chung làm cho quy định của Luật hôn nhân và gia đình trở  nên   hình thức, thiếu tính khả thi. Theo tôi, cần đưa ra những biện pháp chế  16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0