Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
lượt xem 19
download
Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Từ đó đưa ra những điểm bất cập hạn chế của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và đưa ra một số ý kiến nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TÀI DƯƠNG HËU QU¶ PH¸P Lý CñA VIÖC HñY H¤N NH¢N TR¸I PH¸P LUËT THEO LUËT H¤N NH¢N Vµ GIA §×NH N¡M 2014 Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
- HÀ NỘI 2016
- Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ Phản biện 1: ...................................................................... Phản biện 2: ...................................................................... Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi .... giờ ...., ngày ..... tháng ..... năm 2016
- Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu – Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
- MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Chương 3 .................................................................................................................... 21 ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT TRONG VIỆC ......................................................................... 21 GIẢI QUYẾT HỆ QUẢ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT ........................................... 21 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................... 21 3.1. Đường lối xử lý cụ thể các trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn theo luật định .................................................................................................................... 21 1
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hôn nhân và gia đình là một hiện tượng xã hội. Hiện tượng này tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Thuở sơ khai, con người kết hôn với nhau chỉ nhằm mục đích suy trì nòi giống. Nhưng trải qua quá trình lịch sử lâu dài, con người gắn kết với nhau bởi quan hệ hôn nhân và quan hệ hôn nhân đã dần được pháp luật bảo vệ. Trong những quy định của pháp luật có những quy định cụ thể về điều kiện kết hôn, những trường hợp cấm kết hôn, thủ tục và hình thức kết hôn. Ngày nay, khi kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì đi kèm với đó là hoàn cảnh sống thay đổi, tâm lý con người thay đổi và các mối quan hệ giữa con người với con người cũng thay đổi kéo theo đó dẫn tới những hành vi trái pháp luật trong đó có hành vi kết hôn trái pháp luật. Việc hình thành quan hệ hôn nhân trái pháp luật ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội, gây ra những hậu quả xấu cho các thành viên trong gia đình, cho những người xung quanh và để lại nhiều hệ lụy xấu cho xã hội. Trong khi đó, hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về Hôn nhân và gia đình nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế; chưa thể dự liệu cũng như điều chỉnh một cách toàn diện các trường hợp phát sinh cũng như hậu quả pháp lý mà hôn nhân trái pháp luật cũng như hậu quả pháp lý của hôn nhân trái pháp luật. Vì thế, việc nghiên cứu về hôn nhân trái pháp luật và hậu quả pháp lý của hôn nhân trái pháp luật trong tình hình hiện nay là điều hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu vấn đề này không chỉ nhằm dự liệu thêm các trường hợp phát sinh, mà quan trọng hơn đó là hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật nhằm khắc phục, giải quyết các trường hợp vi phạm quy định của luật hôn nhân và gia đình. Như vậy pháp luật mới có hướng bảo vệ quyền, lợi 2
- ích hợp pháp của công dân, đảm bảo xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình văn minh, tiến bộ,vì con người, bảo vệ quyền con người. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014. Từ đó đưa ra những điểm bất cập hạn chế của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và đưa ra một số ý kiến nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của luật hôn nhân gia đình năm 2014 2.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên cần đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau: Làm rõ những vấn đề lý luận về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Tổng hợp, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Nêu ra những tồn tại, hạn chế, những bất cập của pháp luật hiện hành những hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014. Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp để sửa đổi, hoàn thiện những quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật 3. Tính mới và đóng góp của đề tài Trong quá khứ đã có một số công trình nghiên cứu khoa học của những chuyên gia pháp lý, của các bạn học viên, sinh viên viết về vấn đề hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật. Tuy nhiên, tất cả những đề tài khoa học đó chủ yếu dựa trên những quy định của Luật hôn nhân gia đình cũ. Những đề tài khoa học đó chưa cập nhật được hết 3
- những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn cũng như chưa đưa ra được những bất cập cũng như phương hướng hoàn thiện pháp luật về hôn nhân gia đình nói chung và những quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật nói riêng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống. Luận văn được viết vào thời điểm sau khi Luật hôn nhân gia đình năm 2014 và Bộ luật dân sự 2015 ra đời và có hiệu lực nên luận văn có thể đưa ra những điểm mới về lý luận và thực tiễn trong những quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, phân tích và chỉ ra những điểm chưa hợp lý, những bất cập của pháp luật hiện hành về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật, đồng thời đưa ra được một số những kiến nghị mới, có tính cập nhật phù hợp với yêu cầu của thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về trách hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật Phạm vi nghiên cứu: những quy định của pháp luật hiện hành về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật 5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nội dung nghiên cứu Các vấn đề lý luận và thực tiễn về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê v.v... 4
- 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về hậu quả pháp lý của việc hủy hôn nhân trái pháp luật theo luật hôn nhân gia đình năm 2014 Chương 2: Hôn nhân trái pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Chương 3: Đường lối xử lý và một số giải pháp tăng cường hiệu quả điều chỉnh của pháp luật trong việc giải quyết hệ quả của Hôn nhân trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC HỦY HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hủy hôn nhân trái pháp luật 1.1.1. Quan niệm về hôn nhân trái pháp luật Dưới giác độ xã hội học, quan hệ hôn nhân và gia đình là một mối quan hệ xã hội được xác lập giữa hai chủ thể nam và nữ, quan hệ này tồn tại và phát triển theo quy luật của tự nhiên nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người. Tuy nhiên, trải qua các thời kỳ lịch sử với những hình thái kinh tế xã hội khác nhau, pháp luật nói chung và pháp luật về hôn nhân và gia đình nói riêng đã ra đời nhằm điều chỉnh những quan hệ khách quan trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Lúc này, hôn nhân không còn là một mối quan hệ mang tính 5
- bản năng nhằm duy trì nòi giống mà quan hệ hôn nhân và gia đình trở thành một mối quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của giai cấp thống trị nhằm tuân theo ý chí, bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị. Lúc này xã hội mới bắt đầu xuất hiện những quan niệm đầu tiên về hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật. Trải qua nhiều thời lỳ lịch sử khác nhau, ở mỗi quan niệm về hôn nhân trong đó có quan niệm về hôn nhân trái pháp luật cũng có những thay đổi khác nhau. Trong xã hội phong kiến, pháp luật thể hiện ý chí của một bộ phận rất nhỏ trong xã hội đó chính là những người thuộc tầng lớp quan lại, vua chúa, địa chủ. Họ đề ra những quy định điều chỉnh quan hệ về hôn nhân và gia đình mà theo họ là hợp lý và những quy định đó trở thành những nguyên tắc chung của toàn xã hội, được xã hội thừa nhận. Ở thời kỳ phong kiến, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn nhân không tuân thủ một số điều kiện như không môn đăng hộ đối, không được sự chấp thuận của cha mẹ, họ hàng... Ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa, những điều kiện về kinh tế, xã hội, con người cũng đã làm nảy sinh những quan niệm về hôn nhân và cũng được pháp luật ghi nhận. Về vấn đề kết hôn thì các nước tư bản có những quan niệm khác Việt Nam chúng ta. Vì vậy những quy định về hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật cũng khác chúng ta. Đặc biệt do điều kiện về kinh tế, khí hậu, sinh học, môi trường, văn hóa..... khác chúng ta nên khiến con người có sự phát triển nhanh hơn, sự trưởng thành về thể lực, trí lực khác với người Châu Á nên độ tuổi kết hôn cũng phải được điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn tại các quốc gia đó. Bên cạnh đó, hiện nay ở nhiều nước Tư bản chủ nghĩa còn thừa nhận hôn nhân đồng giới là hôn nhân hợp pháp được Nhà nước và xã hội chấp nhận, tôn trọng và ủng hộ. Như vậy, có thể thấy rằng quan niệm về hôn nhân chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau trong xã hội như kinh tế, văn hóa, 6
- sinh học, môi trường sống... nhưng yếu tố quan trọng nhất và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới vấn đề hôn nhân đó chính là luật pháp. Pháp luật về hôn nhân và gia đình là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, trong đó sự tự nguyện của các bên tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thừa nhận và tôn trọng của Nhà nước và xã hội. Pháp luật ở mỗi hình thái kinh tế xã hội, ở mỗi quốc gia có những quan điểm, những quy định khác nhau về hôn nhân cũng như hôn nhân trái pháp luật, nhưng tựu chung lại thì pháp luật ở mỗi quốc gia đều tạo ra một khuôn khổ pháp lý nhất định, trong khuôn khổ pháp lý đó thì mọi cuộc hôn nhân trên tinh thần tự nguyện đều được Nhà nước và xã hội tôn trọng và thừa nhận. 1.1.2. Hệ quả của hôn nhân trái pháp luật 1.1.2.1. Hệ quả pháp lý Khoản 6, điều 13, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy đinh: Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này. Việc kết hôn trái pháp luật tạo ra nhiều hệ quả khác nhau, trong đó có hệ quả về mặt pháp lý. Hệ quả về mặt pháp lý của hôn nhân trái pháp luật trước tiên là xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Mỗi công dân đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc và được pháp luật bảo vệ, vậy mà hành vi thiết lập nên những cuộc hôn nhân trái pháp luật lại xâm hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới quyền mưu cầu hạnh phúc của công dân. Khi đã là cuộc hôn nhân trái pháp luật thì đương nhiên không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Mối quan hệ của họ không được coi là quan hệ vợ chồng, khi việc kết hôn bị hủy thì ai đi đường nấy, tài sản cũng không chia như trong trường hợp hôn nhân hợp pháp mà tài sản của ai thuộc về người đó, không có khái niệm tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. 7
- Điều này gây ra những thiệt thòi cho công dân đặc biệt là người phụ nữ bởi người phụ nữ trong gia đình Việt Nam thường yếu thế hơn, không phải là trụ cột về mặt kinh tế mà chủ yếu lo phần nội trợ và chăm sóc chồng con. Bên cạnh đó, cuộc hôn nhân trái pháp luật còn ảnh hưởng tới con cái họ, tới những người thân xung quanh họ. Đặc biệt là những đứa trẻ có quyền được hưởng sự thương yêu, chăm sóc của cả cha và mẹ vậy mà cuộc hôn nhân trái pháp luật vô hình chung đã đẩy những đứa trẻ vào hoàn cảnh không được hưởng sự thương yêu, chăm sóc một cách đầy đủ và trọn vẹn, ảnh hưởng tới tâm sinh lý, tới tương lai của chúng, ảnh hưởng tới thế hệ tương lai của đất nước. Đối với trường hợp kết hôn khi chưa đủ độ tuổi kết hôn mà vẫn tiến hành những cuộc hôn nhân không chỉ xâm hại tới quyền tự do, tự nguyện trong hôn nhân mà còn vi phạm những quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em, thậm chí phạm một số tội trong Bộ luật hình sự. Hôn nhân đồng giới cũng không được Nhà nước thừa nhận. Hôn nhân trái pháp luật không chỉ gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của công dân mà còn gây ra những khó khăn không nhỏ cho các cơ quan Nhà nước. Những cuộc hôn nhân trái pháp luật sẽ khiến các cơ quan Nhà nước khó nắm bắt và quản lý được các vấn đề liên quan đến hộ tịch, hộ khẩu, khai sinh hoặc giải quyết những tranh chấp dân sự khác. 1.2.2.2. Hệ quả về mặt xã hội Trước hết phải khẳng định rằng quan hệ hôn nhân vốn dĩ đã là một quan hệ xã hội. Bởi thế những cuộc hôn nhân trái pháp luật không chỉ gây ra những hệ quả về mặt pháp lý mà còn gây ra những hệ quả cho xã hội. Một gia đình được hình thành và tồn tại để thực hiện tốt những chức năng của nó phải được xây dựng trên cơ sở tình yêu của hai bên nam nữ, sự thương yêu, gắn kết và tự nguyện chung sống, thực hiện tốt bổn phận của mình, phải được thiết lập giữa những chủ thể khác giới có đầy đủ những tiêu chuẩn về thể lực, sinh lý, tâm lý . Nếu 8
- một cuộc hôn nhân mà thiếu đi những yếu tố đó thì sẽ không thể xây dựng được một gia đình hạnh phúc. Đó là những thành tố không tốt gây ảnh hưởng đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội, góp phần tạo dựng nên một xã hội không ổn định. 1.3. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam qua các thời kì lịch sử 1.3.1. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam thời kì phong kiến Ở thời kỳ phong kiến, tư tưởng Nho giáo đóng một vai trò chủ đạo chi phối hầu hết các mối quan hệ cơ bản trong xã hội trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Bởi vậy, hệ thống pháp luật trong thời kỳ phong kiến cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi tư tưởng Nho giáo nhằm củng cố địa vị, vị trí của người gia trưởng. Nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực hôn nhân và gia đình như vấn đề kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái.... đã được nhiều văn bản quy phạm pháp luật dưới thời phong kiến quy định, trong đó không thể không nhắc tới hai bộ luật tiêu biểu là Bộ Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) được ban hành dưới triều Lê và Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ luật Gia Long) được ban hành dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên các văn bản luật thời kỳ này ít quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật. 1.3.2. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam thời kì pháp thuộc Từ năm 1858 tới năm 1945, Việt nam chúng ta chịu sự đô hộ của Thực dân Pháp. Sau khi xâm lược nước ta, Pháp đã sử dụng chính sách” chia để trị” nên đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Cùng với việc phân về mặt hành chính thì chúng cũng lần lượt ban hàng những văn bản pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong đó có mối quan hệ hôn nhân và gia đình dựa trên Bộ luật Dân sự Napoleon 1804 bao gồm: Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 áp dụng tại 9
- miền Bắc; Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936 áp dụng tại miền Trung; Tập Dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883 áp dụng tại miền Nam. 1.3.3. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam giai đoạn 1945 đến năm 1975 Cùng với sự ra đời của bản Hiến pháp là sự ra đời của Sắc lệnh số 90 SL cho phép áp dụng những quy định trong pháp luật cũ một cách có chọn lọc sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Tới năm 19050, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 97 SL ngày 22/05/1950 đã sửa đổi một số quy định của dân luật theo hướng tiến bộ hơn. Tới năm 1959, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 Luật hôn nhân gia đình đầu tiên của nước ta ra đời,văn bản này gồm 6 chương, 35 điều. Có thể nói rằng, so với những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình thời kỳ trước thì Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Đầu tiên phải kể đến là việc tập trung những quy định lại thành chế định cụ thể. Thứ hai là việc xóa bỏ những quy định còn lạc hậu như cấm phụ nữ góa chồng tái giá trong một khoảng thời gian nhất định, cấm kết hôn trong thời gian để tang..... Thứ ba, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 cũng quy định rõ hình thức kết hôn. 1.3.4. Những quy định về hủy hôn nhân trái pháp luật của Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã ra đời. Nhìn chung Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã có sự kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Trong đó Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã nêu rất rõ ràng những căn cứ để xác định hôn nhân trái pháp luật và hậu quả là hôn nhân trái pháp luật đó phải bị huỷ bỏ. Sau hơn 10 năm kể từ khi áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế không phù hợp với thực tiễn, đòi hỏi cần có sự thay đổi, bổ sung sao cho phù hợp hơn. Từ bối cảnh đó, 10
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã ra đời. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đáp ứng yêu cầu cao hơn trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình trong tình hình mới. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đìnhcó dung lượng lớn nhất từ trước tới nay với 133 điều luật được chia làm 9 chương. Với dung lượng như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có những sự sửa đổi, bổ sung phù hợp hơn với tình hình mới. Như vậy, thông qua việc tìm hiểu những quy định về hôn nhân và gia đình nói chung và vấn đề hôn nhân trái pháp luật nói riêng qua các thời kỳ lịch sử có thể thấy rằng trải qua hàng trăm năm với nhiều biến cố của lịch sử, quy định về hôn nhân trái pháp luật cũng có những thay đổi phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Hiện nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, quan hệ hôn nhân và gia đình trong đó có vấn đề hôn nhân trái pháp luật đang được điều chỉnh theo hướng văn minh, tiến bộ và được tập trung quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 với những quy định chặt chẽ, phù hợp với tình hình mới của đời sống xã hội. 11
- Chương 2 HÔN NHÂN TRÁI PHÁP LUẬT THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 2.1. Các trường hợp hôn nhân trái pháp luật 2.1.1. Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm độ tuổi kết hôn Trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, độ tuổi kết hôn là một trong những điều kiện kết hôn được quy định tại điều 8, cụ thể như sau: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. Độ tuổi kết hôn được pháp luật xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học và cơ sở xã hội nhất định. Về mặt khoa học, nam và nữ kết hôn với nhau là để thực hiện chức năng duy trì nòi giống. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng phải đạt đến độ tuổi này thì việc nam nữ xáo lập quan hệ hôn nhân và sinh con mới đảm bảo được sự “ ưu sinh”. Bởi bì, đến độ tuổi này, nam và nữ mới phát triển toàn diện về tâm sinh lý. Một số nghiên cứu trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản kết luận: các bà mẹ sinh con trước 18 tuổi thường hay mắc các vấn đề về sức khỏe. Những đứa con của các cặp hôn nhân xác lập quan hệ hôn nhân trước tuổi luật định hay mắc các bệnh về nhiễm sắc thể, sức đề kháng yếu, tỷ lệ tử vong sau sinh cao. Chính vì lẽ đó, việc quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu dựa trên cơ sở khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc duy trì nòi giống, đảm bảo sự phát triển lành mạnh về trí tuệ và thể chất cho những thế hệ sau, xây dựng gia đình bình yên, ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh những cơ sở khoa học, việc quy định độ tuổi kết hôn còn căn cứ vào những cơ sở về mặt xã hội như phong tục, tập quán, truyền thống, đạo đức xã hội, tâm lý, quan niệm của người Việt trong vấn đề hôn nhân và gia đình. Việt Nam chúng ta là một nước phương Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo, với truyền thống coi trọng gia đình, từ đó hình thành nên quan niệm “ nữ thập tam, nam thập lục”. Quan niệm này 12
- được hình thành từ rất lâu trong đời sống xã hội. Và hiện nay ở nhiều miền quê Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng rất lớn của quan niệm này. Điều này dẫn đến hiện tượng tảo hôn xảy ra ở nhiều nơi, nhất là nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi thế nên việc quy định độ tuổi hôn nhân như Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 hiện nay vừa đảm bảo hôn nhân được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học, vừa góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ những quan niệm về hôn nhân còn lạc hậu, cổ hủ. 2.1.2. Hôn nhân trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện Nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên, quan trọng nhất và xuyên suốt trong các quan hệ dân sự trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình. Sự tự nguyện trong quan hệ hôn nhân được hiểu là việc người nam và nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện sự mong muốn trở thành vợ chồng của nhau và không phụ thuộc vào ý chí của người khác. Hôn nhân là một quyền của con người. Hôn nhân không thể duy trì bền vững, gia đình không thể hạnh phúc nếu không có sự tự nguyện của cả hai bên nam và nữ. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là xu thế của cuộc sống hiện đại đồng thời cũng là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt trong các quan hệ dân sự nói chung và của Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng. Nguyên tắc này góp phần quan trọng vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân thời kỳ phong kiến, xây dựng chế độ hôn nhân xã hội chủ nghĩa văn minh và tiến bộ. Theo quy định của pháp luật thì cuộc hôn nhân sẽ được coi là trái pháp luật do vi phạm sự tự nguyện khi có hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc hành vi lừa dối kết hôn. 2.1.3. Kết hôn khi một hoặc cả hai bên bị mất năng lực hành vi dân sự Điều 22, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “ Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ 13
- được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định”. Và theo quy định tại điểm c, khoản 1, điều 8, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “ không bị mất năng lực hành vi dân sự” là một trong những điều kiện kết hôn mà hai bên nam, nữ phải tuân theo. Như vậy, một người sẽ không được quyền kết hôn khi có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó bị mất năng lực hành vi dân sự. Việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cho phép người bị mất năng lực hành vi dân sự kết hôn còn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của những người có liên quan. Bởi vì khi xác lập quan hệ hôn nhân, hai bên nam, nữ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhau và các nghĩa vụ đối với những người liên quan như cha mẹ, con cái. Bên cạnh đó, việc Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 không cho phép người bị mất năng lực hành vi dân sự kết hôn còn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của những người có liên quan. Bởi vì khi xác lập quan hệ hôn nhân, hai bên nam, nữ phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhau và các nghĩa vụ đối với những người liên quan như cha mẹ, con cái. Thêm vào đó, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu như cho phép người bị mất năng lực hành vi dân sự kết hôn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của những thành viên khác trong gia đình. Một điều nữa không thể không nói tới đó là dưới góc độ y học, tâm thần là một loại bệnh có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều này sẽ gây ra sự ảnh hưởng không tốt cho những đứa trẻ có cha hoặc mẹ bị mất năng lực dân sự. Hơn thế nữa nó còn ảnh hưởng không tốt cho gia đình và xã hội, gây ra nguy cơ đe dọa chất lượng dân số. 14
- 2.1.4. Kết hôn giả tạo Tại khoản 11, Điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia đình”. Bên cạnh đó, điểm a, khoản 2, điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định hôn nhân giả tạo là một trong những hành vi bị cấm kết hôn. Vì thế, kết hôn giả tạo là hành vi kết hôn trái pháp luật. Từ định nghĩa kết hôn giả tạo được quy định tại khoản 11, điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có thể thấy rằng, để xác định việc kết hôn trái pháp luật do kết hôn giả tạo cần phải căn cứ vào mục đích của việc kết hôn giữa hai bên nam, nữ. Nếu hai bên nam, nữ kết hôn với nhau không nhằm mục đích xây dựng cuộc sống gia đình mà vì nhằm đạt được một mục đích nào khác thì đều bị coi là kết hôn giả tạo và cuộc hôn nhân đó là hôn nhân trái pháp luật. 2.1.5. Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người chưa có vợ, có chồng mà kết hôn với người đang có chồng, có vợ Hôn nhân một vợ một chồng là cơ sở để tạo dựng hôn nhân lành mạnh, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hòa thuận, ấm no, hạnh phúc. “ Vì bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ... cho nên hôn nhân dựa trên tình yêu giữa nam và nữ do ngay bản chất của nó, là hôn nhân một vợ một chồng” (trích tác phẩm: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước). Thế nên hôn nhân một vợ một chồng là công cụ để bảo vệ tình yêu, bảo vệ hôn nhân, bảo vệ hạnh phúc gia đình. Trong luật pháp của Việt Nam, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được ghi nhận trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Tiêu 15
- biểu trong đó là tạo điều 36, Hiến Pháp năm 2013 có quy định: “ Nam, nữ co quyên kêt hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên t ́ ̀ ́ ắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau”. Trên cơ sở quy định của Hiến Pháp, khoản 1, điều 2 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng khẳng đình nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình như sau: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Thêm vào đó, khoản 2, điều 5, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định cấm hành vi: “Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”. Thực tế hiện nay cho thấy, người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác diễn ra khá nhiều thậm chí ngày càng gia tăng. Đặc biệt là đối với những người từ tỉnh lẻ di chuyển lên các thành phố lớn để làm ăn. Do khoảng cách địa lý nên rất khó để gia đình, người thân và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện được hành vi sống chung như vợ chồng với người khác. Thậm chí, có một số trường hợp còn giả mạo giấy tờ nhằm qua mặt cơ quan th ực thi pháp luật dẫn tới tình trạng có hai Giấy đăng ký kết hôn với hai người khác nhau. Điều đó cho thấy hành vi vi phạm điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình diễn ra ở nhiều nơi với nhiều cách khác nhau và để lại rất nhiều hệ lụy cho bản thân những người trong cuộc, cho gia đình, và cho xã hội. Trong khi đó, luật pháp của chúng ta lại chưa có những chế tài đủ mạnh nhằm ngăn ngừa, thậm chí là răn đe đối với người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ. Điều này vô hình chung làm cho quy định của Luật hôn nhân và gia đình trở nên hình thức, thiếu tính khả thi. Theo tôi, cần đưa ra những biện pháp chế 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 116 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 100 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn