intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: Truong Tien | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

99
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các khái niệm chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự có điều kiện. Nghiên cứu các yếu tố của hợp đồng dân sự có điều kiện và hiệu lực của hợp đồng dân sự có điều kiện. Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện: Thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam là có sự trùng lặp, thiếu nhất quán và không đồng bộ, Vấn đề về điều kiện trong hợp đồng dân sự có điều kiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý<br /> trong luật hình sự Việt Nam<br /> Nguyễn Thị Lan Anh<br /> Khoa Luật<br /> Luận văn Thạc sĩ ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40<br /> Người hướng dẫn: TS. GVC Trịnh Quốc Toản<br /> Năm bảo vệ: 2011<br /> Abstract: Trình bày khái niệm chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự có điều<br /> kiện. Nghiên cứu các yếu tố của hợp đồng dân sự có điều kiện và hiệu lực của hợp<br /> đồng dân sự có điều kiện. Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện:<br /> Thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam là có sự trùng lặp, thiếu nhất<br /> quán và không đồng bộ; Vấn đề về điều kiện trong hợp đồng dân sự có điều kiện. Đưa<br /> ra các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện :<br /> Cầ n hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t dân sự điều chỉnh chế định hợp đồng và hợp đồng dân sự có<br /> điều kiện; Cần phân biệt giữa "điều kiện" trong hợp đồng dân sự có điều kiện và "điều<br /> kiện" trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; Án lệ đối với việc giải quyết các<br /> tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự có điều kiện; Cần có các tiêu chí về điều<br /> kiện mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng dân sự có điều kiện; Quy định thêm các<br /> điều kiện làm điều kiện thay đổi hợp đồng dân sự có điều kiện…<br /> Keywords: Lỗi vô ý; Luật hình sự; Pháp luật Việt Nam<br /> Content<br /> MỞ ĐẦU<br /> 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu<br /> Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan là<br /> những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của<br /> người phạm tội. Những biểu hiện đó cùng với khách thể và chủ thể của tội phạm là những yếu<br /> tố cấu thành tội phạm (CTTP) - cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối<br /> với người phạm tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít<br /> nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì giữa những biểu<br /> hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là hoạt động của con người cụ thể,<br /> xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.<br /> Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội phạm được quy<br /> định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội phạm. Việc thừa nhận lỗi như là một căn<br /> cứ để truy cứu TNHS là một nguyên tắc cơ bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.<br /> Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn pháp luật việc quy định<br /> các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm nói chung và dấu hiệu lỗi nói riêng trong<br /> một số CTTP vẫn còn có những bất cập, hạn chế nhất định, như không quy định hoặc quy<br /> định về lỗi, các hình thức lỗi, trong đó có lỗi vô ý chưa rõ ràng, mâu thuẫn, thiếu thống nhất<br /> dẫn đến tình trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và quyết<br /> <br /> định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án hình sự hạn chế, tình<br /> trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều<br /> vụ án hình sự không được giải quyết theo trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có<br /> dấu hiệu gia tăng, v.v...<br /> Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu "Những vấn đề lý luận và thực<br /> tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của<br /> công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.<br /> 2. Tình hình nghiên cứu<br /> Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công<br /> trình khoa học nghiên cứu về vấn đề lỗi nói chung và lỗi vô ý nói riêng, điển hình như: Lê<br /> Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật<br /> hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2008), Tội phạm<br /> và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hũa (2004), Cấu<br /> thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư phỏp, Hà Nội; Đào Trí úc (2000), Luật hình sự<br /> Việt Nam, Quyển I: "Những vấn đề chung", NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh<br /> (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội;<br /> Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam<br /> (Phần chung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Dương Tuyết Miờn (2007), Định tội danh và<br /> quyết định hỡnh phạt, NXB Lao động - xó hội; Cao Thị Oanh, Vấn đề mặt chủ quan của đồng<br /> phạm, Tạp chớ Luật học 2/2002; Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề lỗi trong luật hỡnh sự, Tạp<br /> chớ Nhà nước và phỏp luật, số 11/1999; Lờ Thị Thu Thủy (2003), Nguyờn tắc trỏch nhiệm<br /> trờn cơ sở lỗi trong luật hỡnh sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật<br /> Hà Nội, Hà Nội, v.v..<br /> Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo, các luận án, luận<br /> văn và các bài báo khoa học về chế định lỗi vụ ý của các nhà khoa học luật hỡnh sự ở nước ta,<br /> cho thấy hầu hết đó là các công trình nghiên cứu cơ bản về cỏc vấn đề chung của luật hỡnh<br /> sự, còn đối với chế định lỗi vụ ý, nhìn một cách tổng quan, chưa được quan tâm một cách<br /> đúng mức. Những nghiên cứu về lỗi vụ ý mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu đơn lẻ,<br /> hoặc là đề cập đến cỏc yếu tố CTTP, hoặc là về mặt chủ quan của tội phạm, hoặc là được thể<br /> hiện một phần trong kết quả của các công trình nghiên cứu khác về phần chung của luật hỡnh<br /> sự. Cú thể núi hiện nay ở Việt nam vẫn chưa triển khai nghiên cứu có hệ thống, toàn diện và<br /> sâu sắc về lỗi vụ ý dưới góc độ lý luận và thực tiễn ỏp dụng. Do đú, nguyên nhân của những<br /> tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng những quy định về lỗi vụ ý chưa được phân tích có hệ<br /> thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.<br /> 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu<br /> 3.1. Mục đích nghiên cứu<br /> Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:<br /> - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam;<br /> - Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt nam quy định về lỗi vô ý và thực tiễn áp<br /> dụng trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, rút ra được những tồn tại, hạn chế của việc<br /> quy định và áp dụng các quy định về lỗi vô ý và những nguyên nhân của nó;<br /> - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy<br /> định của luật hình sự về lỗi vô ý.<br /> 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu<br /> Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những nhiệm<br /> vụ sau:<br /> <br /> 2<br /> <br /> - Nghiên cứu những vấn đề chung về lỗi, lỗi vô ý, các hình thức và vai trò của lỗi vô ý,<br /> phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và với sự kiện bất ngờ; Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của<br /> luật hình sự Việt Nam;<br /> - Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực tiễn pháp luật hình sự quy định về lỗi vô ý;<br /> - Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng các quy định về lỗi vô ý trong hoạt động xét<br /> xử của các Tòa các cấp từ năm 2005 đến 2010;<br /> - Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về lỗi vô ý trong BLHS hiện<br /> hành và thực tiễn áp dụng;<br /> - Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật quy định<br /> về lỗi vô ý, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng<br /> các quy định về lỗi vô ý.<br /> 4. Phương pháp nghiên cứu<br /> Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ<br /> nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.<br /> Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như:<br /> phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy,<br /> những vấn đề có liên quan tới lỗi vô ý được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo<br /> đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực.<br /> 5. Ý nghĩa của luận văn<br /> Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực<br /> tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác<br /> giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh<br /> phòng, chống tội phạm nói riêng.<br /> Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên<br /> cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học và các cán<br /> bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật,…<br /> 6. Những điểm mới của luận văn<br /> Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu hệ<br /> thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới<br /> của luận văn là:<br /> - Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam;<br /> - Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của lỗi vô ý trong Bộ<br /> luật hình sự (BLHS) hiện hành;<br /> - Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về lỗi vô ý; nêu ra<br /> những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật<br /> cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các<br /> giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về lỗi vô<br /> ý.<br /> 7. Kết cấu của luận văn<br /> Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận<br /> văn gồm 4 chương:<br /> Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.<br /> Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam.<br /> Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý.<br /> Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý<br /> và nâng cao hiệu quả áp dụng.<br /> <br /> 3<br /> <br /> Chương 1<br /> NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý<br /> TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM<br /> 1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý<br /> 1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý<br /> Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi của vấn đề, nhưng về<br /> cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất lỗi là một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội<br /> phạm, đó là sự kết hợp giữa yếu tố lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức<br /> hoặc không nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể hiện<br /> năng lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó để thực hiện một xử sự<br /> khác không trái với lợi ích của xã hội.<br /> Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm hình sự, thể hiện dưới<br /> hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả<br /> do hành vi đó gây ra trong khi họ có đủ điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù<br /> hợp với đòi hỏi của xã hội.<br /> Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của con người, khoa học<br /> luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.<br /> Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi và khả năng gây<br /> ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội;<br /> thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy<br /> ra.<br /> Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu đúng về nó, cần phải<br /> làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:<br /> - Yếu tố lý trí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy đủ đặc<br /> điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định thực hiện hành vi, họ<br /> không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.<br /> - Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù hợp với quy định của<br /> pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước bỏ điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một<br /> hành vi khác – hành vi trái pháp luật hình sự.<br /> Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm về lỗi vô ý như sau:<br /> Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi<br /> nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi<br /> trong khi có đủ điều kiện để nhận thức được.<br /> 1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý<br /> Các điều kiện để một người bị coi là có lỗi:<br /> Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do – năng lực nhận thức được đòi hỏi của xã hội và<br /> năng lực điều khiển được hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng<br /> lực trách nhiệm hình sự. Chỉ những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể có lỗi.<br /> Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong trường hợp cụ thể khi có điều<br /> kiện phát huy năng lực đó – điều kiện cho phép chủ thể trong trường hợp cụ thể biến năng lực<br /> tự do thành sự tự do thực sự.<br /> Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện cho phép trong trường hợp cụ<br /> thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã lựa chọn hành vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi mất tự<br /> do.<br /> Các điều kiện của lỗi vô ý:<br /> <br /> 4<br /> <br /> Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể hiện tính chất nguy<br /> hiểm cho xã hội của hành vi.<br /> Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu thả, thiếu thận trọng<br /> trong việc đánh giá hành vi.<br /> 1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý<br /> 1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin<br /> Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có<br /> thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có<br /> thể ngăn ngừa được.<br /> - Về lý trí: người phạm tội do vô ý vì quá tự tin trước khi lựa chọn, thực hiện hành vi đã<br /> nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và nhận thức được khả<br /> năng có thể xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.<br /> - Về ý chí: Người phạm tội do vô ý vì quá tự tin không mong muốn hành vi của mình gây<br /> ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa lỗi cố ý gián tiếp<br /> với lỗi vô ý vì quá tự tin.<br /> 1.1.3.2. Lỗi vô ý do cẩu thả<br /> Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có<br /> thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả<br /> đó.<br /> - Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã<br /> hội do hành vi của mình gây ra.<br /> - Dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội có nghĩa vụ phải thấy trước và có thể thấy trước hậu<br /> quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Nhưng người phạm tội đã không thấy vì cẩu thả,<br /> thiếu thận trọng trong khi lựa chọn, thực hiện hành vi.<br /> 1.2. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ<br /> 1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý<br /> Lỗi cố ý là hình thức lỗi, trong đó chủ thể lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho<br /> xã hội mặc dù đã ý thức (nhận thức) được các đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội<br /> của hành vi đó. Ở lỗi vô ý, người phạm tội không nhận thức được hoặc nhận thức không đầy<br /> đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khi quyết định thực hiện<br /> hành vi, không thấy được khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là sự khác nhau<br /> cơ bản giữa lỗi vô ý với lỗi cố ý, đối với lỗi cố ý về mặt ý chí chủ thể nhận thức rõ được các<br /> đặc điểm thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.<br /> Về mặt lý trí của lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi cố ý gián tiếp nói riêng và lỗi cố ý nói chung<br /> có sự giống nhau đó là đều thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Tuy<br /> nhiên, ở lỗi cỗ ý gián tiếp, khi lựa chọn thực hiện hành vi phạm tội chủ thể thấy trước được<br /> hậu quả nguy hiểm và đã chấp nhận khả năng hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra còn ở lỗi vô ý vì<br /> quá tự tin, chủ thể cũng thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhưng đã<br /> loại trừ khả năng đó, cho rằng khả năng đó không xảy ra hoặc sẽ ngăn ngừa được.<br /> 1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ<br /> Sự khác nhau trực diện cơ bản giữa lỗi vô ý và sự kiện bất ngờ đó là sự khác nhau giữa<br /> việc gây hậu quả nguy hiểm trong trường hợp có lỗi (lỗi vô ý) và gây hậu quả nguy hiểm<br /> trong trường hợp không có lỗi (sự kiện bất ngờ).<br /> Xét về bản chất của các hình thức lỗi vô ý trong đó có lỗi vô ý do cẩu thả và sự kiện bất<br /> ngờ, bên cạnh những điểm giống nhau, giữa chúng còn tồn tại những điểm khác nhau cơ<br /> bản. Lỗi vô ý do cẩu thả giống với sự kiện bất ngờ ở chỗ: chủ thể thực hiện hành vi đều<br /> không thể thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra.<br /> Nhưng trong trường hợp vô ý do cẩu thả thì chủ thể không thấy trước hậu quả nguy hiểm là<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2