intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: Tuhai999 Tuhai999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố các VAHS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là trách nhiệm mà Đảng và Nhà nước ta hướng tới trong công cuộc xây dựng NNPQ. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu lên những vấn đề cần phải đảm bảo như quyền con người, sự dân chủ hóa trong hoạt động tư pháp nhằm xây dựng một nền tư pháp vững mạnh, hạn chế đến mức thấp nhất việc oan sai, bỏ lọt tội phạm trong các VAHS. Từ khi BLTTHS năm 2015 được ban hành và có hiệu lực thi hành, việc quy định quyền của những người tham gia tố tụng trong VAHS đã được định hình khá rõ và ngày càng được các văn bản hướng dẫn cố gắng hoàn thiện phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế xã hội, xu thế phát triển của nền kinh tế và các hiệp ước mà Việt Nam ký kết với các khối kinh tế trên thế giới và gần đây nhất là việc ban hành Bộ luật TTHS 2015 lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng Việt Nam xuất hiện khái niệm bị can, bị cáo là pháp nhân. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng nói chung mà đặc biệt là quyền của bị can nói riêng trong thực tiễn vẫn chưa được hiệu quả. Bị can với địa vị pháp lý bất lợi của mình khi tham gia vào các hoạt động TTHS thường gặp những trở ngại khi thực hiện các quyền của mình Quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng là một quận trung tâm, với dân số đông, tốc độ phát triển kinh tế xã hội nhanh, các giao dịch dân sự, kinh tế diễn ra sôi động. Chính vì lẽ đó, tình hình tội phạm xảy ra trên địa bàn quận Hồng Bàng diễn ra rất phức tạp. Hàng năm, Cơ quan điều tra (CQĐT) công an quận Hồng Bàng khởi tố hàng trăm vụ án với hàng trăm bị can, số lượng VAHS đã khởi tố trên địa bàn quận Hồng Bàng luôn dẫn đầu toàn thành phố Hải Phòng. Trong quá trình giải quyết VAHS nói 1
  2. chung trong đó có hoạt động khởi tố VAHS nói riêng các cơ quan có thẩm quyền đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của bị can nói chung trong TTHS. Tuy nhiên, có những thời điểm, tại một số vụ án cụ thể vấn đề này chưa thực sự được quan tâm, còn xảy ra một số hạn chế, tồn tại nhất định. Việc nghiên cứu vấn đề về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các vụ án hình để đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp hoàn thiện Bộ luật TTHS (BLTTHS), là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội pham, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tư an toàn xã hội, bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án - Từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng”, làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người nói chung, quyền của bị can trong TTHS nói riêng như: - “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS”, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, do Lê Văn Cảm; Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, năm 2006. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người trong luật hình sự và TTHS. Trong nội dung nghiên cứu của công trình cũng có những nội dung đề cập trực tiếp đến việc bảo vệ quyền con người dưới góc độ áp dụng biện pháp ngăn chặn. - Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can trong TTHS Việt Nam” của Lại Văn Trình, TP. Hồ Chí Minh, bảo vệ 2
  3. năm 2011. Đây là công trình nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền của người bị bắt tạm giữ, tạm giam. Biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn tác động tiêu cực tới đảm bảo quyền của người bị áp dụng, do đó cần phải tiến hành một cách chặt chẽ và đảm bảo điều kiện cũng như thủ tục nghiêm túc. - Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận cơ bản, của Lê Văn Cảm, Báo Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, Số 7/2010. Trong bài náo của mình, tác giả phân tích về những nội dung liên quan đến bảo đảm quyền con người bằng pháp luật TTHS có liên quan. Đặc biệt nghiên cứu về địa vị pháp lý của bị can trong TTHS đặc biệt là quyền của bị can trong TTHS có thể thấy một số công trình sau: - Luận án tiến sỹ luật học “Hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can, bị cáo” năm 2015 của tác giả Nguyễn Sơn Hà; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam” - Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2006; Các bài tạp chí “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong TTHS Việt Nam” của Hoàng Thị Minh Sơn, Tạp chí Luật học số 3/2011; Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát số 01/2009; “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Trần Văn Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2011; Võ Quốc Tuấn (2015), “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các VAHS”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7... Các công trình khoa học, bài viết nêu trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung hoặc quyền con người của một nhóm đối tượng nhất định 3
  4. (như người bị tạm giữ, bị can nói chung hoặc người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can), trong toàn bộ quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử, hoặc chỉ tập trung vào giai đoạn xét xử VAHS. Trong Luận văn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS nhằm đưa ra những đánh giá về thực trạng quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện nhằm phát huy các phương thức đảm bảo quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm phạm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố các VAHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như khái niệm quyền của bị can, quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án, đặc điểm của quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS, quy định của pháp luật TTHS về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS. - Phân tích thực trạng quy định về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo BLTTHS năm 2015 có so sánh đối chiếu với các quy định của BLTTHS trước đó. Từ đó rút ra những hạn chế, bất cập của 4
  5. một số quy định pháp luật và hạn chế, bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS những năm qua. - Nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong TTHS nói chung và trong giai đoạn khởi tố VAHS nói riêng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng, từ đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế bất cập trong thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thiệu quả bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo BLTTHS ở Việt Nam hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS theo quy định của BLTTHS 2015 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng. Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan đến đề tài gắn với quá trình thi hành BLTTHS năm 2003 và 2015 trong địa bàn quận Hồng Bàng thành phố Hải Phòng trong 05 năm (2013-2017). 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng NNPQ (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính như: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên 5
  6. cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp logic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp khoa học của Luận văn Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người, quyền của bị can trong TTHS, đặc biệt là luận giải việc bảo đảm quyền của bị can trong một giai đoạn tố tụng cụ thể là giai đoạn khởi tố VAHS. Làm rõ cơ sở xác định nội dung, mục đích, nhiệm vụ bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS. Phân tích và đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS cũng như thực tiễn thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Thông qua đó, Luận văn đưa ra được số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS và một số các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố các VAHS. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự - từ thực tiễn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng 6
  7. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái quát chung về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền của bị can Bị can là đối tượng bị điều chỉnh bởi các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật khi có căn cứ rằng chủ thể đó có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Quyền của bị can là những điều mà pháp luật quy định cho người đã bị khởi tố về hình sự được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Khởi tố VAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS, trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có căn cứ để ra quyết định khởi tố VAHS hoặc quyết định không khởi tố VAHS. Kết thúc giai đoạn khởi tố VAHS sẽ là sự khởi đầu cho một giai đoạn mới hoặc chấm dứt quá trình tố tụng. Khởi tố VAHS là một giai đoạn TTHS cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. 1.1.3. Khái niệm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố VAHS đó là những quyền mà pháp luật TTHSu quy định cho người mà đã có quyết định khởi tố về 7
  8. hình sự cho đến khi vụ án được khởi tố xong được hưởng, được làm, được đòi hỏi khi tham gia vào giai đoạn khởi tố VAHS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.2. Ý nghĩa và nội dung của bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 1.2.1. Ý nghĩa của bảo đảm thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Về phương diện chính trị - xã hội việc quy định địa vị pháp lý của bị can trong TTHS làm thể hiện rõ mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, giữa bị cáo với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tốt tụng. Công dân được Nhà nước quy định cho những quyền cụ thể trong pháp luật; Nhà nước phải bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền đó trong khuôn khổ luật định, đồng thời pháp luật cũng quy định những nghĩa vụ cơ tương ứng mà công dân phải thực hiện để bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội. Ý nghĩa pháp lý là phương tiện quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng. Pháp luật tác động lên các quan hệ đó bằng cách quy định cho các bên tham gia các quan hệ một số quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định, đồng thời pháp luật cũng thiết lập cả điều kiện để bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ pháp lý đó được thực hiện. 1.2.2. Nội dung pháp luật về quyền của bị can Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLTTHS năm 2015 thì “bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự” [52]; Bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của bị can (Khoản 2 Điều 60). * Quyền được biết lý do mình bị khởi tố * Quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ 8
  9. * Quyền được nhận quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố và các quyết định tố tụng khác * Quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội * Quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu * Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ki m tra, đánh giá * Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật * Quyền tự bào chữa, nhờ người khác bào chữa * Quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa k từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu * Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng 1.3. Các điều kiện bảo đảm thực hiện quyền của bị can Quyền của bị can cũng như quyền của các chủ thể bất kỳ nào trong các quan hệ pháp luật đều phải được đảm bảo thực hiện bằng các cơ chế mang tính pháp lý mới có giá trị thực tiễn. Hệ thống pháp luật TTHS hiện nay thể hiện quyền của bị can được đảm bảo thực hiện thông qua các cơ chế cụ thể đó là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS và các quy định cơ bản về quyền của bị can. 9
  10. Thứ nhất, đảm bảo thực hiện quyền của bị can bằng các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật TTHS. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động TTHS. Các nguyên tắc này được thể hiện trong BLTTHS năm 2003 từ Điều 3 đến Điều 32 và trong BLTTHS năm 2015 từ Điều 7 đến Điều 33. Thứ hai, đảm bảo thực hiện quyền của bị can bằng các quy định đầy đủ, hợp lý địa vị pháp lý của các chủ th TTHS trong Bộ luật tố tụng hình sự. Qua việc quy định cụ thể, đầy đủ các quyền tố tụng của bị can và cả của người tiến hành tố tụng sẽ là cơ sở để đảm bảo cho việc thực hiện quyền của bị can trong TTHS. Đối với bị can, việc quy định đầy đủ các quyền tố tụng của họ là đảm bảo pháp lý quan trọng để họ sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; đồng thời cũng là cơ sở pháp lý làm phát sinh trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm cho việc thực hiện các quyền của bị can cũng như trách nhiệm pháp lý khi các cơ quan, người tiến hành tố tụng vi phạm quyền của bị can. Thứ ba, đảm bảo thực hiện quyền của bị can bằng cách quy định thủ tục TTHS dân chủ, công khai. Trong Nhà nước pháp quyền, việc dân chủ hóa mọi mặt trong đời sống xã hội nói chung, dân chủ hoạt hoạt động TTHS là một xu thế tất yếu. Đối với thủ tục TTHS, việc dân chủ, công khai các quá trình, thủ tục TTHS sẽ đảm bảo cho bị can thực hiện các quyền tố tụng của mình một một cách hữu hiệu hơn. 10
  11. Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. Thực trạng khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng 2.1.1. Khái quát chung về quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng Hồng Bàng có vị trí ở khu vực trung tâm của thành phố Hải Phòng tiếp giáp trực tiếp với sông Cấm. Đây là vị trí quan trọng về chính trị, hành chính, kinh tế, an ninh quốc phòng và văn hoá - xã hội của thành phố Cảng. Vị trí địa lý đặc thù của quận thuận lợi cho phát triển dịch vụ thương mại, du lịch, dịch vụ cảng, dịch vụ tài chính, viễn thông CNTT, dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe, dịch vụ giáo dục - đào tạo; phát triển các ngành công nghiệp, có công nghệ kỹ thuật hiện đại, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao như công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển, sản xuất sản phẩm cơ khí siêu trường, siêu trọng, dây cáp ngầm điện cao thế, hoá chất… 2.1.2. Tình hình khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017 Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn quận Hồng Bàng, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hồng Bàng đã diễn ra rất phức tạp. Có nhiều vụ án rất nghiêm trọng đã xảy ra. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan tiến hành tố tụng các cấp quận Hồng Bàng đã tiến hành khởi tố nhiều vụ án hình sự để điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý nghiêm minh tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. 11
  12. Trong 5 năm, từ năm 2013 đến 2017, các CQĐT tại quận Hồng Bàng đã khởi tố tổng số 619 vụ án hình sự với 718 bị can. Tính trung bình mỗi năm CQĐT các cấp khởi tố, điều tra 120 vụ án hình sự với 130 bị can. Trong số các bị can bị khởi tố chiếm tỷ lệ cao nhất là các bị can phạm các tội xâm phạm trật tự xã hội (các tội xâm phạm nhân thân, các tội xâm phạm sở hữu v.v...), chiếm khoảng 53%; bị can phạm các tội phạm về ma túy chiếm khoảng 21%; bị can phạm các tội phạm về kinh tế, chức vụ chiếm khoảng 16%; bị can phạm các tội phạm khác (các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội xâm phạm trật tự, an toàn công cộng và trật tự quản lý hành chính v.v...) chiếm tỷ lệ khoảng 10%. [45]. 2.2. Những kết quả đạt được trong thực hiện pháp luật về quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng 2.2.1. Thực hiện quyền của bị can trong xác định các căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự Trong những năm vừa qua, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng nói chung và của quận Hồng Bàng nói riêng tương đối thuận lợi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, tình hình tội phạm đang ngày một diễn biến phức tạp trên địa bàn. Có thể thấy được tình hình đó qua kết quả khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận như sau: 2.2.2. Thực hiện quyền của bị can trong việc xác định thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự Việc khởi tố vụ án cần xác định đúng thẩm quyền. Theo quy định của BLTTHS thì thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự thuộc về CQĐT, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS. 12
  13. 2.2.3. Thực hiện quyền của bị can trong trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự Trước hết là các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; kiểm tra, xác minh, bổ sung tin báo về tội phạm; Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. BLTTHS quy định những yêu cầu bắt buộc đối với một quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ, điều khoản, họ, tên, chức vụ người ra quyết định. Hội đồng xét xử phải gửi quyết định khởi tố vụ án cho VKS để xem xét, quyết định việc điều tra hoặc gửi yêu cầu khởi tố cho VKS để xem xét, quyết định việc khởi tố. VKS khi nhận được yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử có trách nhiệm tiến hành kiểm tra, xác minh hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan kiểm tra, xác minh xem có đủ dấu hiệu tội phạm làm căn cứ khởi tố hay không và ra các quyết định phù hợp khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. 22.3. Những hạn chế trong thực hiện quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và nguyên nhân 2.3.1. Những hạn chế Thứ nhất, để bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự nói chung trong đó có quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố thì BLTTHS còn thiếu sót trong một số quy định về nguyên tắc cơ bản của TTHS trong đó có những nguyên tắc làm nền tảng cho vấn đề bảo vệ quyền con người như: - BLTTHS 2015 cũng chưa quy định minh oan là một nguyên tắc TTHS. Mặc dù cho đến nay, giá trị nhân đạo của nguyên tắc minh oan trong TTHS đã được thừa nhận chung trong pháp luật TTHS tiến bộ trên thế giới. Minh oan trên thực tế không chỉ có giá trị về mặt pháp lý mà nó có ý nghĩa, giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. 13
  14. - Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, cũng như quy định về quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng khác chưa được hoàn thiện. Cụ thể BLTTHS chưa phân biệt được về quyền bào chữa với quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia TTHS xuất phát từ bản chất của hoạt động buộc tội, hoạt động bào chữa cũng như hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong TTHS. - Hạn chế, thiếu sót trong quy định về nghĩa vụ chứng minh, xác định sự thật khách quan vụ án. Điều 15 BLTTHS quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm chung thuộc CQĐT, VKS, Tòa án; coi CQĐT, VKS và Tòa án có trách nhiệm như nhau trong chứng minh tội phạm mà chưa phân biệt được nghĩa vụ chứng minh của mỗi cơ quan trên cơ sở chức năng TTHS, thể hiện chưa chính xác về vai trò, vị trí, chức năng của các cơ quan THTT trong TTHS, chưa phân biệt được chức năng công tố của VKS với chức năng tư pháp của Tòa án, quy định trên mặc nhiên coi Tòa án cũng là cơ quan có nghĩa vụ chứng minh tội phạm và là cơ quan buộc tội, quy định này không phù hợp với khoản 1 điều 102 Hiến pháp 2013 “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCNViệt nam, thực hiện quyền tư pháp”. Thứ hai, hạn chế trong quy định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. - Quy định về quyền hạn của người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn rất hạn chế, chưa đảm bảo tính chủ động của họ trong việc độc lập ra các quyết định tố tụng nhằm bảo vệ quyền con người trong TTHS như thay đổi biện pháp ngăn chặn, cấp giấy chứng nhận bào chữa…. Thứ ba, những hạn chế trong quy định về thẩm quyền khởi tố. 14
  15. Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy quy định BLTTHS năm 2015 vẫn chứa đựng những bất cập đó là: - BLTTHS năm 2015, mới chỉ quy định VKS kháng nghị lên Tòa án cấp trên đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, mà chưa quy định Tòa án cấp trên giải quyết vấn đề này như thế nào? 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế Những tồn tại, hạn chế trên trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn khởi tố nói riêng vi phạm quyền của bị can là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy có một số nguyên nhân cơ bản sau đây: Thứ nhất, do bất cập trong các quy định của BLTTHS. Thứ hai, một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng khởi tố oan sai, không đúng trình tự, thủ tục là do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ trong CQĐT, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra còn nhiều hạn chế, ý thức pháp luật còn chưa được đề cao. Thứ ba, chế độ trách nhiệm chưa được quy định rõ ràng, minh bạch, được truy cứu chưa thật nghiêm minh đối với các vi phạm quyền con người từ phía người tiến hành tố tụng nói chung, CQĐT nói riêng. Chế tài tố tụng đối với các vi phạm chưa rõ ràng, thiếu cụ thể. 15
  16. Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN – TỪ THỰC TIỄN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 3.1. Quan điểm bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Con người luôn được xác định là mục tiêu, là động lực của cách mạng, cho nên, Đảng ta xác định: "Chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hóa, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt". Vì thế, để đảm bảo QCN trong TTHS nhất thiết phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động này. Theo đó có những quan điểm cơ bản cần được quán triệt sau đây: 3.1.1. Tăng cường bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự phải thể hiện được những quan điểm của Đảng, Nhà nước về quyền con người 3.1.2. Tăng cường bảo đảm quyền của bị can trong khởi tố vụ án hình sự phải phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia 3.1.3. Tăng cường bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự phải dựa trên cơ sở đổi mới tư duy pháp lý nhận thức đúng mối quan hệ giữa Nhà nước, pháp luật và quyền con người 3.1.4. Tăng cường bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự phải gắn liền với việc xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng bảo vệ Đảng và Nhà nước 16
  17. 3.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường quy định về quyền con người nói chung, quyền của bị can nói riêng * Về nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự: - Hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can (Điều 11). Đây là nguyên tắc TTHS rất quan trọng. - Hoàn thiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Xác định sự thật khách quan của vụ án là điều kiện quan trọng quyết định cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của người tham gia tố tụng nói chung, của người bị tạm giữ, bị can nói riêng. - Bổ sung nguyên tắc minh oan trong TTHS. Thể hiện tính nhân đạo, trách nhiệm của Nhà nước, của các cơ quan THTT, người THTT, người tham gia tố tụng cũng như của toàn xã hội đối với người bị kết án oan, BLTTHS cần quy định về đầy đủ về nguyên tắc minh oan trong TTHS với các nội dung cơ bản sau: * Hoàn thiện quy định về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, đặc biệt về quyền và nghĩa vụ của bị can. - Bổ sung quyền giữ im lặng: Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử ở nước ta đã có nhiều trường hợp bị can giữ thái độ im lặng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. - Về quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân BLTTHS năm 2015 đã có quy định mới về khái niệm bị can, bị cáo khi mở rộng đối tượng bị can, bị cáo không chỉ là cá nhân mà còn có thể là pháp nhân (khoản 1 Điều 60 và khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015). 17
  18. - Về quyền của bị can trong việc đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa k từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu Điểm i khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu. Tác giả cho rằng trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, bị can đã được biết lý do khởi tố, được giải thích quyền và nghĩa vụ; có quyền trình bày lời khai, được đọc lại trước khi ký bản cung; - Về quyền khiếu nại của bị can đối với quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng Điểm k khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định bị can có quyền khiếu nại của bị can đối với quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền này của bị can luôn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Do đó, cần phải hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, với những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của những người có thẩm quyền. 3.2.2. Các giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong giai đoạn khởi tố vụ án ở Việt Nam hiện nay * Nâng cao nhận thức, trình độ của Điều tra viên, Ki m sát viên trong khởi tố vụ án hình sự Như đã phân tích trên, bảo đảm QCN trong tố tụng hình sự nói chung và giai đoạn khởi tố vụ án hình sự nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận thức của người áp dụng 18
  19. pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Đặc biệt, trong BLTTHS nhiều quy định được áp dụng hay không lại tùy thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền. * Tăng cường hướng dẫn áp dụng BLTTHS, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân Đảm bảo QCN nói chung và đảm bảo QCN trong TTHS có mối quan hệ mật thiết với trình độ nhận thức và ý thức pháp luật của con người. Thực trạng về HĐTT đã cho thấy, một trong các nguyên nhân quan trọng dẫn tới việc vi phạm QCN trong lĩnh vực này là do trình độ nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân dân nói chung và của cán bộ công chức các cơ quan tư pháp nói riêng chưa được đầy đủ, ý thức pháp luật chưa cao. * Tăng cường xử lý vi phạm, khắc phục kịp thời các hậu quả của vi phạm quyền con người do hoạt động tố tụng hình sự gây ra Bản chất của HĐTT là là bảo vệ QCN, đó là việc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định trong HĐTT thông qua trình tự tố tụng giải quyết các vụ án hình sự. * Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền của bị can Trong hoạt động nói chung, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc có mối quan hệ mật thiết với hiệu lực, hiệu quả công việc được thực hiện bởi cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc đó. Khi cơ sở vật chất trang thiết bị làm việc đảm bảo về số lượng, chất lượng thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động sẽ cao và ngược lại. * Tăng cường vai trò của người bào chữa nhằm bảo đảm quyền của bị can trong tố tụng hình sự Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng không chỉ giúp bị can bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mà còn góp phần trong việc 19
  20. xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội phạm. Tuy nhiên vị trí, vai trò của luật sư chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm theo yêu cầu của pháp luật. * Tăng cường hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp hình sự về bảo vệ quyền của bị can Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực, trong đó có hoạt động bảo vệ QCN là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, tiến hành “với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL... với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập”. 3.2.3. Các giải pháp cụ thể tại quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng * Các giải pháp đối với hoạt động của CQĐT công an quận Hồng Bàng. Thứ nhất, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm các tổ chức, các lực lượng trong nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của CQĐT công an quận Hồng Bàng hiện nay. Nhận thức giữ vai trò quan trọng trong định hướng và chỉ đạo hoạt động của con người. Nhận thức đúng là cơ sở để có trách nhiệm, hành động đúng đắn, xây dựng ý chí, quyết tâm, trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ. Thứ hai, nâng cao chất lượng quy hoạch, tạo nguồn, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CQĐT công an quận Hồng Bàng hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, trong thời gian tới CQĐT công an quận Hồng Bàng cần bám sát và thực hiện tốt một số định hướng sau: xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chuẩn hóa nội dung, chương trình đào tạo phù hợp; đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2