Trách nhiệm hình sự của ngƣời chƣa thành<br />
niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam<br />
Dƣơng Thị Ngọc Thƣơng<br />
Khoa Luật<br />
Luận văn ThS Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự<br />
Mã số 60 38 01 04<br />
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Chu Thị Trang Vân<br />
Năm bảo vệ: 2013<br />
<br />
Abstract. Làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự (TNHS) của ngƣời<br />
chƣa thành niên (NCTN) phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Tập trung nghiên cứu<br />
khái quát về TNHS, TNHS của NCTN, các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam<br />
về TNHS của NCTN và thực tiễn xét xử NCTN phạm tội tại địa bàn thành phố Hồ Chí<br />
Minh.Thứ hai, nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội trong luật hình sự Việt Nam<br />
hiện hành. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, quy định hình và các biện pháp tƣ<br />
pháp áp dụng với NCTN phạm tội. Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện<br />
pháp luật hình sự Việt Nam và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định<br />
này.<br />
Keywords. Trách nhiệm hình sự; Ngƣời chƣa thành niên; Pháp luật Việt Nam; Phạm<br />
tội; Luật hình sự.<br />
<br />
Content<br />
MỞ ĐẦU<br />
<br />
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI<br />
Ở nƣớc ta trong những năm qua, hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật đã có<br />
những tác động rõ rệt đối với đời sống của toàn xã hội. Những quy định trong Hiến pháp,<br />
trong các luật và văn bản dƣới luật luôn đề cao tính nhân đạo và nhân văn bảo đảm tính hợp<br />
hiến, hợp pháp của Nhà nƣớc. Hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các quyền và<br />
<br />
lợi ích cơ bản của con ngƣời, của công dân, bảo vệ Nhà nƣớc và chế độ xã hội chủ nghĩa.<br />
Trong đó, cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự là một trong những công cụ hết<br />
sức quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc ta trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội khi phát sinh<br />
hành vi nguy hiểm cho xã hội. Luật hình sự có vai trò bảo vệ các quan hệ xã hội đƣợc các<br />
luật khác thiết lập, đồng thời thực hiện vai trò bảo vệ thông qua việc trừng phạt nghiêm<br />
minh các hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội.<br />
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,<br />
nền kinh tế nƣớc ta phát triển theo kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đã đạt<br />
đƣợc những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nhƣ: ứng phó<br />
có kết quả trƣớc những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và trong nƣớc; cơ bản giữ vững<br />
ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ phát triển đạt đƣợc mức khá cao, GDP trên đầu ngƣời năm 2012<br />
đã vƣợt mức 1.300 USD. Đời sống của nhân dân tiếp tục đƣợc cải thiện; chính trị - xã hội ổn<br />
định; quốc phòng - an ninh đƣợc tăng cƣờng; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh<br />
thổ đƣợc giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế đƣợc mở rộng, vị thế, uy tín quốc tế<br />
của nƣớc ta ngày càng đƣợc nâng cao.<br />
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt đƣợc, nƣớc ta vẫn còn gặp nhiều khó<br />
khăn và thách thức to lớn nhƣ tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã tác động, ảnh<br />
hƣởng nhất định đến đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của nƣớc ta. Nguy cơ phá vỡ các nền<br />
văn hóa truyền thống của dân tộc, nhất là các truyền thống văn hóa nhân văn nhƣ: lối sống,<br />
đạo đức, nghệ thuật,… bởi quá trình toàn cầu hóa đã tạo điều kiện cho các dòng văn hóa thác<br />
loạn, lối sống không tốt của các nƣớc tràn ngập vào ồ ạt, bất khả kháng không thể chặn nổi.<br />
Trong đó, thanh niên và NCTN là đối tƣợng dễ bị tác động nhất.<br />
Đối với mỗi quốc gia thanh niên bao giờ cũng giữ một vai trò hết sức to lớn, họ là sức<br />
sống hiện tại và tƣơng lai của dân tộc. Thanh niên luôn là lực lƣợng chiến lƣợc mà mỗi quốc<br />
gia, dân tộc quan tâm đầu tƣ, phát triển. Sinh thời, Bác Hồ đã dạy “Nước nhà thịnh hay suy,<br />
yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên” và tƣơng lai đất nƣớc “Việt Nam có được<br />
vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ một phần rất<br />
lớn ở công học tập của các cháu”.<br />
Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành<br />
Trung ƣơng khóa X về tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ<br />
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đã xác định mục tiêu chung “Tiếp tục xây dựng thế<br />
hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước, tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập<br />
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì<br />
<br />
cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, tri thức, kỹ năng và<br />
tác phong công nghiệp trong lao động tập thể, trở thành những công dân tốt của đất<br />
nước…”.<br />
Trong phạm vi cả nƣớc thực tế vấn đề NCTN phạm tội đã gióng lên những hồi chuông<br />
cảnh tỉnh đáng báo động. Cụ thể, theo số liệu thống kê của Bộ Công an trong năm 2010, toàn<br />
quốc có 13.572 đối tƣợng phạm tội là thanh thiếu niên, tăng nhiều lần so với những năm trƣớc<br />
về số lƣợng phạm tội và cả các vụ trọng án. Về độ tuổi, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều<br />
tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm do NCTN từ đủ 16 tuổi đến dƣới 18 tuổi<br />
thực hiện có chiều hƣớng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến<br />
dƣới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dƣới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm<br />
tội do NCTN và trẻ em thực hiện.<br />
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị lớn của đất nƣớc, là trung tâm kinh tế, khoa<br />
học, kỹ thuật, văn hóa của khu vực phía Nam, với dân số trên 8 triệu ngƣời, hàng năm thu hút<br />
số lƣợng lớn ngƣời lao động, học sinh, sinh viên từ những tỉnh thành khác đổ về thành phố để<br />
tìm kiếm việc làm và học tập. Do đó, đã tạo ra một áp lực lớn cho thành phố về mật độ dân<br />
cƣ, đời sống vật chất, tinh thần của ngƣời dân và nhất là tình hình an ninh trật tự diễn biến<br />
ngày càng phức tạp. Số lƣợng NCTN phạm tội có chiều hƣớng gia tăng trong những năm gần<br />
đây, theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, từ năm 2007 đến năm 2011 trên địa bàn<br />
thành phố Hồ Chí Minh đã đƣa ra khởi tố và xử lý 1.680 vụ phạm tội các loại, với 3.779 bị<br />
can. Trong đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định<br />
khởi tố 184 vụ án do NCTN thực hiện, chiếm 10,9% trong tổng số vụ án. Số bị can là NCTN<br />
có 310 ngƣời, chiếm 8,2% trong tổng số bị can. Về tính chất, mức độ phạm tội của NCTN<br />
ngày càng nghiêm trọng hơn, thủ đoạn hoạt động tinh vi, xảo quyệt hơn, đa dạng, sử dụng<br />
nhiều loại phƣơng tiện công cụ nguy hiểm, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng.<br />
Từ các vấn đề trên, Tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “TNHS của NCTN phạm tội<br />
trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề<br />
tài luận văn tốt nghiệp. Qua đó, nghiên cứu một cách toàn diện về TNHS của NCTN phạm tội<br />
trong Luật hình sự Việt Nam, đồng thời kiến nghị những giải pháp khắc phục nhằm hƣớng tới<br />
một hệ thống pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn, nhân văn hơn.<br />
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU<br />
Trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu khoa học trực tiếp<br />
hoặc gián tiếp nghiên cứu đến đề tài này, hoặc nghiên cứu ở trong tƣơng quan là một<br />
<br />
phần, một mục trong các sách giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khoa học hoặc đề<br />
cập chung khi các nhà làm luật nghiên cứu về TNHS.<br />
Về sách bình luận khoa học, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các nghiên cứu:<br />
“Chương XVIII – Những đặc thù về TNHS đối với NCTN phạm tội” trong giáo trình Luật hình<br />
sự Việt Nam (Phần chung), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007, TS. Trịnh Quốc Toản,<br />
TS. Hoàng Văn Hùng; “Chương XVI – TNHS đối với NCTN phạm tội”, trong sách giáo trình<br />
Luật hình sự Việt Nam (Tập thể Tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên).<br />
Đối với các công trình dƣới dạng bài viết đƣợc đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý<br />
có thể kể đến các công trình nhƣ: bài viết “Tư pháp hình sự đối với NCTN; Những khía cạnh<br />
pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học (Phấn thứ I, những khía<br />
cạnh pháp lý hình sự)” của GS.TSKH Lê Văn Cảm và TS. Đỗ Thị Phƣợng đăng trên Tạp chí<br />
Tòa án nhân dân, số 20-10/2004; ThS. Nguyễn Thanh Trúc có bài viết “Biện pháp miễn chấp<br />
hành có điều kiện thời hạn còn lại của hình phạt tù đối với NCTN phạm tội” trên Tạp chí<br />
nghiên cứu lập pháp, số 20 (136) tháng 12/2008.<br />
Một số đề tài luận văn thạc sĩ cũng đã khai thác nghiên cứu các khía cạnh của vấn<br />
đề về khoa học Luật hình sự hoặc Tội phạm học nhƣ: đề tài “TNHS của NCTN phạm tội<br />
trong Luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Dũng, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, năm<br />
2003; đề tài “Bảo đảm quyền con người của NCTN phạm tội bằng các quy định về hình<br />
phạt trong Luật hình sự Việt Nam” của Lê Vũ Huy, trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ<br />
Chí Minh, năm 2011.<br />
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đóng góp không nhỏ vào hệ thống khoa học<br />
pháp lý đối với NCTN nói chung cũng nhƣ khoa học pháp lý hình sự về NCTN nói riêng. Các<br />
nghiên cứu đó hoặc tiếp cận dƣới góc độ khoa học pháp lý chung, hoặc khoa học Luật hình<br />
sự, Luật tố tụng hình sự hoặc Tội phạm học. Tuy nhiên, vẫn chƣa có công trình nào đề cập có<br />
hệ thống, toàn diện và đồng bộ về TNHS của NCTN phạm tội và đƣợc gắn trên phạm vi một<br />
địa bàn lớn của cả nƣớc là thành phố Hồ Chí Minh, xét ở cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật. Do<br />
đó, với vai trò vừa là một cán bộ Đoàn, vừa là Hội thẩm nhân dân đƣợc thƣờng xuyên tham<br />
gia vào các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NCTN phạm tội, Tác giả lựa chọn đề<br />
tài này nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, Tác giả cũng đã kế thừa, tiếp thu có chọn lọc<br />
đƣợc nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu trƣớc đó trong việc hoàn thiện nghiên cứu<br />
khoa học của mình.<br />
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU<br />
<br />
3.1. Mục đích nghiên cứu<br />
Đề tài tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của NCTN<br />
phạm tội theo BLHS Việt Nam hiện hành, trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu tại địa bàn<br />
thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2007 đến năm 2011. Xác định những hạn chế trong việc áp<br />
dụng các quy định về TNHS của NCTN phạm tội, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm<br />
góp phần hoàn thiện chế định này trong BLHS Việt Nam hiện hành.<br />
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu<br />
Để thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu:<br />
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về TNHS của NCTN phạm tội trong Luật<br />
hình sự Việt Nam. Trong đó tập trung nghiên cứu khái quát về TNHS, TNHS của NCTN,<br />
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về TNHS của NCTN và thực tiễn xét xử<br />
NCTN phạm tội tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh<br />
Thứ hai, nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội trong luật hình sự Việt Nam hiện<br />
hành. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, quy định hình phạt và các biện pháp tƣ pháp áp<br />
dụng với NCTN phạm tội.<br />
Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam và<br />
các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này.<br />
3.3. Phạm vi nghiên cứu<br />
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu TNHS của NCTN phạm tội, luận văn có<br />
một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu cụ thể nhƣ sau:<br />
Thứ nhất, về địa bàn nghiên cứu Tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu trên địa bàn<br />
thành phố Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn xét xử trong vòng 5 năm từ năm 2007 đến năm<br />
2011.<br />
Thứ hai, về số liệu thống kê dựa theo số liệu của VKSND thành phố Hồ Chí Minh.<br />
Tác giả giới hạn số liệu thống kê về tình hình các vụ án do NCTN thực hiện đƣợc đƣa ra xét<br />
xử trên 24 Quận Huyện của thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 5 năm (2007 – 2011). Số liệu<br />
đƣợc Tác giả thu thập từ VKSND thành phố Hồ Chí Minh.<br />
4. CƠ SỞ PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
4.1. Cơ sở phương pháp luận<br />
<br />