Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào
lượt xem 2
download
Nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương được trình bày như sau: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí; Thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào; Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………../……….. ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA KHONESAVANH PHATHITHACK QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SAVANNAKHET, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – NĂM 2017
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………../……….. ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA KHONESAVANH PHATHITHACK QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SAVANNAKHET, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60.34.04.03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HẬU HÀ NỘI – NĂM 2017
- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, cùng với kinh tế và công nghệ thông tin, nền báo chí trên thế giới không ngừng phát triển, đạt được những thành tựu quan trọng. Mục tiêu cao nhất của báo chí là phục vụ sự phát triển của đất nước và lợi ích của nhân dân. Báo chí đã tác động từng ngày, từng giờ đến đời sống chính trị, xã hội, cung cấp thông tin đa chiều, sâu sắc, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước hiệu quả, đặc biệt là phát huy vai trò phản biện xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Xã hội phát triển đòi hỏi hoạt động báo chí cũng phải thay đổi tương ứng để kịp thời phản ánh những sự thay đổi của xã hội đó, vì vậy công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trong thời kỳ mới cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với điều kiện, tình hình mới. Sau gần 40 năm phấn đấu gian khổ, Đảng, Nhà nước và nhân dân các bộ tộc Lào đã giành được những thành quả to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước, đưa đất nước Lào ngày càng tiến gần với trình độ phát triển của các nước trong khu vực. Cùng với những thành quả quan trọng của đổi mới kinh tế, những năm qua, tổ chức và hoạt động của báo chí nước CHDCND Lào nói chung, báo chí của tỉnh Savannakhet nói riêng không ngừng được đổi mới và có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đổi mới do Đảng khởi xướng cùng với những thành tựu vĩ đại của công nghệ thông tin đã làm cho báo chí tỉnh Savannakhet trong những năm gần đây phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí cần phải tăng cường trong giai đoạn hiện nay. Sự ra đời của Luật báo chí năm 2008 đã tạo nên sự hoàn chỉnh về hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí, đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ trong thông tin, đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Đây cũng là điều kiện mới để báo chí Lào phát triển, hội nhập với báo chí trong khu vực và trên thế giới. Trong quá trình phát triển, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, báo chí của Lào cũng bộc lộ những tồn tại như có xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, cho ra những ấn phẩm chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị hiếu tầm thường của một bộ phận quần chúng. Báo chí còn chưa đến tay số đông nhân dân, nhất là nhân dân lao động ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các tác phẩm có chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa, chất lượng khoa học, chất lượng nghiệp vụ trên báo chí vẫn còn chưa cao. Đó là những tác phẩm báo chí không thực hiện đúng định hướng tuyên truyền, người viết 1
- thiếu bản lĩnh chính trị, khi viết không xác định rõ mục đích và đối tượng độc giả, không hướng con người tới chân – thiện – mỹ. Những khuyết điểm trên tồn tại một phần là do công tác quản lý nhà nước về báo chí còn hạn chế, sự buông lỏng của cơ quan chủ quản báo chí, và đặc biệt là một số nhà báo chưa thấy hết trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của mình, ngoài ra nguyên tắc phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt chưa được quán triệt một cách đầy đủ. Vì những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào” cho luận văn Thạc sĩ Quản lý công, đồng thời đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí trong giai đoạn hiện nay. Đó là vấn đề cần thiết của một nền báo chí phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây vấn đề nâng cao vai trò QLNN về báo chí được Đảng và Nhà nước, các đoàn thể, nhân dân quan tâm. Bên cạnh những bài báo, tạp chí trong nước và Việt Nam đánh giá về thực trạng hoạt động QLNN về báo chí, cũng như quan điểm và định hướng của Nhà nước Lào đối với hoạt động báo chí, phải kể tới một số công trình nghiên cứu của Việt Nam và Lào cụ thể như sau: - Nguyễn Kim Chi (2011) Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính. Luận văn đã phân tích khái quát tình hình hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong những năm qua, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và giải pháp giải quyết những khó khăn đó nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước đối với hoạt động trên. - PGS.TS. Nguyễn Văn Dũng đã có nhiều nghiên cứu và tiếp cận báo chí dưới góc độ lý luận (khái niệm, đặc điểm báo chí..); mối quan hệ của báo chí với dư luận xã hội và hoạt động báo chí cách mạng Việt Nam phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như tiếp cận hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí cách mạng nước ta trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa kinh tế quốc tế. Các tác phẩm của PGS.TS. Nguyễn Văn Dũng đã nghiên cứu về báo chí ở nước ta như: “Báo chí và dư luận xã hội”, Nhà Xuất bản Lao động (2011); “Cơ sở lý luận báo chí”, Nhà Xuất bản Lao động (2012); “Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng, lý luận và quản lý báo chí”, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên truyền (2012)… - Khắt Thạ Nam Xẳng Xỉn Xay (2010), Quá trình hình thành và phát triển của thông tấn xã Lào, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Luận văn đã nêu lên cơ sở lý luận và quá trình hình thành, phát triển của thông tấn xã Lào. Để thấy rõ những giai đoạn phát 2
- triển của thông tấn xã trong suốt những năm qua, xu hướng phát triển và định hướng phát triển thông tấn xã Lào trong thời gian tới. - Chanhdalasouk Thavone (2010), Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ở tỉnh Champasac, nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Luận văn Thạc sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính. Luận văn nêu lên những kiến thức về lý luận, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động quản lý nhà nước và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí của tỉnh Champasac, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chỉ tại tỉnh như: xây dựng quy hoạch phát triển báo chí; kiện toàn bộ máy và cơ chế quản lý nhà nước về báo chí; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, về đào tạo, quy hoạch cán bộ quản lý báo chí, về chế độ chính sách và về công tác kiểm tra, thanh tra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà nước về báo chí của nước CHDCND Lào nói chung và hoạt động báo chí của tỉnh Savannakhet nói riêng, đề tài nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường QLNN đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: + Nghiên cứu cơ sở lý luận về báo chí và quản lý nhà nước về báo chí + Tìm hiều thực trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet + Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Chủ tịch Cayxon Phonvihan, các quan điểm của Đảng Nhân dân các mạng Lào, kế thừa và tiếp thu những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước có liên quan đến quản lý nhà nước về báo chí. - Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu và làm rõ các vấn đề, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như: + Phương pháp khảo cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để có những luận cứ khoa học cho việc đánh giá hoạt động báo chí, làm cơ 3
- sở để đánh giá thực trạng và đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet. + Phương pháp phân tích, đánh giá: Đề tài đã tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet để từ đó chỉ ra những mặt mạnh, mặt yếu trong quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí từ đó làm cơ sở cho những giải pháp ở Chương 3. + Phương pháp thống kê: Được tác giả sử dụng để xử lý các số liệu được thu thập trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, đồng thời so sánh và đánh giá được các kết quả đạt được và hạn chế trong quản lý. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không chỉ nghiên cứu về báo chí nói chung mà đặc biệt nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về báo chí và quản lý nhà nước về báo chí. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Chương 2. Thực trạng hoạt động báo chí và quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí trên địa bàn tỉnh Savannakhet. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ 1.1. Một số khái niệm về báo chí 1.1.1. Một số khái niệm về báo chí 1.1.1.1. Khái niệm về báo chí Theo các nhà nghiên cứu nói chung, báo chí là một mặt của đời sống xã hội, báo chí có tác động to lớn đối với đời sống con người. 4
- Theo triết học cổ Hy Lạp báo chí được hiểu là thông tin, thông bá, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho sự hiểu biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực khách qan để phản ánh một các liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo, tác phẩm và công chúng. Luật Báo chí nước CHXHCN Việt Nam sửa đổi, bổ sung và thông qua năm 1999 không tập trung giải thích rõ nội hàm của báo chí mà chỉ liệt kê các loại hình báo chí: Báo chí nói trong luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài. Báo chí được hiểu là phương tiện thông tin, tuyên truyền. Báo chí nằm trong kiến trúc thượng tần và ra đời khi có cơ sở, vật chất kỹ thuật nhất định. Kỹ thuật càng hiện đại thì báo chí càng phát triển. Đặc điểm của báo chí: - Tính tư tưởng của báo chí: Báo chí thể hiện rõ vai trò là đội tiên phong trong công tác tư tưởng của Đảng, tích cực tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hoạt động tuyên truyền báo chí đã tác động tích cực tới đời sống xã hội, định hướng chính trị tư tưởng và dư luận, góp phần làm cho nhân dân nhận thức đúng tình hình, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và xu thế đi lên của đất nước. - Tính chân thật của báo chí: Một trong những nguyên tắc cơ bản của báo chí là phải đảm bảo tính khách quan, chân thật. Bởi báo chí chính là phương tiện để phản ánh sự thật, phản ánh cuộc sống hiện thực và thông qua sự thật đó để thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu thoát ly khỏi hiện thực, khỏi sự thật thì báo chí không có gì để phản ánh. 1.1.1.2. Sự phát triển của báo chí trên thế giới Trên thế giới, báo chí ra đời từ thế kỷ XVII, nhưng phải tới thế kỷ XIX mới phát hành rộng rãi. Khi mới xuất hiện, báo chí được hiểu là những sản phẩm nhân bản bằng máy in, xuất bản định kỳ hàng ngày, vài ngày, hàng tuần và chuyển tải thông tin thông tin có tính phổ biến tới đông đảo công chúng trong xã hội. Tớ báo La Gzette của Theosphaste Renaudot là tờ báo của nước Pháp đầu tiên được ra đời. Trong vòng hai thế kỷ XVII và XVIII, báo chí có mặt tại hầy hết các đô thị quan trọng trên thế giới, theo giới nghiên cứu đây được coi là giai đoạn hình thành báo chí trên thế giới. 1.1.1.3. Sự ra đời báo chí ở nước CHDCND Lào Báo chí Lào là phương tiện truyền thông của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, là mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, giữa tổ chức và nhóm 5
- người trong xã hội, là phương tiện thông tin về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… So với thế giới và Việt Nam, báo chí ở nước CHDCND Lào ra đời muộn hơn nhiều. Lịch sử báo chí gắn liền với phong trào cách mạng Lào. Mở đầu báo chí Lào là tờ báo nhân dân, phát hành vào cuối những năm 1940, là thời kỳ đấu tranh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nguồn gốc của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào hiện nay). Ấn phẩm đầu tiên mang tính chất của một tờ báo có cả bài viết, hình vẽ tố cáo thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai của chúng. Những tờ báo, tờ rơi đó đã gắn liền với phong trào yêu nước trong cuộc kháng chiến lâu dài của bộ tộc Lào và góp phần thúc đẩy nhân dân Lào đứng lên đấu tranh và trở thành lực lượng cách mạng. Ngày 13/8/1950, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đại hội Mặt trận kháng chiến toàn quốc do “Neo Lao Ít sạ lá (Mặt trận Ít sạ lá) đã quyết định thành lập báo “Lao Ít sạ lá” và bổ nhiệm ông Sisana Sisan làm tổng biên tập đầu tiên của báo chí cách mạng Lào, in kiểu “Li tô”, với 200 bản in/ 3 tháng, làm vai trò tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Neo Lao Ít sạ lá và Chính phủ lào kháng chiến. Từ đó báo Neo Lao Ít sạ lá trở thành phương tiên thông tin làm công cụ đấu tranh về mặt chính trị, tư tưởng nhân dân, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và các bộ tộc Lào yêu nước. Trong tình hình và điều kiện của cách mạng cứu nước gần 6 năm, ngày 06/01/1956, Đại hội Đại diện toàn quốc của Neo Lao Ít sạ lá tại khu căn cứ tỉnh Hua Phăn, đã quyết định thành lập “Neo Lao Sàng Xạ (Mặt trận Lào xây dựng tổ quốc) để thay thế “Neo Lao Ít sạ lá”. Sau đó, Trung ương Đảng đã quyết định đôi tên “Neo Lao Ít sạ lá” thành “Lao Hắc Xạ (Lào yêu nước)”. Cho nên báo Neo Lao Ít sạ lá cũng đổi tên thành báo Lao Hắc Xạ và cũng do ông Saxana Sisan làm tổng biên tập và phát hành 3000 bản in/ tuần. Đặc biệt trong những năm 1956-1959, báo Lao Hắc Xạ đã in tải Thủ đô Viêng Chăn do ông Khaawmphai Bupha làm Tổng biên tập, vì sự ủng hộ của quần chúng, nên số lượng báo được tăng lên tới 12.000 bản in/tuần. Nhưng trong tình hình đất nước chưa ổn định, vẫn còn đế quốc xâm lược, vì vậy, năm 1959 tổng biên tập bị bắt vào tù cùng với các nhà lãnh đạo khác của Lào. Năm 1960, trụ sở công tác báo Lao Hắc Xạ được chuyển chỗ in trở lại khu căn cứ tỉnh Viêng Xây tiếp tục thực hiện vai trò và nhiệm vụ của mình. Do cơ hội và điều kiện thuận lợi, ngày 11/8/1975 báo Lao Hắc Xạ đã quay về Thủ đô Viêng Chăn và đổi tên thành báo “Siếng Paxaxon (Tiếng nói nhân dân)”, trở thành nhật báo, có thể phát hành hàng ngày tới 30.000 bản in. Sau Đại hội khóa III của Đảng, ngày 22/3/1983, Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã có quyết định đổi tên báo “Siếng Paxaxon (Tiếng nói nhân dân)” thành báo “Paxaxon 6
- (Báo nhân dân)” và được tuyên bố là tiếng nói của Trung ương Đảng nhân dân cách mạng Lào cho tới ngày nay. Hiện nay, ở Lào các cơ quan báo chí đang xuất bản gần 70 ấn phẩm. Ngoài thủ đô Viêng Chăn tập trung nhiều cơ quan báo chí Trung ương và khu vực, một số tỉnh còn lại đều có báo, tạp chí, đài phát thanh, đài truyền hình riêng. Đài phát thanh được thành lập thêm, từ 14 cơ quan (năm 1995) lên tới 35 cơ quan (2015), trong đó 3 cơ quan là đài phát thanh quốc gia Lào, 33 cơ quan còn lại đặt tại địa phương với hai hệ thống AM và FM, phát sóng chiếm 80% thời lượng. Lĩnh vực truyền hình có 32 cơ quan, trong đó có 2 cơ quan là đài truyền hình Việt Nam, đài truyền hình đầu tư và hợp tác với tư nhân do cơ quan quản lý báo chí cấp Trung ương quản lý như đài truyền hình Laostar và MVLaos. Đài truyền hình Lào có thể phát sóng chiếm 60% thời lượng. Điểm nổi bật của báo chí Lào là sự ra đời của báo điện tử đang được sử dụng phổ biến, tạo nên sự nhanh chóng và rộng rãi của thông tin cho người dân trong và ngoài nước. 1.1.2. Vai trò của báo chí đối với sự phát triển kinh tế xã hội Báo chí có vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống xã hội của các quốc gia trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa càng tăng, quan hệ quốc tế càng phức tạp thì vai trò của báo chí càng trở nên quan trọng hơn. Theo quan niệm của Đảng nhân dân Cách mạng Lào đối với báo chí “Báo chí là công cụ về mặt chính trị - tư tưởng của các tổ chức trong hệ thống chính trị có Đảng lãnh đạo”. Trong sự nghiệp tiếp tục xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân cũng như trong sự nghiệp thay đổi toàn diện có nguyên tắc của Đảng, phương tiện thông tin đại chúng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc tăng cường tình đoàn kết của các bộ tộc, tuyên truyền, động viên thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. 1.1.3. Chức năng của báo chí 1.1.3.1. Chức năng thông tin Đây là chức năng cơ bản mang tính tiên quyết của báo chí. Báo chí tồn tại và phát triển là để đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của con người và xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu thông tin của quần chúng càng đòi hỏi cao, đa dạng và phong phú hơn. 1.1.3.2. Chức năng định hướng giáo dục chính trị, tư tưởng Định hướng, giáo dục chính trị, tư tưởng thực chất là tuyên truyền và bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Báo chí là công cụ tuyên tuyền của Đảng, vì vậy cần tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân để tạo nên các phòng trào cách mạng mạnh mẽ. Đồng thời báo chí cũng là diễn đàn của nhân dân, nó phản ánh một cách trung thực tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Chức năng định hướng của 7
- báo chí chính là không ngừng nâng cao nhận thức chính trị, tính tự giác của nhân dân. 1.1.3.3. Chức năng văn hóa, giáo dục Báo chí là một bộ phận cấu thành của văn hóa vì thế nó trực tiếp góp phần phát triển, bảo tồn và giao lưu văn hóa. Nó bồi đáp hướng dẫn, nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân; góp phần định hướng, điều chỉnh và cổ vũ xây dựng môi trường văn hóa mới. 1.1.3.4. Chức năng giám sát, phản biện xã hội Thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, nhờ sử dụng và giám sát thông tin nên báo chí thể hiện được chức năng giám sát và phản biện xã hội của mình. Chức năng này thể hiện quyền lực của báo chí trong đời sống xã hội. Giám sát xã hội của báo chí thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Qua giám sát, theo dõi một cách khách quan và có định hướng mà báo chí thể hiện vai trò phản biện xã hội của mình. 1.1.3.5. Chức năng giải trí, quảng cáo, dịch vụ Chức năng quảng cáo, dịch vụ được hiểu báo chí chính là nguồn cung cấp thông tin cho đời sống xã hội nên quảng cáo dịch vụ báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã trở thành một hoạt động tất yếu. Sự quảng bá thương hiệu, thu hút sự chú ý, giới thiệu sản phẩm, hướng dẫn tiêu dùng, định hướng thị hiếu, chỉ dẫn… đang là nhu cầu không chỉ giới kinh doanh, dịch vụ, giải trí mà đòi hỏi thiết yếu của đời sống xã hội. Quảng cáo, dịch vụ là nhu cầu sống còn, nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân xã hội hiện đại. 1.1.4. Phân loại báo chí Sản phẩm báo chí được phát triển rộng rãi trong xã hội với nhiều loại khác nhau. Từng loại hình báo, từng tờ báo, tờ tạp chí cũng có đối tượng xác định nhất định và có đặc trưng riêng. Do đó, để quản lý báo chí một cách hiệu quả, nhất thiết phải phân loại chúng. 1.1.4.1. Báo in Căn cứ vào tiêu chí định kỳ và tính chất nội dung thông tin, có thể chia báo in thành các loại như sau: - Nhật báo (báo hàng ngày) là những tờ báo phát hành mỗi ngày một lần vào buổi sáng hay buổi chiều. Nội dung những tờ báo này đề cập đến những vấn đề, sự kiện mang tính thời sự nóng hổi. Nhật báo thường có số lượng phát hành vào loại lớn nhất do đó nó đáp ứng được nhu cầu tin tức của các tầng lớp xã hội rộng rãi và được phát hành trong phạm vi quốc gia hay ở những thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn, dân cư đông. - Báo thưa kỳ bao gồm các thứ 2, 3, 4, 5 hoặc 5 ngày một kỳ, tuần báo, báo nửa tháng hoặc hàng tháng. 1.1.4.2. Báo nói 8
- Ở Lào, toàn bộ hệ thống phát thanh, truyền hình đều thuộc sở hữu của nhà nước, do Chính phủ và chính quyền các địa phương quản lý. Đài phát thanh quốc gia Lào được coi là phát thanh trung ương. Còn đài phát thanh các tỉnh, thành phố và cấp huyện được coi là đài phát thanh địa phương. 1.1.4.3. Báo hình Là một loại hình báo chí chuyển tải nội dung bằng hình ảnh động và âm thanh. Nguyên nghĩa của nó là vô tuyến truyền hình, bắt nguồn từ hai từ tele có nghĩa là ở xa và vision có nghĩa là thấy được, tức là thấy được ở xa. 1.1.4.4. Báo điện tử Những tiến bộ của công nghệ thông tin trong những năm 60 của thế kỷ XX mang đến cho nhân loại một loại hình báo chí mới, đó là báo điện tử. So với báo in, báo điện tử đến với người đọc nhanh hơn rất nhiều, có khi chỉ vài giây sau khi phát hành và người đọc không cần tới mua ở quầy báo, cũng không cần chờ nhân viên bưu điện mang đến. So với báo nói và báo hình, báo điện tử có ưu thế là có thể nghe và xem bất cứ lúc nào người đọc muốn, không phụ thuộc vào buổi phát thanh và phát hình của đài. 1.2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí 1.2.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước Quản lý là một hoạt động diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản tới phức tạp. Xã hội càng phát triển, trình độ xã hội hóa càng cao, yêu cầu quản lý càng cao. Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt quan trọng của con người, nó chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng, phức tạp và luôn vận động, biến đổi và phát triển. Vì vậy, khi nhận thức về quản lý, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau. Mỗi một học thuyết nghiên cứu tổ chức quản lý ở những góc độ khác nhau, trên cơ sở triết học và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tuy nhiên có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định trước. - Chủ thể quản lý nhà nước là cán bộ, công chức và các cơ quan trong bộ máy nhà nước (thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp); - Đối tượng quản lý là toàn dân; - Phạm vi quản lý mang tính toàn diện, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; - Phương thức: sử dụng quyền lực nhà nước mang tính cưỡng chế đơn phương đối với xã hội và sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu. - Mục tiêu của quản lý nhà nước là phục vụ lợi ích chung, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. 1.2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là những hoạt động của các cơ quan chức năng trong bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã 9
- hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí. Báo chí gắn liền với tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quản lý nhà nước về hoạt động báo chí là nhằm đảm bảo tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, Nhà nước cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấy tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình, gây mất an ninh chính trị và trật tự trong nước. Từ những phân tích trên, có thể hiểu quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là quá trình tác động có tổ chức, có định hướng và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước đối với lĩnh vực báo chí, nhằm đáp ứng quyền và nhu cầu tự do báo chí hợp pháp của công dân. 1.2.2. Sự cần thiết quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí Báo chí là công cụ đấu tranh sắc bén, vì vậy, cần phải có định hướng cho hoạt động báo chí đúng khuôn khổ. Báo chí được mệnh danh là quyền lực thứ tư. Vì, vậy, nó góp phần bảo vệ, cổ vũ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và ngược lại nó cũng có thể cản trở việc thực hiện đó. Một bộ phận nhà báo chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh những nhà báo thường xuyên trau dồi đạo đức, phẩm chất và trình độ chuyên môn, cũng không ít nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp dẫn đến vi phạm pháp luật, bị truy tố. Do đó, cần thiết quản lý nhà nước bằng việc đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp. Một số tờ báo có xu hướng thị trường hóa. Mặc dù đang hướng tới việc tự chủ của các tờ báo về kinh phó, nhưng thời gian qua một số tờ báo vì lợi nhuận mà vi phạm quy định về quảng cáo cũng như viết bài giật gân nhằm thu hút độc giả, tăng số lượng phát hành, tình trạng giật tít sai làm hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý của cơ quan nhà nước. Điều này tất yếu phải có sự quản lý của nhà nước để chấn chỉnh. 1.2.3. Chủ thể quản lý nhà nước về hoạt động báo chí Theo Điều 54 của Luật Báo chí Lào quy định vai trò và một số nhiệm vụ cụ thể của Bộ Thông tin và Văn hóa: Nghiên cứu dự thảo Luật, chính sách, kế hoạch, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí, đề nghị Chính phủ điều tra, đồng ý và thực thi; Tuyên truyền Luật báo chí; Tổ chức, quản lý và chỉ đạo hoạt động của cơ quan báo chí trong phạm vi toàn nước; Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cán bộ báo chí về mặt chính trị, 10
- chuyên môn và lý luận; Nghiên cứu, quy định tiêu chuẩn kỹ thuật và sử dụng khoa học, công nghệ tiến bộ hiện đại trong phạm vi báo chí…. - Sở Thông tin và Văn hóa - Văn phòng Thông tin và Văn hóa 1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí 1.2.4.1. Xây dựng quy hoạch, chiến lược phát triển báo chí Bộ Thông tin và Văn hóa có nhiệm vụ giúp Chính phủ xây dựng chiến lược thông tin báo chí của Lào, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp báo chí, kế hoạch trang bị kỹ thuật cho báo chí toàn quốc, kế hoạch đầu tư ngân sách, quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tất cả những dự án này sau khi được Chính phủ phê duyệt mới được triển khai trên thực tế. 1.2.4.2. Ban hành các văn bản pháp quy, các chế độ chính sách đối với báo chí Bộ Thông tin và Văn hóa có nhiệm vụ dự thảo dự án Luật liên quan đến báo chí. Sau đó Chính phủ mới đệ trình những dự án luật này lên Quốc hội, đề nghị Quốc hội thông qua. Chỉ có Quốc hội mới có quyền ban hành luật, sắc lệnh về chế độ báo chí. Các văn bản dưới luật như quyết định, nghị định được Chính phủ ban hành là do Bộ Thông tin và Văn hóa dự thảo. 1.2.4.3. Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí và thẻ nhà báo Một nội dung quan trọng khác của quản lý nhà nước đối với báo chí là cấp phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản đặc san, số phụ, chương trình đặc biệt, chương trình phụ. Bộ Thông tin và Văn hóa là cơ quan cấp giấy phép thành lập cơ quan và quy định nội dung, hình dạng con dấu của cơ quan báo chí; cấp thẻ nhà báo cho các nhà báo cấp Trung ương. Đối với nhiều nước trên thế giới, việc cấp giấy phép là cơ chế để quản lý quyền sở hữu và nội dung báo chí. Ở Lào, báo chí cần phát triển theo quy hoạch của nhà nước, do đó cũng cần có cơ chế để quản lý nội dung báo chí. 1.2.4.4. Thông tin cho báo chí và quản lý thông tin báo chí Tổ chức thông tin cho báo chí gồm việc quy định về quy chế phát ngôn của cơ quan nhà nước, việc tổ chức họp báo thường xuyên, định kỳ của Chính phủ cũng như chính quyền địa phương góp phần định hướng thông tin và trao đổi thông tin với báo chí. 1.2.4.4. Quản lý hoạt động đối ngoại, hợp tác của báo chí Nội dung này gồm quản lý hoạt động của báo chí Lào liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Lào. Bộ Thông tin và Văn hóa nước CHDCND Lào là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động báo chí Lào liên quan đến nước ngoài và cho phép các hoạt động của báo chí Lào liên quan đến nước ngoài. Đó là các hoạt động như: Phát hành báo chí, phát sóng chương trình phát thanh, truyền hình Lào ra nước ngoài; Thành lập cơ quan báo chí của cơ quan đại diện Lào ở nước ngoài, in báo chí, phát sóng chương trình phát thanh, truyền hình Lào ở nước ngoài; Cử nhà báo, phóng viên ra nước 11
- ngoài; Lập văn phòng đại diện của báo chí Lào ở nước ngoài; Cung cấp thông tin, bài, hình ảnh cho báo chí nước ngoài; Hoạt động hợp tác của báo chí Lào với nước ngoài; Thuê chuyên gia, cộng tác viên nước ngoài. Bộ Thông tin và Văn hóa có quyền cấp giấy phép hoặc không cấp giấy phép cho các hoạt động trên. 1.2.4.5. Giao ban báo chí Trong một tổ chức, cơ quan, cá nhân, kinh doanh tư nhân đều không thể thiếu được việc giao ban, việc giao ban đã giúp hoàn thiện công việc, giúp cho kế hoạch đề ra có hiệu quả hơn. Việc giao ban báo chí cũng rất quan trọng trong hoạt động của cơ quan quản lý báo chí. Cách làm việc của Đảng bộ cũng như Đảng ủy cấp cơ sở hoặc cấp Trung ương đều tuân theo chế độ một người lãnh đạo, làm việc theo nhóm, ban nhưng cá nhân chịu trách nhiệm. Cách làm việc hoặc thực thi công việc của cán bộ, công chức đều thực hành theo nguyên tắc ấy. 1.2.4.6. Quản lý việc lưu chiểu báo chí Bộ Thông tin và Văn hóa có trách nhiệm kiểm tra báo chí lưu chiểu và quản lý kho lưu chiểu báo chí quốc gia. Việc lưu chiểu sản phẩm báo chí được quy định theo Điều 47 của Luật Báo chí Lào: Những sản phẩm báo chí phải lưu chiểu và lưu trữ ít nhất 25 năm, cho nên muốn quản lý việc lưu chiểu báo chí tốt và có hiệu quả phải có kho lưu chiểu báo chí và có sự quản lý tốt để đảm bảo cho việc kiểm soát và nghiên cứu các công việc liên quan. 1.2.4.7. Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm đối với hoạt động báo chí Một nội dung không thể thiếu được của quản lý nhà nước về báo chí là việc thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp kiểm tra việc thực hiện Luật Báo chí và xử lý vi phạm các quy định của báo chí. 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí - Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin truyền thông đã đặt ra cho hoạt động quản lý báo chí phải hoàn thiện cơ sở hạ tầng và có đội ngũ nhân sự đáp ứng trình độ, cập nhật với thời đại trong điều kiện mới; - Xu hướng thương mại hóa báo chí trong bối cảnh đang xây dựng nền kinh tế thị trường; - Các yếu tố khác ảnh hưởng và tác động nhất định đến công tác quản lý nhà nước về báo chí có thể kể đến như sự chênh lệch về trình độ dân trí, nhu cầu và điệu kiện vật chất khác biệt giữa các khu vực, địa bàn, vùng miền, địa phương tạo nên sự chênh lệch lớn về hưởng thụ các dịch vụ báo chí; các cơ quan báo chí còn nhiều hạn chế và tồn tại trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình, hoạt động còn trùng chéo về tôn chỉ, mục đích, nội dung, đối tượng phục vụ. Các cơ quan chức năng trong hoạt 12
- động quản lý chưa thực hiện việc nghiên cứu, phân loại, xác định tính chất, nhiệm vụ của báo chí để có cơ chế, chính sách phù hợp. Tiểu kết Chương 1 Trong chương 1, tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về báo chí, đặc điểm của báo chí, sự phát triển của báo chí trên thế giới, vai trò của báo chí đối với sự phát triển của kinh tế xã hội. Đồng thời, đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí, sự cần thiết phải có sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động báo chí và các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí . Từ các khía cạnh nghiên cứu khác nhau, tác giả có thể khái quát khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí như sau: quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí là quá trình tác động có tổ chức, có định hướng và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước đối với lĩnh vực báo chí, nhằm đáp ứng quyền và nhu cầu tự do báo chí hợp pháp của công dân. Những nội dung phân tích trong chương 1 là cơ sở lý luận tạo tiền đề khoa học cho việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại tỉnh Viêng Chăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong chương 2. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SAVANNAKHET, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 2.1. Khái quát về tỉnh Savannakhet 2.1.1. Vị trí địa lý Savannakhet có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở phía trung Lào. Tỉnh Savannakhet có sông Meekong và hai đường quốc lộ số 9 và số 13 là con đường xuyên Á thích hợp cho mọi hoạt động của tỉnh. Hiện nay, tỉnh Savannakhet có chiều dàu đường bộ là hơn 4888km, trong đó có đường dải nhựa 579km, nhờ có đường quốc lộ và cầu qua sông Meekong giữa Lào và Thái Lan. 2.1.2. Lực lượng lao động Tỉnh Savannakhet có số dân là 826.000 người (2005), 77,5% của dân số toàn tỉnh sống ở nông thôn, 22,5% sống ở thị xã và các thị trấn. Tốc độ tăng dân số là 2,5%/năm, mật độ dân số bình quân 37,9 người/km2. Mặc dù có dân số nhiều nhất so với các tỉnh trong cả nước, nhưng về lực lượng lao động vẫn còn thiếu để đáp dứng cho sản xuất vì rất ít lao động lành nghề. Dân số là nhân tố quan trọng trong lao động sản xuất, tỉnh Savannakhet là một tỉnh có dân số nhiều nhất so với các tỉnh trong cả nước. Trong toàn tỉnh có khoảng 469,083 người và phụ nữ có khoảng 140,717 13
- người. Trong đó lĩnh vực nông lâm nghiệp chiếm khoảng 85%, lĩnh vực công nghiệp chiếm 3% và dịch vụ chiếm 12%. 2.1.3. Điều kiện tự nhiên Với vị trí địa lý như vậy, điều kiện tự nhiên của tỉnh Savannakhet có các đặc điểm cơ bản sau: - Nguồn nước: Tỉnh Savannakhet có nhiều sông lớn, nhỏ như: sông Meekong, sông Sebanghieng, sông Sebangphay, sông Sebangquan, sông Sechamphon, sông Sesamsoi, sông Sepon, sông Sekok và các chi nhánh khác. Những sông này rất thuận lợi về xây dựng thủy lợi, xây dựng nhà máy thủy điện, tạo điều kiện tốt cho trồng trọt và chăn nuôi. - Khí hậu: Nhờ vị trí địa lý của tỉnh nằm trên vĩ tuyến 16, 17 đông bắc là khu vực nhiệt đới và ẩm cho nên khí hậu tương đối ẩm và lượng mưa nhiều quanh năm, khí hậu của tỉnh được chia thành ba vùng: vùng miền núi, cao nguyên mát lạnh, độ ẩm nhiều rất tốt cho chăn nuôi các loại gia xúc và trồng trọt các loại hoa và các loại cây công nghiệp, vùng nhiệt độ nóng hơn, sự bốc hơi của nước nhiều thuận lợi cho trồng lúa, hoa màu, chăn nuôi… 2.1.4. Tình hình phát triển kinh tế xã hội * Các lợi thế phát triển Tỉnh Savannakhet chia thành hai vùng cơ bản là vùng đồng bằng ven sông Meekong và vùng núi, cao nguyên, tình hình kinh tế xã hội ở hai tỉnh này được khái quát như sau: 2.2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí ở tỉnh Savannakhet 2.2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về báo chí Luật Báo chí năm 2008 gồm 11 chương và 67 điều: - Xác định rõ về nguyên tắc, quy luật và các quy định về tổ chức, hoạt động, sự phát triển, sự quản lý, kiểm tra báo chí để nâng cao vai trò, chất lượng của báo chí và đảm bảo sự thực hành nhiệm vụ và tự do về báo chí của nhân dân, nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước (Điều 1). - Báo chí là diễn đàn thông tin gồm các phương tiện thông tin báo chí là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, Nhà nước và xã hội để tuyên truyền, giáo dục các chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, động viên tinh thần yêu nước, cung cấp thông tin về chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật, kiến thức, tiêu khiển cho xã hội, góp phần chống lại hiện tương không tốt trong xã hội… (Điều 2); thể hiện rõ về chính sách của Nhà nước đối với báo chí (Điều 4). - Xác định rõ đặc tính của báo chí Lào như: tính thực tế, tính giáo dục, tính tổ chức lãnh đạo và tính chiến đâu (Điều 9); xác định rõ quyền tự do dân chủ của nhân dân Lào về báo chí (Điều 14). 14
- - Nêu rõ và đầy đủ về quyền thông tin và được thông tin của công dân (Điều 16); quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin (Điều 18); quyền và nghĩa vụ trả lời cải chính (Điều 22, 23); quy định về quảng cáo trên báo chí (Điều 24). 2.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với báo chí Ở Lào, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí. Chính phủ có các cơ quan chuyên môn giúp việc trong từng lĩnh vực cụ thể, đó là các bộ, trong đó giúp việc cho Chính phủ về công tác quản lý báo chí là Bộ Thông tin và Văn hóa. Bộ Thông tin và Văn hóa chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí. Vụ Báo chí là cơ quan tham mưu của Bộ Thông tin và Văn hóa, trực tiếp thực hiện mọi công việc quản lý nhà nước về báo chí. 2.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ nhân sự của Sở Thông tin và Văn hóa tỉnh Savannakhet quy định có 01 phòng chức năng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí đó là phòng quản lý báo chí – xuất bản. Đây là phòng chuyên môn thuộc Sở, tham mưu và giúp Giám đốc Sở thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành về xuất bản, báo chí theo phân cấp của Tỉnh ủy và ủy quyền của Bộ Thông tin và Văn hóa trên địa bàn toàn tỉnh Savannakhet. Phòng được cơ cấu gồm 3 cán bộ trong đó có 01 trưởng phòng, 01 phó trưởng phòng và 01 nhân viên và không có ai được đào tạo chuyên ngành về báo chí, trong đó các chuyên viên thuộc phòng quản lý báo chí – xuất bản phải thực hiện công tác kiêm nhiệm cả hai lĩnh vực báo chí và xuất bản với khối lượng công việc lớn theo sự phân công của trưởng phòng và giám đốc Sở. 2.2.4. Tổ chức thông tin cho báo chí và quản lý thông tin của báo chí Việc tổ chức thông tin cho báo chí và quản lý thông tin cho báo chí của các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Savannakhet đã giúp cho các cơ quan báo chí chủ động trong công tác tuyên truyền, đấu tranh có hiệu quả với những tiêu cực, phản ánh sinh động, khách quan hiện thực của cộng đồng, đồng thời hạn chế thông tin báo chí có tác động tiêu cực trong xã hội. 2.2.5. Thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động báo chí Trong những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động báo chí được tiến hành đều đặn thường xuyên. Qua hoạt động thanh tra, kiểm tra các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí ở trung ương và địa phương đã phát hiện và xử lý những sai phạm trong hoạt động báo chí. Nhiều trường hợp các nhà báo lợi dụng uy tín nghề nghiệp, đã có những việc làm trái với đạo đức và trách nhiệm của người làm báo, vi phạm Luật báo chí và các văn bản dưới luật về hoạt động báo chí, đã bị xử lý nghiêm khắc bằng các hình thức như cảnh cáo, phê bình, khiển trách bản 15
- thân nhà báo và những người đứng đầu các cơ quan báo chí có người vi phạm, bới nhiều trường hợp vi phạm do cơ quan báo chí buông lỏng quản lý. 2.2.6. Về mối quan hệ giữa nhà nước và báo chí Nhà nước có những chính sách hỗ trợ hoạt động báo chí có hiệu quả. Trong thực tế, báo chí đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, nên để báo chí trở thành công vụ tuyên truyền đắc lực cho chế độ chính trị, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp, Điều 4, Luật Báo chí Lào quy định như sau: - Nhà nước hỗ trợ và phát triển báo chí như thành lập và bổ sung nhân sự, ủng hộ ngân sách, phương tiện, công nghệ kỹ thuật hiện đại. - Nhà nước thúc đẩy các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước góp phần phát triển báo chí qua việc ủng hộ phương tiện, kỹ thuật, vốn… - Nhà nước có chính sách đối với tổ chức và cá nhân có thể hoạt động báo chí theo quy định của Luật. - Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân sản xuất và phát hành sản phẩm báo chí trong nước hoặc ra nước ngoài đúng theo luật lệ. 2.3. Đánh giá 2.3.1. Những kết quả đạt được Báo chí là phương tiện thông tin của Ủy ban Tỉnh ủy và Chính quyền tỉnh, báo chí tỉnh Savannakhet ra đời và đi lên trong phong trào bảo vệ và xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy- Ban giám đốc Sở Thông tin và Văn hóa tỉnh Savannakhet. Trong giai đoạn đất tranh cứu nước, báo chí tỉnh Savannakhet đã hoạt động cùng với quân sự Lào yêu nước, vừa tuyên truyền, động viên, khuyến khích, vừa chiến đấu với kẻ thù. 2.3.2. Những hạn chế Trong thời gian qua, mặc dù hoạt động báo chí ở tỉnh Savannakhet đã đạt được nhiều thành tựu cả về số lượng và chất lượng, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu ở mức cao của đất nước trong giai đoạn mới, thậm chí cũng bộc lộ nhiều thiếu sót, yếu kém: - Báo chí tỉnh Savannakhet chưa thu hút được nhiều độc giả, khán thính giả vì nội dung chưa phong phú, chưa nhiều sắc màu. Nội dung của báo và các chương trình truyền thông chưa thật sự bao quát hết các mặt của đời sống xã hội, báo lễ tân còn chiếm tỉ lệ cao, chưa phản ánh và không quan tâm đầy đủ tới đối tượng công chúng ở nông thôn, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số, coi nhẹ việc biểu dương, cổ vũ người tốt việc tốt, những nhân tố mới trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Báo nặng về phê phán mặt khuyết điểm, non kém, cá biệt có trường hợp phủ nhận truyền thống dân tộc, thành tựu cách mạng, coi nhẹ 16
- đấu tranh tư tưởng, mơ hồ hoặc bị ảnh hưởng trước luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch. - Trong đấu tranh chống tham nhũng, báo chí đã đi đầu, dũng cảm, kiên trì phát hiện và đấu tranh, góp phần quan trọng vào việc làm trong sạch nội bộ, loại trừ những phần tử thoái hóa, biến chất, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Tuy vậy, còn khá nhiều trường hợp báo chí thông tin không chính xác, thiếu khách quan, lộ bí mật quốc gia, nhiễu thông tin, gây trở ngại cho các cơ quan thi hành pháp luật, có hiện tượng cửa quyền, vi phạm dân chủ, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. - Đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu của công việc. Một số cán bộ chưa hiểu biết sâu sắc về chính trị, chuyên môn và ngoại ngữ còn hạn chế, chưa chuyên nghiệp. Cán bộ làm nhà báo phần lớn làm việc theo sự yêu thích, năng khiếu. Ngoài ra, việc nâng cao trình độ của cán bộ về lý luận chính trị và chuyên môn chưa đáp ứng được nhu cầu. - Một số cán bộ không tích cực tìm hiểu các văn kiện chính trị, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kiến thức khác liên quan tới công việc của mình, làm việc kiểu lấy lợi ích của mình cao hơn lợi ích của tập thể. Cán bộ làm báo ở cấp huyện còn thiếu, thậm chí một số huyện vùng xa còn không có nhà báo; chưa thực hiện được mạng báo chí ở các Sở, các đơn vị và các cơ sở bản làng. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế - Công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho những người làm công tác chỉ đạo, quản lý và hoạt động trong lĩnh vực báo chí ở một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí chưa được đầu tư, coi trọng. Tình trạng buông lỏng quản lý vẫn còn diễn ra do thiếu cán bộ chuyên môn. Trong khi công tác quản lý hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình, internet là những lĩnh vực có tính đặc thù, đòi hỏi có kiến thức về công nghệ, kỹ thuật nhưng trên thực tế trình độ, năng lực của cán bộ quản lý còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công tác quản lý. Bên cạnh đó, điều kiện làm việc của cơ quan quản lý các cấp từ TW đến địa phương còn gặp nhiều khó khăn. - Một số thiếu sót còn do thiếu trách nhiệm, yếu về năng lực và quá tải trong giải quyết công việc; sự phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, cơ quan quản lý, cơ quan chủ quản trong quản lý đôi khi còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp. - Bộ máy quản lý báo chí thiểu ổn định, việc chỉ đạo thông tin cón thiếu thống nhất, không tập trung đầu mối nên nhiều khi còn gây khó khăn, lúng túng cho báo chí. Cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý đôi khi chưa làm hết trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý báo chí địa phương còn phản ứng chậm trước những sự kiện nhạy cảm, để báo chí trung ương và báo chí ngành chủ động đưa tin, hướng dẫn dư luận. Một số vụ việc chậm được định hướng, để báo chí đưa 17
- tin mới vào cuộc rồi đột ngột dừng thông tin mà không có lý do giải thích hợp lý, gây dư luận không tốt trong nhân dân. Bên cạnh đó, còn một số cơ quan chức năng không chủ động, kịp thời cung cấp thông tin cho báo chí dẫn đến tình trạng báo chí tự tìm kiếm thông tin nên có khi thiếu sự chính xác do không có thông tin chính thống. Tiểu kết chương 2 Trên cơ sở nghiên cứu về vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh Savannakhet, Nước CHDCND Lào và tổng quan về hoạt động báo chí của nước CHDCND Lào nói chung và hoạt động báo chí của tỉnh Savannakhet nói riêng, tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại tỉnh Savannakhet, từ đó làm rõ những điểm mạnh, những hạn chế, bất cập về quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại tỉnh Savannakhet và những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế đó. Đây là cơ sở cho việc đề ra quan điểm, định hướng của Đảng và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí tại tỉnh Savannakhet, nước CHDCND Lào trong thời gian tới. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SAVANNAKHET, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về báo chí 3.1.1. Quan điểm của Đảng về báo chí Để tạo điều kiện cho báo chí có thể giữ được vai trò của mình và có tính phấn đấu, tính giáo dục, tính tổ chức lãnh đạo quần chúng và tính thực tế trong sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý, ngày 19/6/1993, Bộ Chính trị trung ương Đảng khóa III đã có Nghị quyết số 360CT-TƯ về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với báo chí trong thời kỳ mới. 3.1.2. Chính sách của Nhà nước về báo chí - Tăng cường điều chỉnh để hoạt động báo chí có nhiều màu sắc, có tính giáo dục, đảm bảo tính thực tế, việc đáp ứng thông tin báo chí phải nhanh chóng, kịp thời, làm cho hoạt động thông tin trở thành phương tiện tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần cho toàn xã hội phát triển tích cực, công bằng và trong sáng, phải tạo cho nội dung thông tin có tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, ngoại giao, thể thao… - Trong thời ký khoa học kỹ thuật hiện đại, báo chí phải tiếp tục điều chỉnh phát triển cơ sở hạ tầng về mặt công nghệ kỹ thuật, nhằm xóa bỏ công nghệ kỹ thuật lạc hậu, chuyển hướng theo hệ thống Digital cùng với hệ thống của trung ương và có thể nối liền thành một hệ thống toàn quốc; cải 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác lập dự án đầu tư ở Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Petrolimex
1 p | 116 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 100 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn