Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước (Huỳnh Thanh Nhàn)
lượt xem 2
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ này trên địa bàn tỉnh trong những năm tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước (Huỳnh Thanh Nhàn)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỌ VÀ TÊN: HUỲNH THANH NHÀN TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC Chuyên ngành: QUẢN LÝ CÔNG Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ: QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI - NĂM 2018 1
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. BÙI HUY KHIÊN Phản biện 1:…………………………………………………………. ………………………………………………………………………. Phản biện 2:…………………………………………………………. ………………………………………………………………………. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng họp …....., Nhà...... - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: … - Đường…………… - Quận……………… - TP……………… Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 201... Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia 2
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài luận văn Bình Phước là một tỉnh thuộc Đông Nam Bộ có 41 dân tộc anh em cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng của mình, do vậy để phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Bình Phước rất cần sự quan tâm của chính quyền địa phương và của toàn xã hội. Những điều kiện về sinh thái tự nhiên, xã hội và lịch sử đã để lại cho vùng đất này nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hoá đặc sắc gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vì thế, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước đến năm 2020 đã được phê duyệt là cơ sở khoa học để phát triển sự nghiệp VHTT&DL tỉnh Bình Phước đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025. Quy hoạch này cụ thể hóa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội tỉnh Bình Phước, phù hợp với chiến lược phát triển các lĩnh vực kinh tế, VHTT&DL của tỉnh. Với mong muốn khắc phục những hạn chế trong đời sống văn hóa, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước, học viên chọn đề tài "Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước" làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Cho đến nay, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về dịch vụ văn hóa và quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa không nhiều. Chúng ta có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Xây dựng thể chế trong lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh văn hóa phẩm hiện thời ở nước ta” do GS.TS. Hoàng Vinh chủ trì, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2003 – 2004. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước, luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ này trên địa bàn tỉnh trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa; trình bày khái niệm và sự cần thiết phải quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa; nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa; các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu, đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về các dịch vụ văn hóa: Hoạt động thư viện, phát hành sách; hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke, quán bar, vũ trường; hoạt động kinh doanh dịch vụ quảng cáo và hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch và các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa khác trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2010 cho đến nay. 3
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích, đánh giá các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu các vấn đề của luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Nghiên cứu các tài liệu có liên quan để có luận cứ khoa học cho việc làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh làm cơ sở để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. b. Phương pháp phân tích - tổng hợp Phương pháp này được sử dụng để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh, từ đó chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn phân tích làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các dịch vụ văn hóa, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các dịch vụ văn hóa để thấy được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế nêu trên. 6.2. Về thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và quản lý của các cơ quan chuyên môn trong và ngoài tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn được kết cấu chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ VĂN HÓA 1.1. Văn hóa và dịch vụ văn hóa 1.1.1. Khái niệm về văn hóa Ngay từ năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [24, tr 431]. Ở đây, Hồ Chí Minh hiểu văn hóa theo nghĩa 4
- rộng nhất của khái niệm này, bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, khẳng định lý do, tính tất yếu của sự tồn tại và phát triển của văn hóa. 1.1.2. Khái niệm dịch vụ văn hóa Dịch vụ văn hóa là một loại dịch vụ sự nghiệp, là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức, công dân trên lĩnh vực văn hóa do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc ủy nhiệm cho các cơ sở ngoài nhà nước đảm nhận nhằm đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của người dân trong việc thụ hưởng các của cải tinh thần của xã hội. 1.2. Khái quát chung về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa 1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là một nội dung trong quản lý nhà nước về văn hóa. Đây là hoạt động của nhà nước nhằm đảm bảo các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc Việt Nam đồng thời, nhằm phát huy hiệu quả các dịch vụ văn hóa để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng của người dân. 1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là cần thiết xuất phát từ các lý do chính sau đây: Thứ nhất, dịch vụ văn hóa là một loại hoạt động đặc thù, một bộ phận của văn hóa. Đối tượng của nó là sản phẩm văn hóa nhưng mục đích lại mang tính kinh tế, vì văn hóa không chỉ là lĩnh vực tinh thần thuần túy mà còn có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế, tạo ảnh hưởng khu vực và quốc tế. Thứ hai, dịch vụ văn hóa đã và đang trở thành thị trường và xu hướng thương mại hóa. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa phát triển hiện nay, sản phẩm văn hóa cũng trở thành hàng hóa, được trao đổi mua bán trên thị trường và là đối tượng của kinh doanh - dịch vụ. Chính yếu tố là hàng hóa này, làm cho sản phẩm văn hóa vừa dễ phổ biến vào đời sống nhân dân, vừa dễ bị thương mại hóa, làm cho sản phẩm văn hóa trở thành một loại hàng kinh doanh bất hợp pháp của một số người kinh doanh. Sự lưu hành công khai của nhiều sản phẩm văn hóa độc hại (phim sex, phim bạo lực, …), hoạt động không lành mạnh của một loạt quán karaoke, vũ trường, quán bar, Internet công cộng,... là những minh chứng. Thực trạng ấy, rõ ràng cần phải có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa bao gồm các nội dung chính sau: Nội dung thứ nhất: Xây dựng các thể chế quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Để quản lý tốt hoạt động văn hóa nói chung và dịch vụ văn hóa nói riêng, Nhà nước phải chú trọng xây dựng thể chế về văn hóa. Thể chế về văn hóa bao gồm hai loại hệ thống chuẩn mực: chuẩn mực luật pháp và chuẩn mực phong tục tập quán. Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa”. Cho đến nay, trong lĩnh vực văn hóa nói chung và dịch vụ văn hóa nói riêng, Quốc hội đã ban hành các luật: Luật Báo chí, Luật Điện ảnh, Luật Di sản văn hóa, Luật Xuất bản, Chính phủ và các bộ cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các dịch vụ văn hóa. 1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa 1.3.1. Những yếu tố trong đối tượng quản lý dịch vụ văn hóa Một là, sự phát triển của xã hội và kinh tế thị trường. 5
- Dịch vụ văn hóa vừa là văn hóa, vừa là kinh tế nên văn hóa và dịch vụ văn hóa chịu sự tác động bởi sự biến động và phát triển của xã hội, cũng như những tác động của cơ chế kinh tế thị trường. Chính điều này tác động đến quá trình quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Nó đòi hỏi Nhà nước quản lý dịch vụ văn hóa như là quản lý một đối tượng đặc thù, không đơn thuần quản lý theo kiểu hành chính. Mặt khác, Nhà nước quản lý dịch vụ văn hóa như là quản lý một hoạt động kinh doanh, phải chấp nhận sự cạnh tranh. Để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, Nhà nước phải xây dựng bộ máy quản lý dịch vụ văn hóa, xác định các cơ chế quản lý phù hợp, đồng thời phải xây dựng các chính sách riêng cho hoạt động dịch vụ văn hóa, trong đó có chính sách dành cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý dịch vụ văn hóa. Hai là, dịch vụ văn hóa trong xu thế mở cửa hội nhập. Những năm gần đây, các dịch vụ văn hóa đang phát triển mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tinh thần đa dạng của nhân dân, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được chú trọng bảo tồn và phát huy, các giá trị mới đang hình thành và phát triển. Giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước ngày càng mở rộng, nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị của thế giới được tiếp thu, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa của nhân dân ta. 1.3.2. Những yếu tố trong hoạt động quản lý nhà nước Một là, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có vị trí, vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật phản ánh hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong quản lý các dịch vụ văn hóa. Hai là, đội ngũ cán bộ, công chức quản lý về dịch vụ văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “cán bộ nào phong trào ấy”. Thật vậy, cán bộ quản lý về dịch vụ văn hóa có vai trò rất quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Nếu các cơ quan nhà nước quản lý về dịch vụ văn hóa có đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng, có trình độ, năng lực, có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm và thái độ làm việc đúng đắn, say mê, nhiệt tình trong công việc thì hiệu quả quản lý nhà nước chắc chắn sẽ cao, quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa sẽ đảm bảo đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Ngược lại, nếu cán bộ, công chức quản lý dịch vụ văn hóa không có trình độ, năng lực, không nhiệt tình trong công việc, có nhận thức lệch lạc về chức trách, nhiệm vụ của mình ắt sẽ gây ra những hậu quả xấu trong hoạt động quản lý các dịch vụ văn hóa, thậm chí bao che, tiếp tay cho những hành vi vị phạm pháp luật trong cung ứng các dịch vụ văn hóa. 1.4. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là đánh giá kết quả quản lý đạt được của các cơ quan nhà nước về dịch vụ văn hóa trong sự tương quan với mức độ chi phí các nguồn lực, trong mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả xã hội. Hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa được thể hiện thông qua những tiêu chí cụ thể dưới đây: Một là, chất lượng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách quản lý các dịch vụ văn hóa. Một trong những chức năng chủ yếu của cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách quản lý các dịch vụ văn hóa. Hai là, kết quả ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý các dịch vụ văn hóa. Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý các dịch vụ văn hóa cần đảm bảo khoa học, đầy đủ, sát thực, kịp thời để điều chỉnh các quan hệ trong quản lý các dịch vụ văn hóa. Nội dung và hình 6
- thức của văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành phù hợp với thẩm quyền của chủ thể ban hành và phải tuân thủ Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên và cơ quan quyền lực cùng cấp; ban hành theo trình tự, thủ tục luật định; bảo đảm cả tính hợp pháp và tính hợp lý. Văn bản quy phạm pháp luật về quản lý dịch vụ văn hóa cần được phổ biến rộng rãi đến các đối tượng quản lý và công chúng; cần được triển khai bằng phương tiện nhanh nhất, theo con đường ngắn nhất, tránh qua nhiều nấc trung gian không cần thiết. Tiểu kết chương 1 Văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, có chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực văn hóa cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Các giá trị, chuẩn mực văn hóa được truyền bá, lưu giữ, chắt lọc và phát triển trong tiến trình lịch sử của dân tộc, trở thành hệ thống các giá trị đặc trưng của dân tộc, bao gồm chính trị, đạo đức, luật pháp, khoa học, văn học nghệ thuật, tạo nên nền tảng tinh thần của mỗi dân tộc. Trong vai trò nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, thông qua chức năng xây dựng, bồi dưỡng nguồn lực con người về trí tuệ và tâm hồn, tài năng, đạo đức, nhân cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC 2.1. Những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bình Phước ảnh hưởng đến văn hóa và dịch vụ văn hóa 2.1.1. Điều kiện tự nhiên Bình Phước là tỉnh miền núi nằm về phía Tây của vùng Đông Nam Bộ, có diện tích tự nhiên là 6.874,62 km2; ranh giới hành chính được xác định: phía Đông giáp với tỉnh Đắc Nông, Lâm Đồng và Đồng Nai, phía Tây và Tây Bắc giáp với tỉnh Tây Ninh và Vương quốc Camphuchia, phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Bình Dương và Đồng Nai, phía Bắc giáp Vương quốc Campuchia, có đường biên giới dài khoảng 240km; tổng dân số tính đến ngày 31/12/2010 là 902.646 người, với mật độ dân số 131 người/km2. Ngày 01/01/1997, tỉnh Bình Phước được tái lập gồm 05 huyện phía Bắc tỉnh Sông Bé cũ: Đồng Phú, Bù Đăng, Lộc Ninh, Bình Long và Phước Long. Ngày 01/9/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/1999/NĐ-CP thành lập thị xã Đồng Xoài. Ngày 20/02/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 17/2003/NĐ-CP thành lập huyện Chơn Thành và Bù Đốp, được tách ra từ hai huyện Bình Long và Lộc Ninh. Ngày 01/5/2003, hai huyện Chơn Thành và Bù Đốp chính thức đi vào hoạt động. Tỉnh Bình Phước có 08 huyện, thị 94 xã, phường và thị trấn. Ngày 11/8/2009, Chính phủ có Nghị quyết số 35/NĐ-CP về việc “Điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Chơn Thành, huyện Bình Long, Huyện Phước Long; Điều chỉnh địa giới hành chính huyện Bình Long, huyện Phước Long để thành lập thị xã Bình Long, thị xã Phước Long; Thành lập các phường trực thuộc thị xã Bình Long, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước”. Sau khi thực hiện Nghị quyết này của Chính phủ, tỉnh Bình Phước có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, đó là: thị xã Đồng Xoài, Phước Long, Bình Long và các huyện: Đồng Phú, Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Bù Đăng với tổng số 111 đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. Trục giao thông chính của tỉnh Bình Phước là quốc lộ 13 và 14, là điểm nối quan trọng giữa các tỉnh Tây Nguyên với Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Hồ Chí Minh với vùng Đông Bắc Campuchia; đồng thời Bình Phước được xác định nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với những đặc điểm trên Bình Phước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc 7
- phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và giao lưu phát triển về văn hóa, thể thao và du lịch. Trong 5 năm (2011 - 2015) triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã, hội tỉnh Bình Phước đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã phát triển theo quy hoạch, duy trì tốc độ phát triển cao, đạt được nhiều mục tiêu quan trọng. Địa thế của tỉnh Bình Phước có đường bộ, đường giao thông thuận lợi, đất đai trù phú, có đường biên giới với nước bạn Campuchia tạo cho Bình Phước tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội. 2.1.2. Điều kiện kinh tế Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa GDP của tỉnh bình quân 5 năm (2012 - 2017) đạt 13,2%. Đây là mức tăng trưởng cao trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước còn gặp nhiều khó khăn. GDP bình quân đầu người năm 2005 chỉ đạt 470 USD nhưng đến năm 2015 đã đạt 1.890 USD. Công nghiệp, xây dựng từ 18% năm 2005 tăng lên 24,1% vào năm 2010; dịch vụ từ 25,3% tăng lên 28,8% và nông, lâm, thủy sản giảm từ 56,7% xuống còn 47,1%. Trong từng ngành đã có sự chuyển dịch cơ cấu, gắn sản xuất với thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm [4, tr 30]. 2.1.3. Điều kiện văn hóa - xã hội Bình Phước với 41 dân tộc anh em, có nguồn nhân lực dồi dào, tiềm năng văn hóa phong phú, nhiều di tích lịch sử văn hóa và cảnh quan đẹp là tiềm năng lớn để phát triển du lịch văn hóa gắn liền với các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa như: du lịch sinh thái; du lịch thắng cảnh, du lịch lịch sử; lễ hội truyền thống của các dân tộc. Bên cạnh đó, có sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau làm nên bức tranh văn hóa tỉnh Bình Phước ngày càng phong phú, đa dạng. Trước hết, là văn hóa của các dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời, tiêu biểu là người Xtiêng, M’nông, Tà Mun... với các giá trị như: văn hóa cồng chiêng, văn hóa cư trú, các lễ hội, nghệ thuật diễn xướng, các bài thuốc dân gian, nghệ thuật dệt vải, rèn sắt. 2.2. Thực trạng phát triển các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 2.2.1. Mạng lưới dịch vụ văn hóa * Dịch vụ karaoke, vũ trường: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có hai vũ trường hiện đang hoạt động với quy mô trung bình ở tại thị xã Đồng Xoài và thị xã Phước Long. Đối với hoạt động nhà hàng karaoke, theo thống kê trong năm 2015 - 2017, toàn tỉnh có 312 cơ sở. Các cơ sở kinh doanh nhà hàng karaoke phát triển tập trung chủ yếu ở các thị xã và thị trấn. Trong đó, thị xã Đồng Xoài và thị xã Phước Long là những địa phương có số lượng cơ sở kinh doanh dịch vụ này nhiều nhất. Sự ra đời và phát triển của các cơ sở vũ trường, nhà hàng karaoke trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã đáp ứng một phần nhu cầu vui chơi, giải trí của một bộ phận nhân dân, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. * Dịch vụ quảng cáo: Trên địa bàn tỉnh hiện có 07 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ quảng cáo. Từ năm 2010 đến nay, trung bình mỗi năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã cấp gần 500 giấy phép quảng cáo các loại (riêng năm 2015 là 691 giấy phép quảng cáo), trong đó phát triển mạnh nhất là hoạt động quảng cáo ngoài trời, tập trung chủ yếu ở thị xã Đồng Xoài. 2.2.2. Hoạt động dịch vụ văn hóa a. Hoạt động cung cấp dịch vụ Internet, trò chơi điện tử Hoạt động kinh doanh dịch vụ Internet là ứng dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, giúp cho người dân ngày càng tiếp cận nhanh với thông tin, nắm bắt được các hoạt động trong và ngoài nước. Do vậy, sự phát triển internet là một phần của xã hội ngày nay. Những năm qua, Internet đã có tác động, ảnh hưởng lớn đối với hầu hết mọi tầng lớp trong xã hội; giúp cho mọi người tiếp cận với kho tàng tri thức của nhân loại 8
- một cách dễ dàng, không phân biệt không gian, thời gian; không phân biệt quốc gia, vùng, miền, lãnh thổ. Internet đã kết nối thông tin, giúp nhân loại xích lại gần nhau hơn, là phương tiện giúp con người làm việc tốt hơn nếu biết khai thác hiệu quả. b. Hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke, vũ trường Bên cạnh mặt tích cực, trong hoạt động của loại hình này vẫn tồn tại tiêu cực như một số đối tượng lợi dụng hoạt động karaoke để tổ chức các hoạt động môi giới mại dâm, có cơ sở kinh doanh sử dụng từ 2 - 5 nhân viên phục vụ trong một phòng hát Karaoke, sử dụng người lao động làm việc tại nhà hàng Karaoke mà không có hợp đồng lao động, không đảm bảo đủ diện tích theo quy định phòng hát Karaoke, … 2.3. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 2.3.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Các cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa có Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Sở Thông tin và Truyền thông, ở cấp huyện là Phòng Văn hóa Thông tin huyện. 2.3.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thực hiện Thông tư liên tịch số 43/2008/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 06/06/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ về hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Văn hóa Thông tin thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, ngày 28/7/2008 UBND tỉnh Bình Phước đã ban hành Quyết định số 1239/QĐ-UBND quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước như sau: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao, du lịch và quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm) ở địa phương, các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ quyền hạn theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh và theo quy định của pháp luật. Quyết định số 1239/QĐ-UBND cũng quy định cụ thể các nhiệm vụ của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với các hoạt động dịch vụ văn hóa như: nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, thư viện, quảng cáo, các vấn đề về quyền tác giả, quyền liên quan đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật. 2.3.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Sở Thông tin và Truyền thông Sở Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, có chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình; cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông; quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm; các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Sở; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân cấp, uỷ quyền của UBND tỉnh và theo quy định của pháp luật. 2.3.2. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua a. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành văn hóa nói chung và dịch vụ văn hóa nói riêng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được chính quyền tỉnh phê duyệt. Đây là cơ sở để lập quy hoạch ngành, sản phẩm du lịch chủ yếu của tỉnh đến năm 2020. b. Quản lý công tác cấp phép cho các dịch vụ văn hóa Từ năm 2010 đến nay, hàng năm Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiếp nhận và trả kết quả khoảng 900 hồ sơ xin cấp phép các loại trong các lĩnh vực dịch vụ văn hóa, trong đó có hơn 200 giấy phép 9
- kinh doanh karaoke, 500 giấy phép quảng cáo các loại, còn lại là các giấy phép biểu diễn nghệ thuật, giấy phép trò chơi có thưởng. 2.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 2.4.1. Những thuận lợi Thứ nhất, chủ trương, đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển văn hóa và các dịch vụ văn hóa. Điều này thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa 8 với quan điểm cốt lõi là phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự định hướng này là một nền tảng pháp lý quan trọng đối với công tác xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Phước nói riêng trong hoàn cảnh mới. Bên cạnh đó, các nghị quyết, chương trình hành động của Đảng và Nhà nước về văn hóa đã tạo nên một sự thống nhất về tư tưởng, hành động của các cấp quản lý nhà nước, từ Trung ương đến địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc. Điều này đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần mang lại những thành tích to lớn trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và vật chất của các tầng lớp nhân dân, tạo nên những “chất kháng thể” chống lại những mặt trái kinh tế thị trường và những sản phẩm văn hóa độc hại xuất hiện khi thực hiện chính sách mở cửa hội nhập. Thứ hai, sự nhận thức đúng đắn và triển khai tích cực chiến lược, kế hoạch phát triển văn hóa của các cấp chính quyền tỉnh Bình Phước. Đây là điều kiện có tính chất quyết định trực tiếp đối với những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa của tỉnh. Chính nhờ sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, kịp thời mà ngành văn hóa, thể thao và du lịch, tỉnh Bình Phước đã từng bước vượt qua những khó khăn của một tỉnh mới được tái lập, có địa bàn và thành phần dân cư phức tạp. 2.4.2. Những hạn chế Một là, hạn chế trong công tác lập quy hoạch và triển khai quy hoạch phát triển các dịch vụ văn hóa. Ví dụ, đối với quy hoạch hoạt động quảng cáo ngoài trời trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn chưa có quy hoạch tổng thể, bao gồm cả quảng cáo tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Vì vậy, trong quá trình quản lý nhà nước về quảng cáo gặp những vướng mắc, bất cập như: chưa có sự thống nhất về quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo ngoài trời giữa các ngành: Văn hóa Thể thao và Du lịch, Xây dựng, Giao thông Vận tải, Quản lý đô thị. Việc này gây trở ngại cho các doanh nghiệp khi thực hiện quảng cáo thương mại ngoài trời, đồng thời gây khó khăn cho việc cấp phép cho hoạt động này. Quản lý nhà nước về dịch vụ quảng cáo cấp ở huyện và thị trấn còn bị buông lỏng; việc kiểm tra, xử lý sai phạm và cưỡng chế tháo dỡ gặp nhiều khó khăn do lực lượng thanh tra mỏng, kinh phí cho công tác này còn hạn chế, sự phối hợp giữa Thanh tra các ngành liên quan còn yếu, chưa thống nhất. 2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế Những hạn chế trong quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. 2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội ngày càng nhiều ở tất cả các lĩnh vực. Các dịch vụ văn hóa là một lĩnh vực các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân rất dễ tham gia đầu tư kinh doanh. Nhưng như đã nêu ở trên, kinh doanh dịch vụ văn hóa là một loại kinh doanh đặc thù, là loại kinh doanh cùng lúc có hai yếu tố: đối tượng đặc thù (văn hóa) và kinh tế thị trường. Vì thế, kinh doanh dịch vụ văn hóa thường đa dạng và diễn biến rất phức tạp. Các cơ quan nhà nước ở các cấp, ở một khía cạnh nào đó chưa thấy rõ đặc điểm này của dịch vụ văn hóa, không 10
- theo kịp sự phát triển của chúng. Vì vậy, các quy định về kinh doanh dịch vụ văn hóa thường thiếu hoặc quy định không chặt chẽ, còn có những sơ hở để các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa đã lợi dụng để vi phạm. 2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan Một là, chính quyền các cấp trong tỉnh chậm xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa cho từng giai đoạn; chưa xây dựng được cơ chế, chính sách phát triển các dịch vụ văn hóa trong cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập. Các thiết chế quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa còn thiếu, chất lượng thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Hai là, các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh dịch vụ văn hóa còn thiếu sự đồng bộ, một số quy định thiếu tính khả thi, gây lúng túng cho các cơ quan chức năng khi thực hiện nhiệm vụ. Chẳng hạn, Điều 14 của Thông tư 04/2009/TT-BVHTTDL ngày 16/12/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số quy định tại quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ, quy định trò chơi điện tử, bao gồm cả trò chơi trực tuyến, không được hoạt động sau 10 giờ đêm đến 8 giờ sáng hôm sau. Trong khi đó, Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet giao trách nhiệm cho chính quyền địa phương quy định giờ mở cửa đại lý Internet và UBND tỉnh Bình Phước đã ban hành Quyết định số 10/2009/QĐ-UBND ngày 16/4/2009 ban hành quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet địa bàn tỉnh, trong đó quy định các dịch vụ Internet công cộng trên địa bàn tỉnh được mở cửa từ 7 giờ đến 23 giờ. Mặt khác, chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh chậm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách lớn, bị động trước những vấn đề mới xuất hiện và một số biến đổi phức tạp trên lĩnh vực dịch vụ văn hóa. Chưa xây dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển các dịch vụ văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường. Ba là, nguyên nhân xuất phát từ sự đối phó của các chủ cơ sở kinh doanh các dịch vụ văn hóa. Qua ý kiến khảo sát 95 cán bộ văn hóa, có 90 cán bộ văn hóa (chiếm 95%) cho rằng, khó khăn lớn nhất trong công tác thanh tra, kiểm tra các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh xuất phát từ lý do này. Một Trưởng Phòng Văn hóa - Thông tin cho biết: “Địa phương cũng tổ chức đoàn liên ngành kiểm tra hoạt động của các điểm kinh doanh dịch vụ văn hóa, nhưng có một số cơ sở đối phó bằng cách khi có mặt đoàn kiểm tra thì nghiêm túc thực hiện, nhưng sau đó lại đâu vào đấy”. Đối với hoạt động kinh doanh băng đĩa, việc xử lý vi phạm không hề đơn giản bởi việc thẩm định nội dung vi phạm khó khăn và mất nhiều thời gian. Công tác thanh, kiểm tra không thực hiện được thường xuyên mà thường tổ chức theo các đợt thanh tra liên ngành, vì vậy khi có thông tin thanh, kiểm tra, các đại lý thường trá hình trưng bày băng đĩa có tem nhãn, cất giấu băng đĩa in sao lậu. Quá trình xử lý vi phạm không trực tiếp phạt được ngay tại thời điểm kiểm tra mà chỉ lập biên bản, thu giữ băng đĩa, sau quá trình thẩm định nội dung vi phạm mới tiến hành các biện pháp xử phạt cụ thể. Nhiều trường hợp chủ cửa hàng bỏ hàng hóa không đến cơ quan chức năng để giải quyết. Qua khảo sát học viên nhận thấy, tình trạng vi phạm trong kinh doanh băng đĩa hiện nay chủ yếu là vi phạm về bản quyền tác giả. Không chỉ với hoạt động kinh doanh băng đĩa mà các cơ sở kinh doanh dịch vụ khác như internet, karaoke,… đều có hình thức đối phó tương tự như vậy. Bốn là, nguyên nhân xuất phát từ đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước, đội ngũ cán bộ quản lý dịch vụ văn hóa, nhất là ở các phường, xã vừa thiếu về 11
- số lượng, vừa hạn chế về trình độ chuyên môn và phần lớn chưa được trang bị kiến thức quản lý một cách bài bản. Ở nhiều phường, xã, cán bộ chuyên trách về văn hóa phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác và nhiều khi phải điều chuyển qua công tác khác theo yêu cầu của chính quyền cơ sở. Một bộ phận cán bộ, công chức quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh chưa chú trọng rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, không kiên quyết bảo vệ các định hướng, chỉ đạo trong quản lý các dịch vụ văn hóa đã không chuyên tâm trong công việc, ủng hộ các thị hiếu sai lệch, thậm chí dung túng cho những hành vi vi phạm trong kinh doanh các dịch vụ văn hóa. Tiểu kết chương 2 Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 (năm 1986), Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế. Kéo theo đó là sự hình thành và phát triển các loại hình kinh doanh dịch vụ, trong đó có kinh doanh dịch vụ văn hóa. Cũng như tất cả các tỉnh, thành trong cả nước, kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước ngày càng phát triển, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của người dân và xã hội. 12
- Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DỊCH VỤ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC 3.1. Quan điểm quản lý nhà nước về phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Thực hiện chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương (Khóa IX), Hội nghị Trung ương lần thứ mười năm 2004 đã tiến hành kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương năm (Khóa VIII). Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) đã chỉ rõ cần tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương năm (Khóa VIII) đề ra. Năm quan điểm đó là: Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta xác định chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa đa dạng bởi Việt Nam là quê hương của 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có nền văn hóa riêng của dân tộc mình với những bản sắc riêng. Bản sắc của 54 nền văn hóa ấy tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất bởi 54 dân tộc anh em dù có nguồn gốc khác nhau nhưng đều có ý chí thống nhất, đều coi là con em một nhà, từ cùng một bà mẹ sinh ra (dân tộc Kinh có truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, các dân tộc Tây Nguyên có truyền thuyết “Quả bầu mẹ”, …). 54 nền văn hóa dân tộc cùng phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội chung, nên có cùng những điểm chung thống nhất với nhau. Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo trong đó có đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân. Giai cấp công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời là lực lượng chủ lực, nồng cốt trong xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ gắn bó với nhân dân lao động, được Đảng, Nhà nước và nhân dân tôn trọng, tạo điều kiện phát huy tài năng phục vụ nhân dân, cống hiến cho sự phát triển của nền văn hóa dân tộc. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của nền văn hóa Việt Nam. Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. 13
- Xây dựng nền văn hóa là quá trình đấu tranh kiên trì, bền bỉ, lâu dài để giữ gìn và phát huy giá trị, bản sắc dân tộc, đấu tranh chống lại tàn dư của chế độ cũ và sự xâm nhập, phá hoại của các yếu tố tiêu cực, ngoại lai. Xây dựng nền văn hóa trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là “chính”, để chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Xây dựng các giá trị văn hóa mới, con người mới là quá trình lâu dài, gian khổ, đòi hỏi kiên trì, bền bỉ, sự dũng cảm, ý chí quyết tâm và tinh thần sáng tạo. Mới đây, Văn kiện Đại hội XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [19, tr 75]; “phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” [19, tr 76]. 3.1.2. Quan điểm, mục tiêu của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Phước Kế hoạch số 84-KH-UBND ngày 03/4/2017 của UBND tỉnh Bình Phước đề ra các mục tiêu phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh bao gồm các nội dung chính sau: * Mục tiêu chung: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước với các ngành chủ yếu bao gồm: quảng cáo, các trò chơi giải trí, xuất bản, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, du lịch văn hóa, ...v,v, nhằm hình thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng. Từ đó, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong tỉnh, khu vực, quốc gia và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh vùng đất và con người Bình Phước; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Bình Phước. * Các mục tiêu cụ thể: - Từ năm 2017 - 2020: Định hướng và từng bước phát triển các ngành như: biểu diễn nghệ thuật, điện ảnh, thiết kế mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Hỗ trợ đầu tư phát triển nguồn nhân lực; hình thành rõ nét nền công nghiệp văn hóa ở địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức trong nước và quốc tế, các cơ quan văn hóa, du lịch ở nước ngoài giới thiệu về hình ảnh đất nước, văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh Bình Phước. - Đến năm 2030: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng chuyên nghiệp và đồng bộ, khuyến khích quảng bá nền du lịch văn hóa của tỉnh trong và ngoài nước. Về du lịch văn hóa: Đưa Khu du lịch tâm linh núi Bà Rá, Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng Sóc Bom Bo, khu di tích quốc gia đặc biệt căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phòng miền Nam Việt Nam vào khai thác và trở thành điểm du lịch hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Hình thành tour, tuyến du lịch tìm hiểu đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc S’tiêng, Mơnông ở Bình Phước. 3.2. Cơ sở và nguyên tắc xây dựng các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa 3.2.1. Cơ sở xây dựng các giải pháp 14
- Một là, cơ sở lý luận: Đó chính là vai trò của văn hóa và dịch vụ văn hóa đối với đời sống xã hội trong giai đoạn hiện nay và quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về phát triển văn hóa mà chúng tôi đã trình bày ở Chương 1, ở đây chúng tôi không trở lại. Hai là, cơ sở pháp lý: Khi đưa ra các giải pháp, học viên căn cứ vào một số văn bản pháp lý sau đây: - Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10 năm 2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật di sản văn hóa số 32/2009/QH12 của Quốc hội năm 2009. - Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ số 36/2009/QH12 năm 2009 của Quốc hội. - Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 của Quốc hội năm 2012. - Nghị quyết số 79/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình, ca múa nhạc, sân khấu. - Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ ban hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng. - Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa. - Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo. - Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20/03/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo. - Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/7/2005 của Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về quản lý đại lý Internet. - Quyết định số 2577/QĐ-UBND ngày 27/12/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước phê duyệt Quy hoạch karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long giai đoạn 2007 - 2010 và định hướng đến năm 2020. - Kế hoạch số 84-KH-UBND ngày 03/4/2017 của UBND tỉnh Bình Phước đề ra các mục tiêu phát triển văn hóa và dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Ba là, cơ sở thực tiễn: Đây chính là tình hình hoạt động của các dịch vụ văn hóa và quản lý hoạt động của các dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua. 3.2.2. Nguyên tắc xây dựng các giải pháp Nguyên tắc thứ nhất: các giải pháp phải đi đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng, phù hợp với các văn bản pháp lý của Nhà nước. Nguyên tắc này được hiểu theo các nội dung sau: Một là, trong giai đoạn đất nước đang tiếp tục công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thời kỳ mở rộng giao lưu hội nhập với thế giới – văn hóa vừa là một thị trường, vừa là một chiến trường. Là một thị trường, sự phát triển của các dịch vụ văn hóa là một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đi theo quy luật thị trường, tất nhiên trong hoạt động dịch vụ 15
- văn hóa sẽ có sự cạnh tranh. Cạnh tranh lành mạnh hay không của các dịch vụ văn hóa do Nhà nước quản lý như thế nào. Là một chiến trường, một mặt trận không tiếng súng, nhưng ở lĩnh vực văn hóa nói chung, dịch vụ văn hóa nói riêng đã, đang và sẽ diễn ra một cuộc chiến không kém phần gay gắt, quyết liệt giữa hai xu hướng ngược chiều nhau: xu hướng lành mạnh, tích cực và xu hướng không lành mạnh, tiêu cực. Do đó, các giải pháp về quản lý các dịch vụ văn hóa phải thấy và làm rõ những khía cạnh này. Hai là, dịch vụ văn hóa rất đa dạng, phức tạp và mang tính đặc thù. Đa dạng, phức tạp bởi dịch vụ văn hóa có rất nhiều loại hình, mỗi loại hình có những đặc điểm riêng. Đặc thù không chỉ ở chỗ dịch vụ văn hóa khác với các loại hình dịch vụ khác mà còn ở ngay trong các loại hình dịch vụ văn hóa. Tất cả các loại hình dịch vụ văn hóa ngoài những điểm chung của một lĩnh vực đặc thù thì mỗi loại hình dịch vụ văn hóa có điểm riêng của nó. Chẳng hạn, dịch vụ karaoke chắc chắn khác với dịch vụ lễ hội, dịch vụ quảng cáo. Do đó khi xây dựng các giải pháp về quản lý dịch vụ văn hóa phải có những giải pháp chung cho mọi loại hình dịch vụ văn hóa và phải có những giải pháp riêng cho mỗi loại hình dịch vụ văn hóa. Nguyên tắc thứ hai: các giải pháp phải tạo thành một hệ thống, trong đó các giải pháp phải hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Mỗi giải pháp được đưa ra là một phần của một giải pháp tổng thể. Các giải pháp liên kết với nhau thành một hệ thống giải pháp, trong đó mỗi giải pháp giải quyết một nội dung của một giải pháp chung mang tính tổng thể; giải pháp trước làm cơ sở cho giải pháp sau, giải pháp sau cụ thể hóa giải pháp trước. Chẳng hạn, giải pháp hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa làm cơ sở để có các giải pháp về hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động dịch vụ văn hóa và giải pháp đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ văn hóa. Ngược lại, các giải pháp về hoàn thiện các chính sách đối với dịch vụ văn hóa và đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ văn hóa nhằm cụ thể hóa hai trong nhiều nội dung của hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa. Nguyên tắc thứ ba: Hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Hiệu quả quản lý nhà nước phản ánh kết quả thực hiện mục tiêu của quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Chúng ta có thể đo lường tiêu chí này bằng các chỉ số như: số lượng dịch vụ văn hóa có chất lượng được cung ứng cho xã hội; kết quả hoạt động của các đơn vị cung ứng dịch vụ văn hóa; sự hài lòng của người dân với các dịch vụ văn hóa; số các đơn vị cung ứng dịch vụ văn hóa vi phạm pháp luật; tỷ lệ các vi phạm pháp luật được giải quyết... Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là nhằm nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ văn hóa, đáp ứng tốt các yêu cầu của người dân và xã hội. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa phải gắn xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc văn hóa dân tộc với xây dựng nền văn hóa theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Bên cạnh đáp ứng yêu cầu số lượng, cung ứng dịch vụ văn hóa cần chú trọng đến chất lượng và hiệu quả. Đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa không chỉ đánh giá kết quả về số lượng, chất lượng dịch vụ mà phải xem xét mức độ chi phí, đầu tư các nguồn lực để có được kết quả đó. Phải đánh giá cả hiệu quả về mặt kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội. 3.3. Các giải pháp chung và giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước 16
- 3.3.1. Các giải pháp chung 3.3.1.1. Giải pháp về tuyên truyền, giáo dục Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho người dân và các đơn vị kinh doanh nhận thấy rõ những tác dụng tích cực và những tác hại không lành mạnh của các dịch vụ văn hóa. - Đối với người dân: thông qua công tác tuyên truyền làm cho mọi người dân nhận thấy những mặt tích cực, lành mạnh của các dịch vụ văn hóa đối với đời sống xã hội, đối với từng người để từ đó mỗi người có ý thức phát huy những yếu tố tích cực đó và chủ động tham gia, đóng góp cho hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Bên cạnh đó, phải làm cho họ nhận thấy những mặt tiêu cực, hạn chế, không lành mạnh của các dịch vụ văn hóa, nhất là các dịch vụ văn hóa nhạy cảm hoặc sử dụng công nghệ cao để từ đó người dân có ý thức phòng ngừa cho chính bản thân và con em mình, đồng thời mạnh dạn ngăn chặn mọi dịch vụ văn hóa sai trái. Chẳng hạn như, thông qua tuyên truyền làm cho người dân thấy được những tác dụng tích cực của games online cũng như những tiêu cực của nó để từ đó họ chủ động phối hợp với nhà trường và cộng đồng giáo dục con em họ hiểu được những mặt tốt, xấu của internet và khai thác internet hiệu quả hơn. Các cấp chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm xây dựng và thực hiện các cơ chế để nhân dân giám sát, kiểm tra tốt hơn các vấn đề như quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa của chính quyền địa phương và ngành chức năng, kết quả thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định và chỉ thị của UBND trên lĩnh vực dịch vụ văn hóa; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các vi phạm trong quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa; các hoạt động và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Cơ chế đó là nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước về dịch vụ văn hóa và cán bộ, công chức hoặc giám sát gián tiếp thông qua các tổ chức chính trị - xã hội hoặc ban thanh tra nhân dân. Chính quyền cơ sở phải chủ động chủ trì phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận và các đối tượng có liên quan để xem xét các ý kiến của nhân dân trong quá trình kiểm tra, giám sát, rút kinh nghiệm, xử lý các sai phạm nhằm bảo đảm cho hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa trên địa bàn đạt hiệu quả. - Đối với người kinh doanh các dịch vụ văn hóa: tuyên truyền, vận động để họ nhận thức được trách nhiệm của mình đối với xã hội, giáo dục cho họ ý thức tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh. Phải làm sao cho mỗi người kinh doanh các dịch vụ văn hóa ý thức được mục đích kinh doanh, không vì lợi ích cá nhân mà vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an ninh xã hội. Chính quyền địa phương nên có những hình thức nêu gương điển hình, những điểm sáng văn hóa; kiểm điểm, nhắc nhở các cơ sở chưa chấp hành đúng quy định trong tổ chức hoạt động kinh doanh. Phát động thi đua, xây dựng và nhân rộng các điển hình đối với cơ sở tổ chức hoạt động kinh doanh lành mạnh, tích cực tham gia công tác xã hội. Động viên, khen thưởng kịp thời và có biện pháp bảo vệ những người khai báo, tố giác những biểu hiện vi phạm pháp luật trong kinh doanh các dịch vụ văn hóa. - Đối với các đơn vị tổ chức các hoạt động kinh doanh: tuyên truyền để các đơn vị kinh doanh không vì lợi ích trước mắt mà ảnh hưởng đến đời sống văn hóa cộng đồng hay gây hậu quả lâu dài. Thực tế ở Bình Phước cho thấy, trong các hoạt động lễ hội nhất là các lễ hội ở đình, chùa, các cơ quan chức năng ở cấp 17
- huyện và xã chưa quan tâm đúng mức đến tình trạng buôn bán hàng mã, bói toán hoặc tăng chi phí dịch vụ vượt mức quy định. Các cấp chính quyền địa phương, ngành văn hóa, ngành tư pháp cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền, phổ biến các văn bản luật, nghị định, thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương về quản lý các dịch vụ văn hóa. Các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về dịch vụ văn hóa trong nhân dân. Hội Cựu chiến binh, Phụ nữ, Nông dân, Đoàn Thanh niên tổ chức sinh hoạt quán triệt nội dung các văn bản liên quan đến công tác quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa, phòng chống các tệ nạn xã hội trong hội viên. Đồng thời, thường xuyên giám sát hoạt động của các cơ sở cung ứng dịch vụ, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội. - Đối với thanh thiếu niên, học sinh: ngành văn hóa cần phối hợp với nhà trường, cha mẹ các em, giáo dục tuyên truyền về những tác dụng tích cực và những tác hại của các dịch vụ văn hóa. Song song đó, ngành Giáo dục và Đào tạo cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật thông qua các hoạt động ngoại khóa của học sinh, sinh viên; gắn giáo dục pháp luật với thực tiễn chấp hành pháp luật trên lĩnh vực văn hóa, nhất là các văn bản pháp luật trên các lĩnh vực dịch vụ Internet, karaoke, vũ trường, trò chơi điện tử. Cần phổ biến cụ thể đến từng học sinh, sinh viên để giáo dục các em về ý thức chấp hành pháp luật; không sa đà vào những tiêu cực trên các loại hình dịch vụ này; chủ động phát hiện và tố giác những đối tượng không chấp hành các quy định của pháp luật. Để tuyên truyền, giáo dục có hiệu quả cần phải đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, giáo dục. Ngành văn hóa cần chủ động tham mưu cho chính quyền địa phương cùng cấp thường xuyên tổ chức các hoạt động thông tin, tuyên truyền các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý các dịch vụ văn hóa qua hệ thống đài phát thanh, truyền hình, sử dụng các đội thông tin lưu động, các đội văn nghệ quần chúng; các hình thức tuyên truyền cổ động trực quan như băng rôn, khẩu hiệu, panô, áp phích. Bên cạnh đó, tăng cường các hoạt động tuyên truyền ở cơ sở như trao đổi, đối thoại, thảo luận, giải đáp những yêu cầu từ phía người dân. Các phương tiện thông tin báo chí trên địa bàn tỉnh chủ động xây dựng các chuyên trang, chuyên mục mới về tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến dịch vụ văn hóa, nêu gương điển hình tốt, những sáng kiến hay trong tổ chức thực hiện thông tin tuyên truyền và chấp hành pháp luật. Báo, đài phải thực sự trở thành diễn đàn tin cậy của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, là nơi phản ánh những đề xuất, kiến nghị của người dân với Đảng, Nhà nước về các chính sách, về những bất cập, bức xúc trong trong hoạt động quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa. Tuyên truyền, giáo dục theo chuyên đề, tổ chức tập huấn cho chủ cửa hàng đăng ký kinh doanh, phô tô các văn bản của nhà nước về các quy định, điều kiện, tiêu chuẩn cho phép đối với từng loại hình kinh doanh dịch vụ văn hóa, những quy định nghiêm cấm và hình thức xử phạt hành chính đến các chủ cơ sở để họ nắm bắt và kinh doanh đúng pháp luật. Để giúp cho các tổ chức, công dân trên địa bàn tỉnh nắm vững pháp luật liên quan đến lĩnh vực dịch vụ văn hóa, các cấp chính quyền địa phương cần phát huy vai trò của cán bộ văn hóa thông tin trong công tác tuyên truyền; định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật. 18
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ và tiếng dân tộc cho đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại những địa bàn liên quan. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của các luật gia, cán bộ công đoàn, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đội thanh niên tình nguyện để thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về dịch vụ văn hóa. Thường xuyên cung cấp các tài liệu tuyên truyền các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực dịch vụ văn hóa cho các tổ chức, công dân; trong đó đặc biệt quan tâm đến việc phổ biến pháp luật và cung cấp tài liệu tuyên truyền cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, cụ thể như: cung cấp tài liệu bằng tiếng dân tộc, sử dụng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật biết tiếng dân tộc, là người dân tộc thiểu số để phổ biến pháp luật cho đồng bào dân tộc. 3.3.1.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa Như đã nêu ở chương 2, chúng ta thấy trong thực tiễn quản lý các hoạt động dịch vụ văn hóa có những vấn đề trong quản lý các dịch vụ văn hóa mà pháp luật chưa đề cập tới, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước về dịch vụ văn hóa là rất cần thiết. Để hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về dịch vụ văn hóa, tạo cơ sở nâng cao hiệu quả quản lý cần: Một là, cần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp thực tiễn, còn gây nên những vướng mắc, không thống nhất khi thực thi. Ví dụ, Điều 32 Nghị định 103/2009/NĐ-CP quy định: chủ cơ sở kinh doanh Karaoke không được bán rượu hoặc để cho khách uống rượu trong phòng karaoke. Quy định như vậy, cá nhân tổ chức hoạt động Karaoke sẽ dễ dàng “lách luật” gây khó cho cơ quan xử lý hành chính khi vi phạm. Lý do, rượu, bia đều là những chất có cồn, nếu cấm chủ cơ sở kinh doanh không bán rượu thì có quyền bán bia và cho khách uống bia trong phòng Karaoke. Về xử phạt vi phạm hành chính, Điều 18 Nghị định 75/2010/NĐ-CP quy định, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi: cho người say rượu, bia vào vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, phòng karaoke; say rượu, bia ở công sở, nơi làm việc, khách sạn, nhà hàng, quán ăn, vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, phòng karaoke, nơi hoạt động văn hóa, kinh doanh dịch vụ văn hóa, trên các phương tiện giao thông và những nơi công cộng khác. Như vậy, Quy chế về hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng mâu thuẫn với Nghị định xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa, gây khó cho cơ quan xử lý, đồng thời dựa vào sự bất cập ấy người dân dễ lách luật. 3.3.2. Giải pháp cụ thể đối với một số loại dịch vụ văn hóa 3.3.2.1. Giải pháp đối với dịch vụ internet, games online Về giải pháp kỹ thuật, UBND tỉnh phối hợp với nhà cung cấp dịch vụ internet quản lý dịch vụ internet và trò chơi trực tuyến bằng giải pháp công nghệ: lắp 2 đường truyền, một đường truyền chuyên dùng để phục vụ khách hàng chơi games online và một đường truyền dành cho nhu cầu gia đình. Sau 23 giờ, nếu nhà cung cấp dịch vụ thấy có đường truyền internet công cộng nào còn hoạt động, máy tính sẽ lưu lại thông tin và cơ quan quản lý sẽ xử phạt đại lý kinh doanh đó. 3.3.2.2. Giải pháp đối với dịch vụ quảng cáo Hiện tại tỉnh Bình Phước chưa có quy hoạch quảng cáo ngoài trời, vì vậy quản lý nhà nước về dịch vụ này còn một số hạn chế cần phải khắc phục. Quảng cáo ngoài trời cần phải đảm bảo tính thẩm mỹ về hình thức, tính chân thực về nội dung; đảm bảo an toàn giao thông; rõ ràng, không gây nhầm lẫn về thương hiệu. Trước mắt, chính quyền tỉnh cần xây dựng Đề án quy hoạch quảng cáo ngoài trời, trong đó lĩnh vực quảng cáo thương mại phải được quy hoạch theo từng khu vực cụ thể. Tại hai thị xã, căn cứ vào diện tích, 19
- mật độ dân số, mức độ và nhu cầu phát triển của ngành công nghiệp quảng cáo tiến hành quy hoạch thành từng tuyến đường, từng khu vực cho từng loại hình quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quảng cáo phát triển đúng pháp luật, đồng thời đảm bảo công tác quản lý được thuận lợi, đảm bảo mỹ quan đô thị. Hạn chế việc xây dựng các biển, bảng, panô quảng cáo có diện tích một mặt từ 60m2 trở lên, nhất là với khu vực tập trung đông dân cư. Tại các huyện, quy hoạch quảng cáo thương mại tập trung tại một số tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ có vị trí thuận tiện, các khu vực trung tâm huyện; xác định loại hình quảng cáo ngoài trời phù hợp đối với mỗi tuyến, điểm. Các khu vực không được phép quy hoạch quảng thương mại ngoài trời gồm: Trụ sở các cơ quan Đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan Trung ương, doanh trại quân đội, trụ sở các cơ quan công an, khu vực Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ, trường học, các di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh đã được Nhà nước xếp hạng. 3.3.2.3. Giải pháp đối với dịch vụ karaoke Ngoài những quy định về tiêu chuẩn phòng karaoke, thiết bị âm thanh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải quy định về tiêu chuẩn đội ngũ nhân viên phục vụ trong các cơ sở dịch vụ karaoke: - Nhân viên phục vụ phải từ 18 tuổi trở lên, được tập huấn về kỹ năng chuyên môn, văn minh trong giao tiếp, ứng xử; đạo đức và được cấp chứng chỉ hành nghề theo chương trình đào tạo của ngành Lao động, Thương binh và Xã hội. - Nhân viên phục vụ trong các quán karaoke phải được trang bị đồng phục, kín đáo, có bảng tên để khách hàng dễ dàng nhận biết. Mỗi phòng karaoke chỉ sử dụng 01 nhân viên phục vụ (nam hoặc nữ) để điều chỉnh hệ thống máy hát karaoke, máy điều hòa, ánh sáng. Để hỗ trợ cho việc này, tỉnh cần có chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển các cơ sở đào tạo nhân viên có tay nghề và cung ứng nguồn lao động phục vụ trên lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn hóa (hiện nay tỉnh chưa có cơ sở đào tạo ngành nghề này). Làm được điều này cũng đồng nghĩa với việc chuẩn hóa đội ngũ nhân viên phục vụ, có văn hóa giao tiếp phù hợp. Mặt khác, để vừa đảm bảo quyền kinh doanh hợp pháp của người dân trong hoạt động cung cấp dịch vụ karaoke, vừa góp phần đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân thì cần gắn hoạt động này với việc thực hiện nếp sống văn hóa trong phong trào “Toàn dân đàn kết xây dựng đời sống văn hóa” nhất là chương trình xây dựng khóm, ấp văn hóa, gia đình văn hóa nhằm tăng cường sự giám sát của nhân dân ở khu dân cư đối với các quán karaoke trong khu vực, địa bàn mình. Tỉnh cần có kế hoạch thực hiện quy hoạch các cơ sở karaoke tập trung thành khu vực như: khu vực có nhiều nhà máy, xí nghiệp, nhà trọ công nhân, khu ký túc xá sinh viên và những nơi tập trung đông dân cư… để hình thành khu sinh hoạt vui chơi giải trí lành mạnh, vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần vừa thuận lợi trong công tác quản lý nhà nước. 3.4. Một số kiến nghị và đề xuất - Đối với các thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép kinh doanh dịch vụ văn hóa: Một số văn bản của Trung ương chưa quy định rõ về hiệu lực của giấy phép, thời gian giải quyết thủ tục hành chính, số lượng hồ sơ, bản chính, bản sao dẫn đến mỗi địa phương có cách thức thực hiện khác nhau, tạo kẽ hở cho 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 504 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 342 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 307 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 331 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 228 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 220 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 233 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm tra thuế của Cục thuế tỉnh Điện Biên đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản
9 p | 16 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 201 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn