Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức và hoạt động của thanh tra bộ tài nguyên và môi trường
lượt xem 2
download
Luận văn được chia thành 3 chương được trình bày như sau: Cơ sở khoa học về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ; Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Tổ chức và hoạt động của thanh tra bộ tài nguyên và môi trường
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VĂN THỊ HOÀI THANH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI – NĂM 2017
- Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: TS Bùi Thị Thanh Thúy Phản biện 1:…………………………………………………… …………………………………………………………………. Phản biện 2:…………………………………………………… ………………………………………………………………….. Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng ………., Nhà D - Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh- Quận Đống Đa – TP Hà Nội Thời gian: vào hồi …… giờ …… tháng …… năm 2017 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web của Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước, hoạt động thanh tra luôn gắn liền với chủ thể quản lý, vì vậy, hình thức nhà nước nào – hình thái xã hội nào cũng cần đến hoạt động thanh tra. Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, những năm qua đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để bước vào thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cùng với việc phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách nền hành chính; trong xu thế đổi mới đó, hoạt động thanh tra đã góp phần tăng cường pháp chế, thiết lập kỷ cương xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền - lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan, tổ chức; thông qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta đang dần hội nhập sâu rộng, kinh tế ngày càng tăng trưởng. Tăng trưởng là hết sức cần thiết nếu các quốc gia nghèo chỉ hướng tới việc hưởng thụ thu nhập. Tuy nhiên, tăng trưởng sẽ trở nên hão huyền và xa vời nếu nó được tạo ra chủ yếu bởi sự tiêu thụ nguồn lực cơ sở của nền kinh tế, trong đó có tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Các nguồn tài nguyên không thể phục hồi, một khi đã bị khai thác chỉ có thể trở nên suy thoái, cạn kiệt. Tài nguyên thiên nhiên là hàng hóa kinh tế đặc biệt vì chúng ta không thể sản xuất ra được. Do đó, tài nguyên thiên nhiên sẽ mang lại lợi nhuận kinh tế - thuế tài nguyên - nếu quản lý tốt. Các nguồn thu này có thể là một nguồn tài chính phát triển quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào. Cùng với tài nguyên thiên nhiên, việc bảo vệ môi trường có ý nghĩa sống còn với sự tồn vong của nhân loại. Vì vậy, quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường góp phần quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của quốc gia, trong đó hoạt động thanh tra tài nguyên và môi trường giữ vai trò then chốt. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, việc xây dựng các luận cứ khoa học để nâng cao hiệu quả trong tổ chức và hoạt động Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường là rất cấp thiết. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường ” để thực hiện Luận văn cao học chuyên ngành Quản lý công. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được tiếp cận ở những góc độ nhất định như: Đề tài khoa học cấp Bộ “Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ giữa Thanh tra bộ và thanh tra chuyên ngành - thực trạng và giải pháp” do Thanh tra viên cao cấp Nguyễn Khắc Hường làm chủ nhiệm đề tài năm 2004; Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Huy Hoàng “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ, thanh tra chuyên ngành” (2004); Luận văn thạc sỹ Luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra Việt Nam” (2004) của Lê Thị Thu Oanh; Luận án tiến sĩ luật học “Tổ chức và hoạt động 1
- của các tổ chức thanh tra ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trang và giải pháp” (2008) của tác giả Nguyễn Thiện Thuật; Luận văn thạc sỹ Luật học “ Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra chuyên ngành ở Việt Nam hiện nay” (2011) của tác giả Nguyễn Thị Thục; Đề tài khoa học cấp cơ sở “Hoạt động thanh tra chuyên ngành của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành” của Ths. Nguyễn Thị Hải Yến (2013); Sách tham khảo “Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới” (2001), Nguyễn Văn Kim chủ biên. Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khác như: bài viết “Cần ban hành một Nghị định riêng về Thanh tra chuyên ngành” của tác giả Bùi Sĩ Lợi đăng trên Tạp chí Thanh tra số 10/2007; “ Những bất cập trong các quy định của pháp luật về thanh tra” của tác giả Đổng Quang Hưng, tạp chí Thanh tra số 10/2007; “ Mô hình nào cho tổ chức và hoạt động của hệ thống thanh tra Tổng cục, Cục và Chi cục”, Nguyễn Hữu Quân đăng trên Tạp chí Thanh tra số 5/ 2008; Nguyễn Thị Thương Huyền (2008), “Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức thanh tra theo ngành, lĩnh vực hiện nay ”. Một số giáo trình: giáo trình “Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Đại học Luật Hà Nội năm 2010; giáo trình “Thanh tra và giải quyết khiếu nại hành chính” của Học viện Hành chính Quốc gia năm 2011. Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống dưới góc độ khác nhau về thanh tra nói chung cũng như tổ chức và hoạt động thanh tra Bộ nói riêng. Tuy từ khi Luật Thanh tra 2010 được ban hành đến nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào được công bố nghiên cứu một cách tổng thể, đầy đủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường dưới góc độ khoa học hành chính, nhưng các công trình nghiên cứu về thanh tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng trong những năm qua là nguồn tài liệu vô cùng bổ ích, có giá trị tham khảo để tác giả hoàn thành đề tài nghiên cứu này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn: đưa ra hệ thống các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. Nhiệm vụ của luận văn là: Đề ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đáp ứng yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Về tổ chức, Luận văn nghiên cứu tổ chức của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. Về hoạt động, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tiến hành thanh tra của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường (bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành). Luận văn không đi sâu tìm hiểu các hoạt động nội bộ của Thanh tra bộ cũng như các hoạt động trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng và quản lý nhà nước trong các lĩnh vực trên. 2
- - Phạm vi thời gian: tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật - biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên, môi trường cũng như trong đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khi thực hiện đề tài là: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp thống kê… 6. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Luận văn sẽ cung cấp luận cứ khoa học giúp các nhà quản lý tiến hành nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. 3
- Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ 1.1. Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ 1.1.1. Khái niệm thanh tra Luật Thanh tra năm 2010 đi vào trực tiếp xác định khái niệm thanh tra nhà nước. Theo đó: “thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành” (Khoản 1 Điều 3). Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (Khoản 2 Điều 3). Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó (Khoản 3 Điều 3). Khái niệm thanh tra trong Luật Thanh tra 2010 cơ bản đã đáp ứng yêu cầu về mặt khoa học, phản ánh đầy đủ bản chất hoạt động thanh tra. 1.1.2. Tổ chức Thanh tra bộ Tổ chức thanh tra là một thiết chế của nhà nước, bao gồm các bộ phận, chức vụ được thành lập theo những nguyên tắc nhất định để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra. Nghiên cứu về tổ chức nói chung cũng như tổ chức của Thanh tra bộ nói riêng, có thể xem xét các yếu tố cấu thành như sau: - Về vị trí pháp lý Theo Điều 17 Luật Thanh tra 2010, Thanh tra bộ là tổ chức trực thuộc Bộ. Cùng theo Điều 40 Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ gồm: “Vụ, Văn phòng, Thanh tra, Cục, Tổng cục, đơn vị sự nghiệp công lập”. Như vậy, về vị trí pháp lý, trong tổ chức thuộc, Thanh tra Bộ là đơn vị cấu thành bắt buộc và ngang hàng với Vụ, Văn phòng, Tổng cục, Cục. - Về chức năng Theo Khoản 1 Điều 17 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra Bộ là cơ quan của bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Như vậy, căn cứ vào Luật Thanh tra 2010, Thanh tra bộ tiến hành ba chức 4
- năng: Chức năng thanh tra (bao gồm hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành) và giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra; chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo; chức năng phòng, chống tham nhũng và giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. - Về nhiệm vụ, quyền hạn Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra bộ Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập; Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách; Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao; Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ khi cần thiết. Thanh tra bộ giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra Bộ Quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về quyết định của mình; Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ trưởng giao; Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan đó khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng về quyết định của mình; Kiến nghị Bộ trưởng tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sai trái về thanh tra của cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; Kiến nghị Bộ trưởng giải quyết vấn đề liên quan đến công tác thanh tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ; Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý; kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra; Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; Kiến nghị Bộ trưởng xem xét trách nhiệm, xử lý 5
- người thuộc quyền quản lý của Bộ trưởng có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra; yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức xem xét trách nhiệm, xử lý người thuộc quyền quản lý của cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phát hiện qua thanh tra hoặc không thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra. - Về cơ cấu tổ chức Cơ cấu của tổ chức chính là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu hiện qua việc sắp xếp các bộ phận cấu thành theo một trật tự nhất định và xác lập mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau. Việc xác định cơ cấu của tổ chức của mỗi cơ quan chính là việc thiết lập các bộ phận và liên kết chúng lại với nhau thành một hệ thống. Theo Khoản 2 Điều 17 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên. Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ. Phó Chánh Thanh tra bộ giúp Chánh Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ.” Thanh tra viên là công chức được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra.Thanh tra viên được cấp trang phục, thẻ thanh tra. Thanh tra viên phải tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp và trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được gaio. Thanh tra viên có các ngạch như sau: Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên cao cấp. Trong hoạt động thanh tra, cơ quan Thanh tra bộ có quyền trưng tập cộng tác viên thanh tra. Công tác viên thanh tra là người có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra. Tiêu chuẩn cụ thể, chế độ, chính sách, trách nhiệm đối với cộng tác viên thanh tra; việc trưng tập cộng tác viên thanh tra do Chính phủ quy định. - Về mối quan hệ phối hợp Mối quan hệ phối hợp bao gồm mối quan hệ bên trong và mối quan hệ bên ngoài. Mối quan hệ bên trong bao gồm hai đối tượng: Quan hệ giữa tổ chức thanh tra với thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp (Bộ trưởng) và quan hệ với Thanh tra Bộ và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ (Tổng Cục, Cục). Mối quan hệ bên ngoài mang tính phối hợp trong hoạt động giữa các cơ quan thanh tra với cơ quan, tổ chức cá nhân khác, bao gồm: - Quan hệ với cơ quan bảo vệ pháp luật như: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm căn cứ vào hồ sơ mà Thanh tra bộ chuyển sang. - Quan hệ với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội khác là quan hệ cộng tác, phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, các quyết định quản lý, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao. 6
- 1.1.3. Hoạt động của Thanh tra bộ Căn cứ vào Luật Thanh tra 2010, như vậy Thanh tra bộ có những hoạt động sau: Một là, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo Hai là, hoạt động phòng, chống tham nhũng và quản lý nhà nước về phòng, chống tham nhũng Ba là, hoạt động thanh tra và quản lý nhà nước về thanh tra Nội dung nghiên cứu chính của luận văn đó là hoạt động thanh tra. Ở khía cạnh là một hoạt động, khái niệm thanh tra có thể hiểu đồng nhất với khái niệm thanh tra nhà nước như đã nêu trong khoản 1 điều 3 Luật Thanh tra năm 2010: “là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đây là một khái niệm gắn gọn, xúc tích và thể hiện tương đối đầy đủ bản chất của hoạt động thanh tra. Hoạt động thanh tra của Thanh tra bộ được thông qua hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên ngành. 1.1.4. Vai trò của Thanh tra bộ Thứ nhất, Thanh tra bộ là một trong những chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý của Bộ. Thứ hai, Thanh tra bộ kịp thời ngăn ngừa, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh vực để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục. Thứ ba, Thanh tra bộ góp phần thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước. Thứ tư, Thanh tra bộ góp phần củng cố nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ 1.2.1. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam Những quy định về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra phải được đặt trong khuôn khổ các quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tổ chức và hoạt động bộ máy Nhà nước. Hay nói cách khác, quan điểm, đường lối chính trị của một đất nước sẽ chi phối đến cách thức vận hành, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung cũng như tổ chức và hoạt động của thanh tra nói riêng. 1.2.2. Các nguồn lực của đất nước Thứ nhất, yếu tố kinh tế Bất kỳ hoạt động nào của Nhà nước đều phải đặt trong mối quan hệ với các quan hệ kinh tế; tổ chức và hoạt động Thanh tra bộ cũng chịu sự tác động trực tiếp bởi trình độ phát triển kinh tế của quốc gia. Sự phát triển, thay đổi đa dạng cũng như sự phức tạp của nền kinh tế thị trường dẫn đến yêu cầu tất yếu về sự phát triển, vận động trong tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra nói chung và của Thanh tra bộ nói riêng cho phù hợp. 7
- Thứ hai, về nguồn lực con người Tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ chịu sự tác động trực tiếp bởi yếu tố con người mà cụ thể là đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra – nhân tố hình thành nên tổ chức và trực tiếp tiến hành các hoạt động thanh tra. Con người ở đây có thể hiểu là cá nhân, tố chức trong xã hội với tư cách là đối tượng của thanh tra. Hoặc con người ở đây có thể hiểu chính là những cá nhân làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước và trực tiếp làm trong bộ máy cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. 1.2.3. Hệ thống quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung và tổ chức và hoạt động ngành thanh tra nói riêng Thanh tra bộ nằm trong hệ thống cơ quan Thanh tra Nhà nước; vì vậy, tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về thanh tra cũng như văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Bộ. Mọi sự thay đổi về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ đều xuất phát từ sự thay đổi của hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra cũng như sự thay đổi về tổ chức và hoạt động của Bộ. 8
- Chương 2 THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG 2.1. Khái quát chung về Bộ Tài nguyên và Môi trường và tổ chức, hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường 2.1.1. Khái quát chung về Bộ Tài nguyên và Môi trường Ngày 05 tháng 8 năm 2002, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã được thành lập theo Nghị quyết số 02/2002/QH11, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Địa chính, Tổng cục Khí tượng Thủy văn và các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, môi trường thuộc các Bộ. Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: Đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng thuỷ văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản đồ; quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trườngbiển và hải đảo; viễn thám; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ. Bộ Tài nguyên và Môi trường gồm có 23 đơn vị. 2.1.2. Tình hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường 2.1.2.1. Tình hình tổ chức của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Lần thứ nhất: Thực hiện Quyết định số 686/QĐ-BTNMT ngày 15 tháng 5 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ, cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ gồm: - Lãnh đạo Thanh tra có: Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra (01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách phía Nam). - Cơ cấu tổ chức bộ máy có: Văn phòng và 07 phòng chuyên môn trực thuộc. - Tổng số biên chế có 44 công chức và người lao động. - Cơ cấu công chức như sau: + Cơ cấu ngạch công chức: 01 Thanh tra viên cao cấp, 12 Thanh tra viên chính, 24 Thanh tra viên, 06 Chuyên viên và 01 Nhân viên. + Cơ cấu trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 01; Thạc sĩ: 06; Đại học: 36. Lần thứ hai: Thực hiện Quyết định số 1299/QĐ-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ, cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ gồm: - Lãnh đạo Thanh tra có: Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra (01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách phía Nam). 9
- - Cơ cấu tổ chức bộ máy có: Văn phòng và 07 phòng chuyên môn trực thuộc (giữ như trước khi kiện toàn). - Tổng số biên chế có 64 công chức và người lao động (tăng 20 biên chế) . - Cơ cấu công chức như sau: + Cơ cấu ngạch công chức: 01 Thanh tra viên cao cấp, 17 Thanh tra viên chính, 34 Thanh tra viên và 10 Chuyên viên, 2 Nhân viên (tăng: 5 Thanh tra viên chính, 10 Thanh tra viên, 4 Chuyên viên, 1 Nhân viên. + Cơ cấu trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 02; Thạc sĩ: 11; Đại học: 49 (tăng: 1 Tiến sỹ, 5 Thạc sỹ, 13 Đại học). Lần thứ ba (bộ máy hiện nay của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường): Căn cứ Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2010; Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 4 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường; ngày 11 tháng 9 năm 2015, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 2325/QĐ-BTNMT về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyến hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra bộ. Về cơ cấu tổ chức: Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra và 05 Phó Chánh Thanh tra. Bộ máy giúp việc Chánh Thanh tra có 7 đơn vị chuyên môn. Như vậy so với hai lần kiện toàn trước đây, việc kiện toàn lần này đã được triển khai đồng bộ hơn cả về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế. Cụ thể là: Về tổ chức bộ máy: qua sắp xếp, kiện toàn lại đã giảm từ 8 đầu mối trực thuộc xuống còn 7 đầu mối, cụ thể là: + Giữ nguyên 5 đơn vị: Văn phòng, Phòng Thanh tra Hành chính, Phòng Tiếp dân và Xử lý đơn thư, Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trường miền Trung, Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trưởng miền Nam. + Sát nhập 3 phòng, gồm: Phòng Thanh tra đất đai và đo đạc bản đồ, Phòng Thanh tra Môi trường và Tài nguyên nước, Phòng Thanh tra Khoáng sản, biển đảo và Khí tượng thủy văn để thành lập Phòng Thanh tra Tài nguyên và Môi trưởng miền Bắc. + Thành lập thêm 1 phòng mới là Phòng Giám sát và Xử lý sau thanh tra. 2.1.2.2. Tình hình hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Năm 2012 Thanh tra Bộ đã tiến hành 2 cuộc thanh tra hành chính và 18 cuộc thanh tra chuyên ngành. Năm 2013 Thanh tra Bộ đã tiến hành 27 cuộc thanh tra, kiểm tra, gồm 10 cuộc kiểm tra hành chính đối với 11 đơn vị trực thuộc Bộ và 17 cuộc thanh tra chuyên ngành đối với 38 tổ chức (trong đó có 01 cuộc thanh tra chuyên đề diện rộng). Qua thanh tra đã xử phạt vi phạm hành chính 23 tổ chức với tổng số tiền 519,75 triệu đồng, giảm trừ quyết toán 59 triệu đồng, kiến nghị thu hồi 391,2 triệu đồng. 10
- Năm 2014 Năm 2014,đã tiến hành 02 cuộc thanh tra hành chính và 24 cuộc thanh tra chuyên ngành. Năm 2015 Theo chương trình, kế hoạch thanh tra được Bộ phê duyệt, Thanh tra Bộ được giao thực hiện 22 cuộc thanh tra. Năm 2015, đã thực hiện 20 cuộc thanh tra, gồm 4 cuộc thanh tra hành chính và 16 cuộc thanh tra chuyên ngành; qua thanh tra, đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 27 tổ chức với tổng số tiền 2 tỷ 630 triệu đồng, kiến nghị thu hồi 21 triệu đồng Năm 2016 Thực hiện chương trình, kế hoạch thanh tra được Bộ phê duyệt, Thanh tra Bộ đã triển khai 15 cuộc thanh tra theo kế hoạch Qua số liệu thống kê và biểu đồ trên, cho thấy trong 5 năm từ năm 2012 đến năm 2016, số lượng các cuộc thanh tra của Thanh tra Bộ được tiến hành không nhiều,năm 2013 gần gấp đôi với năm 2016. Điều đó cho thấy rằng, hoạt động của Thanh tra Bộ chưa đi vào ổn định, còn ảnh hưởng đến nhiều yếu tố trong đó có yếu tố về nhân sự. Thời gian các cuộc thanh tra thường kéo dài, không thực hiện đúng tiến độ nên số cuộc thanh tra phải chuyển sang năm sau để tiếp tục thực hiện chiếm tỷ lệ khá cao. Vì vậy, việc triển khai các cuộc thanh tra trong các năm tiếp là một công việc rất khó khăn. Mặt khác, số cuộc thanh tra các năm không quá 30 cuộc, điều đó cũng phần nào nói lên được hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa chủ động được trong thực hiện nhiệm vụ. Trong đó, chủ yếu là hoạt động thanh tra chuyên ngành, số lượng các cuộc thanh tra hành chính không nhiều. Điều này cũng phản ánh xu hướng hoạt động chính của Thanh tra bộ phù hợp với yêu cầu của thực tiễn quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực. Đó là tập trung vào hoạt động thanh tra chuyên ngành. 2.2. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường 2.2.1. Ưu điểm - Về tổ chức Tổ chức, tổ chức bộ máy của Thanh tra bộ đã được kiện toàn đảm bảo tinh, gọn; chức năng, nhiệm vụ chung cũng như chức năng, nhiệm vụ của từng phòng chuyên môn đã được xác định rõ ràng, cụ thể; biên chế được bố trí phù hợp cả về số lượng và cơ cấu, chất lượng đội ngũ thanh tra, công chức và người lao động từng bước được nâng cao, cơ bản đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Đã từng bước tăng cường sự phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra giữa Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ; giữa Thanh tra bộ với Thanh tra các Sở Tài nguyên và Môi trường. Thanh tra bộ luôn bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Ngay từ đầu năm đã xây dựng kế hoạch chi tiết thực hiện chương trình, kế hoạch công tác thanh tra. Đã triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch được phê duyệt, ngoài ra đã chủ động tiến hành được một số cuộc thanh tra đột xuất khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật. 11
- - Về hoạt động Đã tổ chức, triển khai công tác thanh tra, kiểm tra theo đúng kế hoạch đã được phê duyệt. Các cuộc thanh tra đảm bảo đúng nội dung, yêu cầu, trong đó đã tập trung vào công tác thanh tra diện rộng và thanh tra chuyên đề kết hợp nhiều lĩnh vực. Các cuộc thanh tra đã chỉ ra được những yếu kém, hạn chế trong công tác quản lý, chỉ rõ những sai phạm, kiến nghị xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những cá nhân, tập thể có sai phạm, góp phần hỗ trợ tích cực trong công tác quản lý nhà nước của ngành. 2.2.2. Hạn chế - Về tổ chức Một là, sự phối hợp của các đơn vị có liên quan trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra chưa thật sự chặt chẽ. Công tác xây dựng kế hoạch còn chậm so với tiến độ yêu cầu. Hai là, vai trò tham mưu của các Phòng chuyên môn trong việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ trong công tác thanh tra, kiểm tra nhất là với các đơn vị được giao chức năng thanh tra chuyên ngành chưa có hiệu quả, chưa thể hiện được vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện trong công tác thanh tra của Thanh tra bộ. Do đó, chưa tạo được sự thống nhất trong chỉ đạo nghiệp vụ giữa Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ được giao chức năng thanh tra chuyên ngành; chưa tạo được hệ thống kết nối thông tin giữa Thanh tra bộ với Thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường. Ba là, chưa chủ động nắm thông tin để tham mưu, đề xuất thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật; đa số các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất đều do sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ hoặc Lãnh đạo Bộ sau khi các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin hoặc khi đã xảy ra sự cố nghiêm trọng. Bốn là, các Phòng chuyên môn trực thuộc Thanh tra bộ chưa chủ động trong việc đề xuất thực hiện kế hoạch đã được phê duyệt, vẫn còn tình trạng chờ chỉ đạo của Lãnh đạo Thanh tra bộ. Công tác phối kết hợp giữa các cá nhân trong đơn vị, các phòng chuyên môn của Thanh tra bộ với nhau và với các đơn vị có liên quan chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Năm là, chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra tuy từng bước đã được nâng cao nhưng chưa đồng đều, nhất là phương pháp, kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra còn hạn chế. Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ thanh tra chưa cao nên đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác. Sáu là, công tác xây dựng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường từ ngày thành lập đến nay đã có những chuyển biến quan trọng về nhận thức, quan điểm tư tưởng, được thể hiện trong cơ chế, chính sách, pháp luật từ khâu tuyển dụng, đào tạo và quản lý đã từng bước đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay.Tuy nhiên ngành chưa có đội ngũ công chức thanh tra ổn định và chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của đội ngũ công chức thanh tra chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập về nhiều mặt như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học 12
- công nghệ hiện đại trong công tác còn rất hạn chế. Số công chức đào tạo mới có đủ trình độ chuyên môn nhưng lại thiếu kinh nghiệm và ứng xử trong lĩnh vực thanh tra. Chất lượng đội ngũ công chức thanh tra chưa đồng đều, trình độ năng lực thực tế chưa tương xứng với văn bằng. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận công chức còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới; tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao, số lượng, cơ cấu đội ngũ công chức chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài; tình trạng hẫng hụt giữa các thế hệ công chức còn phổ biến; thiếu đội ngũ cán bộ nòng cốt kế cận có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao đặc biệt là thanh tra ở tuyến huyện. - Về hoạt động Một là, công tác thu thập thông tin, tài liệu phục vụ việc xây dựng Kế hoạch thanh tra, kiểm tra hằng năm của các đơn vị trực thuộc Bộ chưa được quan tâm đúng mức, hệ thống cơ sở dữ liệu để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra còn thiếu nhiều dẫn đến việc điều chỉnh Kế hoạch với số lượng tương đối lớn. Một số cuộc thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện đúng theo kế hoạch, nhất là các cuộc thanh tra diện rộng. Hai là, việc xác định nội dung, địa điểm, đối tượng trong Kế hoạch thanh tra chưa cụ thể dễ dẫn đến vẫn còn tình trạng chồng chéo. Ba là, các cuộc thanh tra diện rộng (thanh tra về quản lý, sử dụng đất đối với các nông trường, lâm trường; thanh tra về đất đai đối với các dự án khu đô thị...) triển khai còn chậm và hiệu quả chưa cao. Bốn là, tiến độ thực hiện một số cuộc thanh tra, kiểm tra còn kéo dài. Việc ban hành báo cáo và kết luận thanh tra còn chậm. Nội dung trong kế hoạch thanh tra chuyên ngành về lĩnh vực tài nguyên - môi trường còn thiếu tính đại diện, không đáp ứng yêu cầu đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về thanh tra. Năm là, công tác kiểm tra việc thực hiện các kết luận thanh tra chưa được chú trọng dẫn đến việc thực hiện các kết luận thanh tra chưa được triệt để. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật, nhưng tỷ lệ thu hồi tiền, đất qua thanh tra vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu, hiệu quả chưa cao; việc phát hiện hành vi tham nhũng qua hoạt động thanh tra, kiểm tra còn hạn chế, chưa tương xứng với thực trạng vi phạm nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản. Sáu là, các Kết luận thanh tra, mặc dù Luật quy định thuộc quyền hạn của người ra quyết định thanh tra, nhưng trên thực tế vẫn phải chờ xin ý kiến của Bộ trưởng vì thường liên quan đến trách nhiệm quản lý của các cán bộ chủ chốt. Mặt khác, việc thi hành chủ yếu phụ thuộc vào thủ trưởng cơ quan quản lý và ý thức chấp hành của đối tượng thanh tra. Luật thanh tra đã đề cập đến trách nhiệm của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra. Tuy nhiên các quy định này chưa được thể hiện đầy đủ, do đó thiếu cơ sở để thực hiện, thiếu các chế tài, nhất là khi xử lý các hành vi chống đối, cản trở, không thực hiện yêu cầu, kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra. 13
- Bảy là, hoạt động thanh tra vẫn còn sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa Thanh tra Bộ, Thanh tra tỉnh với Thanh tra sở, ngành. Trên thực tế, có những doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn địa phương vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thanh tra bộ vừa chịu sự kiểm tra, thanh tra của Thanh tra sở và Thanh tra tỉnh. Sự chồng chéo như trên xuất phát từ lý do, nền hành chính của nước ta hiện nay có xu hướng chia cắt theo chiều ngang. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương có đầy đủ các quyền (nhưng cấp độ thấp hơn) gần như các cơ quan trung ương. Chính vì thế, dường như phạm vi quản lý của Bộ, ngành đối với các địa phương bị hạn chế và bị chi phối bởi cơ quan hành chính ở địa phương. Các Sở hiện vẫn được coi là cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh. Đối với một số cơ quan tương đương Sở được tổ chức theo ngành dọc thì sự lệ thuộc vào địa phương cũng rất lớn. Vì thế, khoảng “giao thoa” giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ vẫn còn. Nguyên nhân của các hạn chế là: Trong giai đoạn hội nhập, phát triển theo xu hướng kinh tế thị trường, khách thể của hoạt động thanh tra liên tục biến đổi, phát triển và mở rộng. Trong khi đó hệ thống tổ chức, các phương thức thanh tra chậm đổi mới, không đáp ứng kịp yêu cầu và sự phát triển đa dạng, phức tạp của đời sống xã hội. Đội ngũ làm công tác thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và trình độ, năng lực, bản lĩnh, trong đó vẫn còn một bộ phận suy giảm, tha hóa phẩm chất đạo đức. Hệ thống các văn bản pháp luật về thanh tra còn chưa thực sự hoàn chỉnh, nhiều điểm còn bộc lộ bất hợp lý, lỗi thời, không phù hợp với tình hình và yêu cầu của thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo về thẩm quyền và hoạt động ở một số lĩnh vực gây khó khăn, phiền hà cho các cơ quan, đơn vị là đối tượng thanh tra. Quyền hạn và hiệu lực thanh tra còn hạn chế. Các cơ quan thanh tra chỉ dừng lại ở quyền kiến nghị cho nên tính hiệu quả của nó thường không cao và phụ thuộc vào thái độ tiếp thu và biện pháp thực hiện các kiến nghị của các cơ quan, đơn vị được các cơ quan thanh tra kiến nghị. Sự phụ thuộc quá lớn của Thanh tra bộ vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp (Bộ) cả về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý. Lãnh đạo các Phòng chuyên môn của Thanh tra bộ chưa phát huy được vai trò nòng cốt trong việc tham mưu cho Lãnh đạo Thanh tra những nội dung thuộc lĩnh vực mình được giao phụ trách, việc giải quyết một số công việc còn thụ động. Chưa chủ động triển khai công tác thanh tra, kiểm tra theo đúng thời gian trong kế hoạch được phê duyệt. Công tác khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ việc xây dựng kế hoạch thanh tra kiểm tra chưa được quan tâm thực hiện nên việc đề xuất kế hoạch có nội dung chưa phù hợp, thiếu tính thuyết phục và còn chồng chéo. Kinh phí phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra chưa được bố trí đủ so với kinh phí được phê duyệt, nhưng chưa kịp thời đề xuất để điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra cho phù hợp với kinh phí được cấp. 14
- Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Thứ nhất, việc nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ phải khắc phục được những hạn chế, bất cập hiện nay, hướng tới mục tiêu làm tăng hiệu quả của công tác thanh tra, nhằm phát huy nhân tố tích cực, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và các vi phạm khác; phát hiện những sơ hở về cơ chế quản lý, những hạn chế, thiếu sót, khắc phục, phòng ngừa vi phạm và kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên - môi trường; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của Nhà nước và xã hội. Thứ hai, việc nâng cao hiệu quả và tổ chức hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường phải có lộ trình và bước đi thích hợp trong từng giai đoạn cụ thể, trên cơ sở phù hợp với tiến trình đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra nói riêng cũng như đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói chung. Thứ ba, quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác thanh tra; tiếp tục thể chế hóa tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra nói chung, Thanh tra bộ nói riêng; bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Bộ trưởng đối với công tác thanh tra về lĩnh vực tài nguyên - môi trường. Cụ thể như sau: 3.1.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả tổ chức của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Một là, việc đổi mới tổ chức thanh tra được hiểu là việc thiết kế tổ chức thanh tra về cách thức tổ chức, số lượng và cơ cấu các cơ quan này sao cho gọn nhẹ, khoa học, phù hợp với yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, vận hành thông suốt từ trung ương tới địa phương, phù hợp với quy định của pháp luật. Hai là, đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế tinh gọn gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính, nâng cao chất lượng các mặt công tác, đăc biệt là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra chuyên ngành và xử lý sau thanh tra trên cơ sở các quy định của Luật Thanh tra và các văn bản pháp luật có liên quan. Ba là, đổi mới tổ chức Thanh tra bộ trên cơ sở phù hợp quan điểm về xu hướng tinh gọn, hiện đại của nền hành chính. không ngừng đổi mới, phát triển Thanh tra bộ với lộ trình cụ thể, từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới của hệ 15
- thống chính trị, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. 3.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường Một là,, trong quá trình đổi mới hoạt động thanh tra cần phải hiểu rõ đó là đổi mới nội dung, hình thức và phương thức hoạt động nhằm loại bỏ hoặc khắc phục những hạn chế, bất cập đang tồn tại, thay đổi cách thức hoạt động sao cho hợp lý. Hai là, việc đổi mới hoạt động thanh tra không chỉ tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra mà còn phải xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng bảo đảm tính chính quy, chuyên nghiệp và hiện đại, trên cơ sở đó xây dựng, lựa chọn và sử dụng hình thức, phương thức hoạt động phù hợp. Ba là, tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của Thanh tra bộ; bảo đảm Thanh tra bộ có thực quyền, đảm bảm hoạt động thanh tra dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng, độc lập tương đối và từng bước được đổi mới phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường 3.2.1. Nhóm giải pháp tiếp tục hoàn thiện về tổ chức Thanh tra Bộ (i). Giải pháp nâng cao nhận thức Để hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, trước hết Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra bộ. Trong mối quan hệ giữa các phương diện hoạt động của cơ quan thanh tra, so với các chức năng khác như: quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; chức năng thanh tra cần phải được tập trung chú trọng đẩy mạnh trong thời gian tới hơn cả. Bởi lẽ, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức trong xã hội phát triển đa dạng và phức tạp vì vậy các bộ, ngành cần tập trung đẩy mạnh hoạt động thanh tra; xác định thanh tra là một trong những phương thức quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Bộ. (ii). Giải pháp về nâng cao năng lực thực thi công vụ cho đội ngũ thanh tra viên. Để thực hiện giải pháp nâng cao năng lực thực thi công vụ cho đội ngũ thanh tra viên hỏi phải thực hiện tổng thể những nội dung sau: Thứ nhất: đổi mới việc tuyển dụng, sử dụng và phát triển đội ngũ cán bộ, thanh tra viên vững vàng trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra thì một trong những vấn đề cần phải chú trọng là xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Xét về tính đặc thù của ngành, yêu cầu khách quan đối với đội ngũ cán bộ, thanh tra viên phải có năng lực phân tích, tổng hợp vấn đề; có khả năng phối 16
- hợp tốt, cũng như có thể độc lập trong nghiên cứu và tiến hành công vụ; có khả năng trình bày, kết luận vấn đề một cách logic, rõ ràng, mạch lạc.. cả trong trao đổi trực tiếp và trong biên tập văn bản. Thanh tra viên cũng phải thường xuyên cập nhật và nắm vững những kiến thức về pháp luật, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, về khoa học công nghệ phục vụ nhiệm vụ thanh tra, xem xét, kết luận vụ việc khiếu nại, tố cáo. Trong những năm qua, Thanh tra bộ đã rất quan tâm và làm tốt công tác tuyển chọn, bố trí cán bộ, công chức trong đơn vị. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng cao, trong thời gian tới Thanh tra bộ cần tiếp tục quan tâm thực hiện tốt công tác này, vì đây là nhiệm vụ hết sức trọng yếu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy " Mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu". Thứ hai: thường xuyên có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra và cộng tác viên thanh tra. Hiện nay các chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức còn nặng về lý thuyết, giảng dạy còn chung chung, chưa đi sâu vào từng lĩnh vực, nội dung giảng dạy chưa xuất phát từ nhu cầu thực tế của công chức. Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng có nghĩa là đổi mới theo hướng chuyên sâu vào các chương trình giảng dạy, đặt ra các tình huống cụ thể diễn ra trong thực tế để học viên tự giải quyết nhằm nâng cao kỹ năng giải quyết công việc của công chức, tránh tình trạng học lý thuyết suông, không gắn liền với thực tế, không được thực hành nên cảm thấy nhàm chán. Nội dung chương trình giảng dạy cần cập nhật kiến thức, thông tin trong và ngoài nước, giúp học viên có được cái nhìn thực tế mới mẻ, thực tiễn và có thể áp dụng vào việc thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao. Đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, giảng dạy có vai trò rất lớn trong quá trình truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho người đi học. Việc bồi dưỡng có thể dưới nhiều hình thức khác nhau: ngắn hạn, dài hạn, đào tạo trong nước và nước ngoài; chú ý tới việc đào tạo và bồi dưỡng các kiến thức tổng hợp và chuyên ngành cho đội ngũ thanh tra viên, các kiến thức về công tác nghiệp vụ, học hỏi các kinh nghiệm thực tế; trau dồi liên tục các kiến thức mới phù hợp với thời đại. Tổ chức các đợt tập huấn kỹ năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, chia sẻ kinh nghiệm nghiệp vụ thanh tra. Tổ chức các đoàn khảo sát ngắn hạn tại một số nước trong khu vực để học tập kinh nghiệm thanh tra. Cần thiết kế nội dung đào tạo không nên quá nặng về kiến thức lý luận chung mà cần chú trọng đến kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra để phát hiện các hành vi vi phạm, nhằm kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm pháp luật, đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra trong giai đoạn hiện nay. Qua đó nâng cao toàn diện và đầy đủ về kiến thức và trí tuệ cho cán bộ thanh tra, có một tư duy nhanh nhạy, sắc bén, biết tổng hợp và phân tích nhanh các sự kiện và xử lý kịp thời các tình huống phát sinh trong quá trình thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo. 17
- Cần bố trí cho cán bộ, Thanh tra viên tham gia các lớp đào tạo chương trình thanh tra cơ bản và nâng cao tại trường Cán bộ thanh tra của Thanh tra Chính phủ hoặc đề xuất mở các lớp theo chuyên ngành của Bộ. Thứ ba: để nâng cao năng lực của công chức trong ngành còn có các giải pháp khác như: Khen thưởng, kỷ luật, nhằm tạo động lực để công chức phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ; kiểm tra thanh tra thường xuyên trình độ, kỹ năng của công chức, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm của cán bộ, công chức, tránh tình trạng gửi gắm vào làm dù không có trình độ,...Tăng cường kiểm tra giám sát cán bộ thực hiện nhiệm vụ thanh tra và các đoàn thanh tra, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật của các cán bộ thanh tra trong quá trình thực thi công vụ. Trong tình hình hiện nay, khi đi vào cơ chế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, trước sự cám dỗ của tiền tài vật chất, nhiều cán bộ đã lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, né tránh tự phê bình và phê bình nên bị chủ nghĩa cá nhân lấn át. Những năm vừa qua trên thực tế đã có nhiều cán bộ thanh tra không tránh được những cám dỗ vật chất, đã lợi dụng chức vụ quyền hạn dẫn đến vi phạm pháp luật và phải chịu sự trừng phạt của pháp luật. Để giữ cho cán bộ thanh tra "là tấm gương sáng cho người ta soi mặt" như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, ngoài các biện pháp nâng cao phẩm chất đạo đức của cán bộ thanh tra như đã nêu trên, cần phải có những chế tài xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ suy thoái đạo đức, tham nhũng, tiêu cực, có hành vi vi phạm pháp luật. (iii). Giải pháp về tăng cường sự phối hợp Phối hợp ở đây bao gồm phối hợp bên trong (giữa Thanh tra bộ với các cơ quan chuyên môn của Bộ) và phối hợp với các cơ quan bên ngoài. Với cơ quan bên ngoài Bộ, cần xây dựng, hoàn thiện các quy định, cơ chế phối hợp giữa các cấp, các tổ chức trong giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm soát trong lĩnh vực tài nguyên - môi trường, cụ thể là: Theo quy định thì hoạt động thanh tra chuyên ngành không chỉ do Thanh tra bộ tiến hành mà còn do các cơ quan được giao thực hiện quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thực hiện như các Tổng cục, Cục thuộc Bộ. Tại khoản 1, Điều 30, Luật Thanh tra 2010 quy định: " Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập. Hoạt động thanh tra chuyên ngành do người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. " Tại Điều 34, Luật Thanh tra 2010 quy định: " Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chuyên ngành, am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ thanh tra " Như vậy, hoạt động thanh tra chuyên ngành ở các Tổng cục, Cục thuộc Bộ chủ yếu dựa vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu Tổng cục, Cục và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan nên 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 791 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh: Hoạch định chiến lược kinh doanh dịch vụ khách sạn tại công ty cổ phần du lịch - dịch vụ Hội An
26 p | 422 | 83
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản tại Công ty TNHH Thẩm định giá và Dịch vụ tài chính Đà Nẵng
26 p | 509 | 76
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 547 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 533 | 47
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Cải cách thủ tục hành chính ở ủy ban nhân dân xã, thị trấn tại huyện Quảng Xương, Thanh Hóa
26 p | 346 | 41
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn Cầu
26 p | 313 | 39
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ kỹ thuật: Nghiên cứu xây dựng chương trình tích hợp xử lý chữ viết tắt, gõ tắt
26 p | 334 | 35
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 353 | 27
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 250 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 290 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang
26 p | 233 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học các môn Khoa học xã hội và Nhân văn ở trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Kon Tum
26 p | 110 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Lý thuyết độ đo và ứng dụng trong toán sơ cấp
21 p | 223 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển thương hiệu Trần của Công ty TNHH MTV Ẩm thực Trần
26 p | 104 | 8
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 269 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Các cấu trúc đại số của tập thô và ngữ nghĩa của tập mờ trong lý thuyết tập thô
26 p | 236 | 3
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu tính chất hấp phụ một số hợp chất hữu cơ trên vật liệu MCM-41
13 p | 204 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn