intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:117

36
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Triết học: Thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay

  1. MỤC LỤC ................................................................................................................. 1 Chương 1. Q AN IỂ CỦA CHỦ NGHĨA ÁC-LÊNIN VỀ BÌNH ẲNG DÂN TỘC VÀ VẤN Ề THỰC HIỆN BÌNH ẲNG DÂN TỘC VIỆT NA HIỆN NAY ............................................................................................ 7 1.1. Bình đẳng dân tộc và các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc .................... 7 1.1.1. Bình đẳng dân tộc ................................................................................. 7 1.1.2. Các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc ........................................ 12 1.2. Quan điểm mácxít về bình đẳng dân tộc ........................................................ 13 1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc ............... 13 1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng dân tộc ....................................................................................... 18 1.2.3. Một số những quan niệm mới nảy sinh về bình đẳng dân tộc trong thời đại hiện nay ................................................................................. 33 1.3. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc và các nội dung thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay ..................................................................... 35 1.3.1. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ...................................................... 35 1.3.2. Một số nội dung cơ bản trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.................................................................................................. 43 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ẰNG DÂN TỘC TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY .................................................................................. 49 2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái........................ 49 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái ............................ 49 2.1.2. Khái quát về đặc điểm cơ cấu, phân bố, hình thái cư trú và văn hoá các dân tộc ở tỉnh Yên Bái .................................................................. 57 2.2. Thực trạng thực hiện bình đằng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay ................... 77 2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân ......................................... 77 2.2.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ........................................... 86 Chương 3. ỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN Ể Ả BẢO THỰC HIỆN CÓ HIỆ Q Ả Q YỀN BÌNH ẲNG DÂN TỘC TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY .. 90 3.1. Những quan điểm và phương hướng cơ bản ................................................... 90 3.1.1. Quan điểm............................................................................................... 90 3.1.2. Những phương hướng ............................................................................ 94 3.2. Một số giải pháp chủ yếu............................................................................... 96 3.2.1. Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất - tinh thần ở vùng dân tộc trong tỉnh ..................................................... 96
  2. 3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái ............................................................................................ 101 3.2.3. Hoàn thiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái .................. 105 3.2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở tỉnh Yên Bái ................................................. 109 3.2.5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương trong công tác thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái.................................................................................................... 112 KẾT L ẬN ......................................................................................................... 115 DANH ỤC TÀI LIỆ THA KHẢO ................................................................ 117
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là nhiệm vụ có tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Dựa trên những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, Đảng ta đã đề ra chủ trương, chính sách dân tộc nhất quán và được thể hiện một cách đầy đủ trong các văn kiện của Đảng, pháp luật của Nhà nước, được cụ thể hóa bằng những chính sách phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc cũng như những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, khi nước ta đang tiến hành đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình dân tộc ở nước ta đã có những đặc điểm và diễn biến khác so với thời kỳ trước, đòi hỏi phải thực hiện chính sách bình đẳng về dân tộc đó là: Các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc ở một số dân tộc có xu hướng gia tăng không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, chế độ chính trị đã tác động cả tích cực lẫn tiêu cực đến ý thức tộc người, ý thức quốc gia dân tộc, phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng, đặc biệt ở vùng biên giới nước ta với các nước láng giềng. Sự phân cực, khoảng cách giàu nghèo giữa vùng dân tộc thiểu số, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa với các vùng khác không những không được thu hẹp mà ngày càng doãng ra, cộng với sự ảnh hưởng của xu hướng ly khai, tự trị ở một số nước trên thế giới trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các vùng trọng điểm Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ đang đặt ra những vấn đề mới về đại đoàn kết các dân tộc... 1
  4. Mặt khác, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, để thực hiện “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ đối với cách mạng nước ta bằng những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. An ninh chính trị ở một số vùng dân tộc còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định; các vụ việc khiếu kiện và tranh chấp đất đai ở nhiều nơi vùng dân tộc tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp... Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. Sau hơn hai mươi năm đổi mới đời sống vật chất cũng như tinh thần của đồng bào các dân tộc trên toàn tỉnh đã có những bước cải thiện theo hướng tích cực. Những năm qua, các cấp, các ngành đã quan tâm và triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước góp phần quan trọng vào việc giáo dục, động viên, cổ vũ đồng bào các dân tộc phát huy tinh thần đoàn kết, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó cũng bộc lộ những vấn đề bất cập, trong đó có vấn đề bất bình đẳng giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội mang tính khách quan trong xu thế phát triển trong thời kỳ mới hiện nay. Với ý nghĩa như vậy, tôi chọn vấn đề: “Thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc chỉ ra những hạn chế và tìm ra những biện pháp khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các Nghị quyết 22, 24 của Đảng về công tác dân tộc. 2. Tình hình nghiên cứu Trước đây, trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã đưa ra luận điểm về công bằng và bình đẳng trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” và đã gợi mở về các tư tưởng về bình đẳng xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, phải được tuyên bố là “quyền con người”. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, hai ông cũng đã chỉ rõ quyền bình đẳng giữa các dân tộc chỉ có được khi giai cấp công nhân nắm chính quyền. Những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin chọn lọc, kế thừa và bổ sung và phát triển thành quan điểm chung của chủ nghĩa Mác- 2
  5. Lênin về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và công bằng, bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc. Ở Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong các Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định công tác dân tộc là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chung và ban hành nhiều chính sách cụ thể, như: đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để tranh thủ độc lập tự do hạnh phúc chung. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc đã cho thấy sự sáng tạo của Bác, của Đảng trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình cụ thể ở Việt Nam, đó là vấn đề khác nhau giữa bình đẳng dân tộc với quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc Việt Nam; căn cứ vào đặc điểm dân tộc Việt Nam như: không có lãnh thổ riêng, sống xen kẽ, trình độ phát triển không đồng đều, phần lớn chưa hình thành giai cấp, Nhà nước... Chính vì vậy, ngoài các chính sách Dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, còn có rất nhiều các công trình, đề tài, nghiên cứu về vấn đề dân tộc và bình đẳng dân tộc như: Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (2009), Đảm bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm (1999), Công bằng và bình đẳng đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm (2004), Vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trọng sự nghiệp cách mạng nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị; Hoàng Vi (2005), Các dân tộc bình đẳng đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Phan Hữu Dật (2003), Hợp tác, tương trợ giữa các dân tộc hướng tới mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng đa dân tộc ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị; Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc; Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; Ủy ban Dân tộc (2003), Sổ tay công tác dân tộc, Nhà xuất bản Hà Nội; Ủy ban Dân tộc và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, Nhà xuất bản 3
  6. Chính trị quốc gia Hà Nội; Ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, còn có các luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề dân tộc như: - Đề tài khoa học cấp nhà nước: KX.04-11 do cố GS.TS Bế Viết Đẳng làm chủ nhiệm: "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối với các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội miền núi". - Đề tài khoa học cấp Nhà nước: KX-05: "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay", (sách tham khảo) do GS.TS Phan Hữu Dật chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Luận án tiến sĩ: "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của tác giả Trịnh Quang Cảnh (2002); Luận án tiến sỹ Triết học: Ý thức xã hội vùng Tây Bắc Việt Nam và sự tác động của nó đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng này” của tác giả Hà Dũng Hải (2010) và một số đề tài và luận văn thạc sỹ của các tác giả: Tác giả Hà Văn Định (năm 1995) "Một số suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở tỉnh Yên Bái". Tác giả Nguyễn Phương Thuỷ (năm 2001). "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc". Tác giả Lâm Thị Bích Nguyệt (năm 2005) "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay". Tác giả Lưu Thị Thanh (năm 2009) "Vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai hiện nay". Tất cả các nghiên cứu trên đã thể hiện và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc góp phần vạch ra những vấn đề bình đẳng dân tộc ở nước ta và những chính sách, đường lối cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề bình đẳng dân tộc luôn được xác định là vấn đề có chiến lược và đã có rất nhiều tác giả và các công trình nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các đề tài và công trình nghiên cứu mới đi vào nghiên cứu cụ thể của từng vấn đề, chưa có tính khái quát tổng hợp. Nghiên cứu vấn đề bình đẳng dân tộc ở Yên Bái nhiều năm qua mặc dù đã có nhiều công trình đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên đối với tỉnh Yên Bái, ngoài những nghiên cứu của Ban dân tộc tỉnh thì từ trước đến nay chưa có 4
  7. một đề tài cụ thể nào về vấn đề thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trong tỉnh hiện nay. Có thể thấy, nghiên cứu vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên bái là một nội dung mới mẻ trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy đề tài này đưa ra cách tiếp cận mới là khái quát có hệ thống những quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng dân tộc và đưa ra những giải pháp cụ thể cả về mặt lý luận và thực tiễn để thực hiện có hiệu quả chính sách bình đẳng dân tộc trong tỉnh Yên Bái hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Với mục đích trên, luận văn đặt ra và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Một là, phân tích rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề bình đẳng dân tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay. Hai là, phân tích thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay: thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra. Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản để nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn mới hiện nay. 4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 5
  8. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng dân tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc. Phương pháp nghiên cứu, đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu lý luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng một số phương pháp có tính chất chuyên ngành, như: điều tra, khảo sát… 6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn Về lý luận: Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn góp phần tìm ra các giải pháp cơ bản nhằm làm rõ và sâu sắc thêm lý luận về vấn đề bình đẳng dân tộc trong điều kiện và hoàn cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó góp phần vào việc hoạch định chính sách và đề ra những giải pháp cụ thể có tính chiến lược đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng trong tình hình mới hiện nay. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giảng dậy các vấn đề có liên quan đến vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, 7 tiết: Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc và vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản để đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay. 6
  9. Chương 1 QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Bình đẳng dân tộc và các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc 1.1.1. Bình đẳng dân tộc Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động và lao động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu được, và tuy nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng đồng, không có trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng đồng thì phải chịu sự trừng phạt theo quy ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao... Tất cả đều bình đẳng và tự do" [20, tr.147-148]. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản phẩm lao động còn ít ỏi chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là phương thức duy nhất để xã hội cùng tồn tại. Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương đối thì xuất hiện tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời cùng với sự bất bình đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Như vậy, sự bất bình đẳng trong các cộng đồng chủng tộc, bộ tộc chính thức manh nha của bất bình đẳng dân tộc đã bắt đầu xuất hiện. Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề Nhà nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của mỗi người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai cấp, các giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau; sự bất bình giữa các giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung 7
  10. Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết pháp trị khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng. Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi cày thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất công trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại bọn địa chủ phong kiến đòi công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng nhận xét: "Điều đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại địa chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [19, tr.243]. Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác ái", của giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội dân chủ theo mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật tiến bộ, công bằng. Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng công bằng xã hội của thời kỳ này. Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa đã ban cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con người thì lại có tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và công bằng, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đã cho rằng không thể thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội. Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra tư tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính nhận thức mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức và bất công. Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công, không nhận thức được hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn của mình. Tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội. Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi lạc của nền triết học Khai sáng Pháp cho rằng: xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn kìm hãm, thủ tiêu bình 8
  11. đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo ông, muốn xóa bỏ bất bình đẳng thì phải xây dựng một nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời ông cũng phê phán sở hữu tư nhân vì sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa thành kẻ giàu người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế ước xã hội thì mới đạt được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo nhưng cũng chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự. Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời được xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một mô hình xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như nhau, xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội bình đẳng tạo điều kiện công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây là một mô hình xã hội không tưởng cả về lý luận và thực tiễn, đây là một mơ ước về xã hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về bình đẳng xã hội của nhân loại đã có những bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó. Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm trong lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh bình đẳng xã hội và cũng đạt được một số thành tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đã làm dịu bớt được sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đã nhận thức được rằng cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất một còn nếu không thực sự xoa dịu được tình hình, chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh tương đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về bình đẳng xã hội trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp mang tính hình thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công bằng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội. Như vậy, ngay từ khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, con người luôn đấu tranh nhằm vươn tới sự giải phóng. Trong những mục tiêu của sự nghiệp giải phóng ấy, bình đẳng và công bằng xã hội là vấn đề cơ bản và là vấn đề lâu dài. Đối với chủ nghĩa xã hội bình đẳng và công bằng xã hội là nguyện vọng thiết tha của nhân dân đồng thời là một trong những mục tiêu và động lực quan trọng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 9
  12. Từ những quan niệm về bình đẳng trên có thể thấy bình đẳng có nghĩa là sự ngang bằng nhau về một phương diện nào đó giữa hai hay một số sự vật cùng tham gia một quan hệ nhất định. Trong cuốn “Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học”, Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội năm 1986 thì khái niệm “Bình đẳng - là những điều kiện và khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển các năng lực và thoả mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vi như nhau của mọi người trong xã hội…” [30, tr.10]. Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” - Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội - Việt Nam xuất bản năm 1994 thì khái niệm “bình đẳng - ngang bằng nhau về địa vị và quyền lợi”, ví như mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nam nữ bình đẳng [31, tr.65]. Khái niệm bình đẳng ngày nay là một giá trị xã hội, là thành quả của nhân loại trong quá trình phát triển nhằm tạo ra các điều kiện, cơ hội ngang nhau, không phân biệt dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… trong các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mưu cầu hạnh phúc. Từ những quan niệm về bình đẳng trên ta có thể thấy rằng: Bình đẳng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm cộng đồng xã hội về một phương diện hay những phương diện xã hội nhất định nào đó, chẳng hạn như bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân, về địa vị xã hội, về khả năng, về cơ hội, về mức độ thoả mãn những nhu cầu cụ thể nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Từ lôgíc đó ta có thể nói rằng sự ngang bằng nhau giữa người với người (hoặc giữa các nhóm cộng đồng với nhau) về mọi phương diện, là nói tới một sự bình đẳng xã hội toàn diện. Bình đẳng xã hội chỉ đặt ra trong sự so sánh về phương diện xã hội. Bình đẳng xã hội chỉ đặt ra trong sự so sánh về phương diện xã hội. Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác biệt về mặt tự nhiên, sinh vật chứ không phải chỉ là sự khác nhau về mặt xã hội. Từ sự phân tích trên cũng cho thấy vấn đề bình đẳng xã hội trong tư tưởng của Mác giúp chúng ta hiểu rõ khái niệm bình đằng đẳng xã hội và mối liên hệ của nó với các khái niệm khác, đặc biệt là bình đẳng dân tộc - một trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là một quan điểm cơ bản trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta. 10
  13. Bình đẳng dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hoá, dân trí cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc màu da. Nội dung của quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện rõ: các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và mọi người có cơ hội phát triển, được bảo đảm bằng pháp luật. Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, quyền tham chính của các dân tộc. Bình đẳng về kinh tế là sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và các vùng. Bình đẳng về văn hoá là các dân tộc có sự phát triển hài hoà trong một nền văn hoá đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc mà trái lại bản sắc văn hoá dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát triển, các dân tộc có quyền sự dụng tiếng nói của mình, sự hưởng thụ văn hoá và dân trí của các dân tộc đều được nâng cao. Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Do quy luật phát triển không đồng đều, hơn nữa do hậu quả của chính sách cai trị của thực dân trước đây, nên các dân tộc ở nước ta còn chênh lệch về trình độ phát triển. Mục tiêu của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là giải quyết hài hoà sự chênh lệch đó. Do đó, việc thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta chính là cơ sở cho việc xoá bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, tạo điều kiện để khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển trên mọi lĩnh vực giữa các dân tộc. 1.1.2. Các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc Xét về nội dung của bình đẳng dân tộc theo quan điểm của Mác-Lênin là bình đẳng toàn diện trước hết là bình đẳng về kinh tế. Ở phương diện này, bình đẳng dân tộc phụ thuộc vào sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế của các dân tộc, cốt lõi là sự phát triển đồng đều về lực lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác viết: “Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều phụ thuộc vào những trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất, sự phân công lao động, và sự giao tiếp nội bộ” [18, tr.330]. 11
  14. Điều C.Mác nói ở trên đây có thể hiểu là không ngừng phát triển lực lượng sản xuất, vượt qua tình trạng lạc hậu về kinh tế, vươn lên trình độ sản xuất tiên tiến của thời đại là con đường đưa dân tộc lên địa vị bình đẳng với các dân tộc khác. Bình đẳng dân tộc, do đó, trước hết phải là sự bình đẳng về kinh tế sự bình đẳng trên các lĩnh vực khác không được khẳng định đầy đủ về nội dung và trong nhiều trường hợp biến thành khẩu hiệu và cuộc vận động mang tính chất cải lương. Nhấn mạnh tầm quan trọng của nội dung về bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực kinh tế, Chủ nghĩa Mác-Lênin còn nhận thấy ý nghĩa của sự bình đẳng dân tộc trên các lĩnh vực văn hoá. Văn hoá là biểu hiện kết tinh những giá trị nổi bất của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc có một nền văn hoá mang đậm đà bản sắc dân tộc mình. Chính trên lĩnh vực văn hoá, các yếu tố tộc người - những yếu tố mà nhờ đó phân biệt được dân tộc này với dân tộc khác - được biểu hiện đầy đủ nhất. Văn hoá của mỗi dân tộc được tạo thành sức sống bền vững của mỗi dân tộc. Nếu văn hoá với các bản sắc dân tộc riêng mất đi thì dân tộc cũng tạm biến mất với tính cách một cộng đồng riêng độc lập. Mức độ phát triển văn hoá của mỗi dân tộc, quốc gia được coi là một trong những thước đo đánh giá sự phát triển chung của mỗi dân tộc, quốc gia đó, bên cạnh thước đo về sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, mức độ phát triển văn hoá là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định địa vị bình đẳng của mỗi dân tộc trong quan hệ với dân tộc khác. Đối với các dân tộc bị áp bức, sẽ không có bình đẳng về kinh tế, văn hoá nếu không có bình đẳng về chính trị. Bình đẳng về chính trị là quyền của mỗi dân tộc- cũng như các dân tộc khác, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm: quyền lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình; quyền quyết định chính sách dân tộc mình trong lĩnh vực quan hệ với các dân tộc khác. Quyền bình đẳng dân tộc về mặt chính trị đồng nghĩa với quyền tự quyết dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, bình đẳng dân tộc về chính trị là tiền đề để từ đó đạt tới bình đẳng về kinh tế, văn hoá… 1.2. Quan điểm mácxít về bình đẳng dân tộc 1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc Quan điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc được thể hiện khá rõ khi hai ông nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở Ban Lan, Airơlan, các nước nước vùng Ban Căng và các nước khác. Mác và Ăngghen đã kêu gọi: “hãy xoá bỏ 12
  15. tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [19, tr.624]. Hai ông đã nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Tư tưởng đoàn kết giai cấp công nhân toàn thế giới, đấu tranh chống áp bức bóc lột, xoá bỏ tình trạng người bóc lột người để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc khác là nguyên tắc lý luận, đồng thời cũng là nền tảng của chính sách nô dịch dân tộc mác xít của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Điều đó đã thể hiện thái độ chính trị của những người cộng sản, thái độ của giai cấp công nhân nói chung trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó cũng chỉ rõ chiến lược, giải pháp cơ bản tập hợp lực lượng giai cấp công nhân tất cả các dân tộc vùng lên đấu tranh chống áp bức, nô dịch đang đè lên đầu họ. Những quan điểm của Mác và Ăngghen nêu trên được coi là cương lĩnh đầu tiên, là nguyên tắc lý luận, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản giải quyết vấn đề dân tộc. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại mà V.I.Lênin sống và hoạt động cách mạng, vấn đề bình đẳng và tự quyết dân tộc lại càng bức thiết hơn. Trong những điều kiện ấy, V.I.Lênin đã phát triển những luận điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc. V.I.Lênin đã phát hiện hai xu hướng lịch sử trong sự phát triển dân tộc và trong mối quan hệ dân tộc. Người viết: Xu hướng thứ nhất là: Sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: Việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xoá bỏ những hàng rào ngăn cách của các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị, khoa hoc nói riêng… [13, tr.158]. Cương lĩnh dân tộc của những người mác xít chú ý đến cả hai xu hướng đó. Từ những luận chứng khoa học về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đề ra Cương lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: Đó là Cương lĩnh dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước 13
  16. Nga dạy cho công nhân” [15, tr.375]. Đây là tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin về chính sách dân tộc. - Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Theo V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc là quyền được đối xử như nhau của mọi dân tộc không phân biệt nhiều người hay ít người, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo… Theo V.I.Lênin: “Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số… bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho một dân tộc và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ” [14, tr.179]. Quyền bình đẳng dân tộc, theo V.I.Lênin bao gồm tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là cơ sở pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong khu vực hay trong quốc gia. Bình đẳng giữa các dân tộc cũng chính là kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước, là thành quả của văn hoá văn minh và tiến bộ xã hội. V.I.Lênin chỉ rõ: “Ý nghĩa thật sự của việc đòi quyền bình đẳng, chung quy là đòi thủ tiêu giai cấp” [17, tr.136]. Bình đẳng dân tộc, trước hết là sự bình đẳng về kinh tế. Lợi ích kinh tế gắn liền với lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, bởi vậy giải quyết các mối quan hệ liên quan đến dân tộc, đều phải tính đến quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Chỉ có trên cơ sở có sự bình đẳng về kinh tế, quyền bình đẳng trên các lĩnh vực khác mới được thực hiện đầy đủ. Nếu tách rời các quyền bình đẳng dân tộc về kinh tế thì quyền bình đẳng dân tộc trên các lĩnh vực khác chỉ là những khẩu hiệu có tính chất cải lương. Bình đẳng chính trị cũng là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc. Đối với các dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị, chính là điều kiện để có bình đẳng trên các phương diện khác của đời sống xã hội. Nhận thức và giải quyết đúng vấn đề bình đẳng chính trị và quyền tự quyết trong các quốc gia cụ thể, nhất là các quốc gia đa dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với giai cấp vô sản và những người mác xít chân chính trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Để thực hiện bình đẳng về chính trị, những người mác xít phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản 14
  17. động dưới mọi hình thức. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hoà được với chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng, thuần khiết, tinh vi và văn mình đến đâu nữa” [16, tr.167]. - Bình đẳng trên lĩnh vực văn hoá - xã hội Lênin cho rằng, bình đẳng về văn hoá không tách rời bình đẳng về chính trị, kinh tế. Đó là lý do V.I.Lênin phê phán khẩu hiệu “tự trị dân tộc về văn hoá” của những người dân chủ xã hội Áo và những người thuộc phái Bun. Vì khẩu hiệu đó đã thu hẹp quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc rộng lớn chỉ vào một lĩnh vực văn hoá. Theo V.I.Lênin, khẩu hiệu “tự trị dân tộc về văn hoá” là một ảo tưởng. Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống trong một quốc gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức hàng triệu mối liên hệ kinh tế, pháp luật và tập quán. Vậy làm thế nào lại có thể tách việc giáo dục khỏi những mối liên hệ này? liệu có thể “tách” công việc đó “ra khỏi quản lý” của nhà nước được không như công thức của phái Bun đã tuyên bố, một công thức điển hình về cách nhấn mạnh một điều vô nghĩa? “Nếu như nền kinh tế gắn bó các dân tộc cùng sống trong một quốc gia với nhau mà lại toan chia cắt học một cách dứt khoát trong lĩnh vực những vấn đề văn hoá và nhất là vấn đề giáo dục, thì thật là ngu ngốc và phản động. Trái lại, cần phải ra sức liên hợp các dân tộc lại trong lĩnh vực giáo dục để cho cái đang được thực hiện trong cuộc sống thì đã được chuẩn bị ngay trong nhà trường” [30, tr.221]. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nguyên tắc bình đẳng dân tộc được nêu trong Tuyên ngôn dân quyền của nước Nga, sau đó được ghi vào Hiến pháp Liên Xô, quy định quyền bình đẳng của mọi công dân Xô viết không phụ thuộc dân tộc, trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, nó là một pháp lệnh bất di bất dịch. Trong phạm vi quốc tế, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Xô vanh, chủ nghĩa phát xít mới, đồng thời cũng đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi. Có như vậy mới thực hiện được sự bình đẳng thật sự các dân tộc. V.I.Lênin luôn luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết vấn đề tự quyết của các dân tộc. Những năm trước Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, V.I.Lênin ủng hộ yêu sách của các dân tộc bị áp bức đòi phân lập. Yêu sách đó góp phần làm suy yếu chế độ Nga hoàng, làm thất bại chính sách 15
  18. dân tộc Sô vanh Đại Nga, tạo điều kiện đưa cách mạng đi tới thắng lợi. Sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin ủng hộ nguyện vọng liên hiệp lại của các dân tộc, vì điều đó là tất yếu và cần thiết để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xoá bỏ những hằn thù để liên kết các dân tộc tạo thành một quốc gia rộng lớn nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được và cùng nhau xây dựng xã hội mới. Phân tích ý nghĩa về quyền tự quyết và quan hệ của nó với chế độ liên bang Lênin cho rằng: “Quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền tự do phân lập về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói một cách cụ thể, yêu sách đòi dân chủ chính trị có nghĩa là hoàn toàn tự do tuyên truyền cho việc phân lập và có nghĩa là giải quyết vấn đề phân lập bằng con đường trưng cầu dân ý trong dân tộc muốn lập. Như vậy là yêu sách đó hoàn toàn không đồng nghĩa với yêu sách đòi phân lập, phân tán, thành lập những quốc gia nhỏ. Nó chỉ là biểu hiện triệt để của cuộc đấu tranh chống mọi áp bức dân tộc” [31, tr.327]. - Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc: Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc không phải tự nhiên có được và đương nhiên thực hiện, ngược lại chúng là kết quả của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực xâm lược, áp bức dân tộc và gây nên sự đồng hoá cưỡng bức đối với nhiều dân tộc. Đồng thời, bình đẳng và tự quyết dân tộc trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị và thù hằn dân tộc. Cũng từ đó mới đoàn kết được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc được nêu trong cương lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là biện pháp hữu hiệu đảm bảo việc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc. Nội dung đó đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể. V.I.Lênin cho rằng: “Sự giải phóng khỏi ách tư bản, sự xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc tế của tất cả những người vô sản, của tất cả nhân dân lao động. Chủ nghĩa quốc tế vô sản thể hiện tính chất chung của những quyền lợi cơ bản và những ý nguyện tiến bộ của nhân dân lao 16
  19. động của tất cả các dân tộc, về nguồn gốc và bản chất của nó đối lập với chủ nghĩa dân tộc tư sản, gây sự hằn thù và chia rẽ giữa các dân tộc. Người nhấn mạnh: Chỉ có sự thống nhất và sự hợp nhất như vậy mới có thể bảo vệ được nền dân chủ, bảo vệ được lợi ích của công nhân chống lại tư bản - tư bản này đã trở thành có tích chất quốc tế, bảo vệ được những lợi ích của sự phát triển loài người tới một phương thức sinh hoạt mới, không có bất cứ đặc quyền và sự bóc lột nào” [29, tr.151]. Những quan điểm về vấn đề dân tộc và giải quyết các quan hệ dân tộc được Lênin khái quát thành Cương lĩnh chung cho các đảng mác xít, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới, trong từng quốc gia cũng như từng dân tộc. Như vậy theo quan điểm của V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc về thực chất là xoá bỏ tình trạng người bóc lột người để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này có đặc quyền, đặc lợi so với dân tộc khác, dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Đó là lý do mà ông xem việc giải quyết vấn đề bình đẳng dân tộc như là một bộ phận không thể thiếu trong cương lĩnh cách mạng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Việc thực hiện bình đẳng xã hội nói chung là mục tiêu bao trùm, do đó có ý nghĩa quyết định việc thực hiện bình đẳng dân tộc; ngược lại việc thực hiện bình đẳng dân tộc là một trong những nhân tố thúc đẩy thực hiện bình đẳng xã hội. Không xoá bỏ bất bình đẳng giữa người với người thì bất bình đẳng về dân tộc không bao giờ được xoá bỏ; ngược lại, không xoá bỏ bất bình đẳng về dân tộc thì việc xoá bỏ bất bình đẳng xã hội không bao giờ thực hiện triệt để, đầy đủ. Một xã hội xây dựng trên nền tảng chế độ người bóc lột người sẽ không thể nào giải quyết được triệt để vấn đề bình đẳng dân tộc. Bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực hiện từng bước trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa trong mỗi quốc gia dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân nhằm cải tạo xã hội một cách toàn diện, triệt để. Tóm lại quan niệm của Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc là kết quả của sự nỗ lực tự thân vươn lên trình độ tiến bộ của từng dân tộc; đồng thời, một phần không kém quan trọng đó cũng là kết quả của sự giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc theo tinh thần xích lại gần nhau, hoà hợp với nhau hơn nữa. Sự kết hợp nội lực và ngoại lực tạo cho mỗi dân tộc điều kiện phát huy tối đa tiềm lực của dân tộc mình, cộng với sự tương trợ lẫn nhau của các dân tộc anh em để vươn lên phía trước với tốc độ nhanh. Chỉ bằng con đường ấy mới có thể thực hiện có hiệu quả 17
  20. việc xoá bỏ chênh lệch về trình độ phát triển, một trong những nguyên nhân sâu xa để duy trì tình trạng bất bình đẳng dân tộc. Những luận điểm quan trọng mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu ở trên, một lần nữa khẳng định nội dung của bình đẳng dân tộc là bình đẳng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội 1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng dân tộc Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa là quyền, vừa là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho sự đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc. Thực chất của việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các quyền cơ bản của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Có dân tộc có số dân hàng chục triệu người, song cũng có dân tộc chỉ có vài ngàn, thậm chí chỉ vài trăm người. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc ở nước ta thể hiện vai trò và vị trí của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vận dụng lý luận Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tư tưởng của Người về bình đẳng dân tộc đã đặt nền móng cho việc củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vấn đề bình đẳng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Một là: Bình đẳng dân tộc chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc ta được độc lập, nhân dân ta được tự do, đất nước ta được thống nhất, có chủ quyền. Nghĩa là ở đây bình đẳng dân tộc gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giữ vững nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Khẩu hiệu “Tự do - bình đẳng - bác ái” đã được giai cấp tư sản giương lên trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến từ thế kỷ XVIII coi đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời của bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp để khẳng định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bình đẳng dân tộc trong quan niệm của Hồ Chí Minh khác xa bình đẳng dân tộc của giai cấp tư sản. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0