intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Giao lưu văn hóa Việt - Hoa - Khmer tại phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

46
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn chỉ ra được sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của các tộc người Việt, Hoa và Khmer ở Vĩnh Phước trong suốt tiến trình lịch sử đi mở đất trong lịch sử cũng như hiện tại, cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây đến các tộc người nơi đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Giao lưu văn hóa Việt - Hoa - Khmer tại phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH ____________________________ ISO 9001:2008 TRƯƠNG TÚ NHÂN GIAO LƯU VĂN HÓA VIỆT - HOA - KHMER TẠI PHƯỜNG VĨNH PHƯỚC, THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 60310640 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. MAI MỸ DUYÊN TRÀ VINH, NĂM 2015
  2. -1- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sóc Trăng – một tỉnh thuộc Tây Nam Bộ, là vùng đất tụ họp dân tứ xứ, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, kinh tế và điều kiện tự nhiên mà ba tộc người chính: Việt, Hoa, Khmer sinh sống ở đây tự điều chỉnh, biến đổi phù hợp với sinh hoạt, cách nghĩ của mình. Người Khmer, người Hoa tại Sóc Trăng khá đông. Khmer 399.463 người, Hoa 65.311 người. Chính bởi do nhiều thế kỷ cộng cư với nhau trên một địa bàn nên quá trình đồng văn cũng là một quá trình phát triển xã hội vận động theo quy luật chung của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa đó thể hiện rất rõ trong nhiều thành tố văn hóa dân gian của ba dân tộc Kinh- Khmer- Hoa ở Sóc Trăng, đặc biệt ở phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Trong quá trình cộng cư này các tộc người ở Vĩnh Phước đã tạo thành một sức mạnh tổng hợp và vô cùng to lớn trong việc khắc phục và chế ngự những thiên tai địch họa, xây dựng xóm làng, làm cho vùng đất này trước kia chỉ là rừng rậm hoang vu, nhiễm phèn, đầm lầy nê địa đã trở thành một vùng đất trù phú, đem lại một nguồn lợi to lớn từ thiên nhiên, đất hoang dần dần thu hẹp, xóm làng mọc lên, và đời sống kinh tế ngày càng được nâng cao. Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, giao lưu văn hoá các dân tộc là vấn đề có tính lịch sử không chỉ riêng gì ở Việt Nam mà còn diễn ra phổ biến ở các quốc
  3. -2- gia, các dân tộc khác, khi nhân loại ngày càng đang tìm cách xích lại gần nhau hơn, cùng học hỏi lẫn nhau trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá cũng như là sự phát triển một cách vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đòi hỏi không riêng gì ở các nhà quản lý xã hội mà còn là trách nhiệm đặt trên đôi vai của những nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Mặt khác, vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các tộc người có tín ngưỡng – tôn giáo khác nhau là những vấn đề thường xuyên bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước lợi dụng, kích động tâm lý dân tộc, phân biệt tôn giáo, để chia rẽ, gây hiềm khích giữa các tộc người, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, can thiệp một cách thô bạo vào chủ quyền của một quốc gia độc lập. Trong xu thế hội nhập văn hóa giữa các tộc người sinh sống trên đất nước Việt Nam và hội nhập theo hướng toàn cần hóa (globalization) giữa Việt Nam và quốc tế giới khoa học rất cần những công trình nghiên cứu trường hợp (case study) nhằm phân tích sâu từng đặc điểm cũng các bình diện của giao lưu văn hóa tộc người trên từng địa vực cụ thể, nhất là ở Sóc Trăng – một tỉnh có quá trình giao lưu văn hóa mạnh mẽ giữa 3 tộc người diễn ra mấy thế kỷ qua. Đó cũng chính là lý do tác giả quyết định chọn đề tài “Giao lưu văn hóa Việt – Hoa – Khmer tại phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng” làm chuyên đề cho luận văn cao học văn hóa học.
  4. -3- 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Để hoàn thành luận văn này người viết tham khảo các tài liệu như sau: Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ (1987) do Huỳnh Lứa (chủ biên); Công trình nghiên cứu “Vấn đề dân tộc và tôn giáo ở Sóc Trăng” (2000) do Trần Hồng Liên (chủ biên); Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên) và Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn (2006) của Viện sử học;Phủ biên tạp lục (2007) cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775); Sách Ăn cơm mới, nói chuyện cũ: Hậu Giang - Ba Thắc chứng tích, nhân vật, đất đai thủy thổ của miền Nam cũ (2012) của Vương Hồng Sển; Nam bộ đất và người (tập 9) (2013) do Võ Văn Sen (chủ biên) Ngoài ra, một số tác phẩm cũng đề cập đến Sóc Trăng nhưng chủ yếu là trong bối cảnh lịch sử Nam Bộ như : Lịch sử khẩn hoang Miền Nam (1973) của Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa (1985) của Sơn Nam, Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX (2000) của Huỳnh Lứa, Lược sử vùng đất Nam Bộ - Việt Nam (2008) do Vũ Minh Giang (chủ biên)… Các tác phẩm đề cập đến mối giao lưu văn hóa qua đời sống cộng cư của các tộc người ở Nam Bộ như: Hội nhập và giao lưu văn hóa của người Hoa ở Việt Nam (trên lĩnh vực tín ngưỡng – tôn giáo) (2012) của Trần Hồng Liên, Một số biểu hiện của sự giao lưu và tiếp xúc văn hóa của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trong lịch sử
  5. -4- (2013) của Trần Minh Thuận, Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ (2014) do Trần Ngọc Thêm chủ biên… 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận văn chỉ ra được sự giao lưu, tiếp biến văn hóa của các tộc người Việt, Hoa và Khmer ở Vĩnh Phước trong suốt tiến trình lịch sử đi mở đất trong lịch sử cũng như hiện tại, cùng với sự ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây đến các tộc người nơi đây. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi tài liệu mà người viết tiếp cận được, nội dung của luận văn sẽ được tập trung để làm sáng tỏ các vấn đề sau: - Quá trình hình thành đời sống cộng cư của ba tộc người Việt, Hoa, Khmer ở Vĩnh Phước. - Những sắc thái văn hóa chung và riêng biệt của ba tộc người trong quá sinh sống cộng cư. - Giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa ba tộc người Việt – Hoa – Khmer trên các lĩnh vực văn hóa vật chất và tinh thần. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Không gian: địa bàn phường Vĩnh Phước, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên để làm rõ thêm vấn đề giao lưu văn hóa của ba tộc người Việt - Hoa – Khmer, luận văn sẽ nghiên cứu thêm mối giao lưu của các tộc người này ở những vùng lân cận trong tỉnh Sóc Trăng. Thời gian: từ trước năm 1945 đến nay.
  6. -5- 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn này, người viết sẽ sử dựng những các phương pháp nghiên cứu như sau: Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study method): nhằm khu biệt, khoanh vùng một khu vực đặc biệt nhất để khảo sát, phân tích, đánh giá vấn đề giao lưu tiếp biến văn hóa giữa ba tộc người. Phương pháp hệ thống cấu trúc (Structural Method): nhằm thiết lập một hệ thống cấu trúc cho chuyên đề dựa trên nguồn dữ liệu liên quan với những đặc điểm văn hóa tộc người, văn hóa thương mại và giao lưu tiếp biến văn hóa tại phường Vĩnh Phước. Phương pháp nghiên cứu so sánh (Comparative Research Method): so sánh những nét tương đồng và khác biệt giữa văn hóa các tộc người tại Vĩnh Phước và toàn tỉnh Sóc Trăng với các vùng khác ảnh hưởng đến giao lưu tiếp biến văn hóa. Phương pháp phân tích tư liệu (Data Analyzed Method): phân tích nhiều nguồn tư liệu khác nhau để tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu vấn đề và tìm ra những hướng mới trong nghiên cứu giao lưu tiếp biến văn hóa. Phương pháp điền dã dân tộc học (Ethnological Field Studies Method): quan sát thực địa, ghi chép sưu tầm tư liệu tại phường Vĩnh Phước và các vùng phụ cận Phương pháp nghiên cứu liên ngành (Interdisciplinary Method): nhằm nghiên cứu các yếu tố địa văn hóa, môi trường tự nhiên, tộc người, tín ngưỡng
  7. -6- bản địa, tôn giáo. Do đó, việc kết hợp các phương pháp khoa học liên ngành là vô cùng cần thiết. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về ý nghĩa khoa học, nghiên cứu giao lưu tiếp biến văn hóa Việt, Hoa, Khmer góp phần nhận diện sâu hơn những nét giao thoa văn hóa qua quá trình cộng cư tại vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long. Về ý nghĩa thực tiển, kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm củng cố và tăng cường sự hòa hợp, đoàn kết gắn bó giữa người Việt, người Hoa, người Khmer sở tại, nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và giữ gìn an ninh chính trị và quốc phòng tại địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn kết cấu thành 4 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn Chương 2: Văn hóa phi vật thể của người Việt, Hoa và Khmer trong quá trình giao lưu Chương 3: Văn hóa vật thể của người Việt, Hoa và Khmer trong quá trình giao lưu Chương 4: Biến đổi văn hóa trong quá trình giao lưu của người Việt, Hoa và Khmer.
  8. -7- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Khái niệm về văn hóa “Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiển trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” Trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” . Vì vậy, chúng ta cần tập trung mọi nguồn lực để “xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh làm cho sự phát triển xã hội” 1.1.2. Khái niệm về giao lưu - tiếp biến văn hóa 1.1.2.1 Giao lưu văn hóa Giao lưu văn hóa là dạng cộng sinh giữa các nền văn hóa. Chẳng hạn, những lễ hội, những phiên chợ quê ở đồng bằng hay miền núi Việt Nam là những dạng giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư, qua đó mỗi cộng đồng giới thiệu những hoạt động văn hóa và trao đổi những sản phẩm văn hóa của mình với các cộng đồng khác, giúp thỏa mãn rất nhiều nhu cầu của nhau và thúc đẩy lan tỏa văn minh từ vùng này sang vùng khác.
  9. -8- 1.1.2.2. Tiếp biến văn hóa Tiếp biến văn hóa là sự biến đổi để thích nghi của các loại hình văn hóa tộc người trong quá trình tiếp xúc lâu dài dưới nhiều hình thức giữa các nền văn hóa với nhau. Trần Quốc Vượng định nghĩa: “giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngòai bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn luôn đặt mỗi tộc người phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngọai sinh…” 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1. Tổng quan về thị xã Vĩnh Châu Thị xã Vĩnh Châu Vĩnh Châu là thị xã ven biển nằm ở phía nam tỉnh Sóc Trăng, là một trong 9 huyện, thị của tỉnh Sóc Trăng. Phía Đông và Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu, phía Bắc giáp huyện Mỹ Xuyên, phía Đông Bắc giáp huyện Long Phú. diện tích tự nhiên 47.339,48 ha; dân số 163.800 người, trong đó dân tộc Kinh chiếm 29,38%; dân tộc Khmer chiếm 52,84%; dân tộc Hoa chiếm 17,77%. Thị xã bao gồm có 4 phường và 6 xã: phường 1 (thị trấn Vĩnh Châu trước đây), phường 2 (xã Vĩnh Châu), phường Khánh Hòa, phường Vĩnh Phước, xã Hòa Đông, xã Vĩnh Hiệp, xã Vĩnh Hải, xã Lạc Hòa, xã Vĩnh Tân và xã Lai Hòa. Khái quát về kinh tế, văn hóa xã hội Từ trước đến nay Vĩnh Châu có diện tích chuyên canh, luân canh rau màu lớn. Sản vật nơi đây nổi tiếng khắp vùng là hành tím, xá pấu, tỏi, nhãn. Là vùng đất hội tụ và cộng cư lâu đời của 03 dân tộc Việt, Hoa, Khmer.
  10. -9- 1.2.2. Đôi nét về phường Vĩnh Phước Vĩnh Phước là một phường đồng bằng ven biển, nằm theo hướng tây, cách trung tâm thị xã Vĩnh Châu 6 km dọc theo quốc lộ Nam Sông Hậu. Phía Đông giáp thị xã Vĩnh Châu; phía Tây giáp phường Vĩnh Tân; phía Bắc giáp phường Vĩnh Hiệp và một phần giáp sông Mỹ Thanh, là ranh giới giữa thị xã Vĩnh Châu và huyện Mỹ Xuyên; phía Nam giáp Biển Đông, với chiều dài bờ biển 7 km. Cơ cấu hình thành gồm 10 khóm: Tân Quy, Vĩnh Thành, Đai Trị, Wath Pích, Biển Trên A, Biển Trên, Biển Dưới, Sở Tại A, Sở Tại B, Xẻo Me, với tổng diện tích 5.115 ha đất tự nhiên, trong đó diện tích đất sản xuất 4.722 ha, về cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phước theo hướng nông, lâm, ngư nghiệp, đánh bắt nuôi trồng thủy sản. Địa bàn phường Vĩnh Phước rộng, số dân toàn phường có 23.421 khẩu với 5.255 hộ, gồm ba dân tộc sống đan xen với nhau. Trong đó dân tộc Khmer chiếm 65,24%, Hoa chiếm 14,4%, Việt chiếm 21,36%. Đặc biệt có 5 ấp, khóm dân tộc Khmer có trên 30% gồm: Wách Pích, Sở Tại A, Xẻo Me, Biển Trên A, Sở Tại B. Về kinh tế, văn hóa, xã hội Trên địa bàn phường Vĩnh Phước hiện có 10 cơ sở thờ tự trong đó phật giáo Nam tông Khmer là 04 ngôi chùa; Bắc tông 01; và 05 miếu người Hoa. Cư dân sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp, một bộ phận nhỏ sống bằng nghề đánh bắt thuỷ hải sản. ...
  11. -10- 1.2.3. Sơ lược quá trình cộng cư của các dân tộc ở phường Vĩnh Phước Chủ nhân văn hóa chính của thời kỳ khai hoang, mở đất ở Vĩnh Phước là người Việt, người Khmer và người Hoa. Vì đặc thù sông nước chi phối toàn bộ cuộc sống cộng đồng trong vùng nên chúng ta có thể dùng cụm từ văn hóa sông nước để chỉ về những nét văn hóa đặc sắc của Vĩnh Phước. Qua khảo sát tại phường Vĩnh Phước người viết nhận thấy, trong quá trình cộng cư của ba dân tộc đã diễn ra quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa mạnh mẽ. Có những biểu hiện văn hóa đã trở thành cái chung của cả ba dân tộc, nhưng cũng có những biểu hiện mang tính biến đổi từ việc tiếp xúc lẫn nhau giữa các nền văn hóa, hoặc có những biểu hiện mang tính hội tụ trong sinh hoạt cộng đồng.
  12. -11- Chương 2 VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CỦA NGƯỜI VIỆT, HOA VÀ KHMER TRONG QUÁ TRÌNH GIAO LƯU 2.1. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN 2.1.1. Tín ngưỡng cộng đồng Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông (cá voi) Các ngư dân người Việt, người Hoa, người Khmer và cả thương nhân hàng hải xưa và cho đến nay luôn tin rằng họ được mùa là nhờ các đấng siêu nhiên, thần linh trong đó có “Ông” luôn giúp đỡ họ, Ông hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc nhất là trong hoạn nạn, giông bão ông luôn che chở, cứu người… Chính vì thế mà trong tâm thức của các tộc người nơi đây luôn thể hiện lòng thành kính của mình đối với Ông Tín ngưỡng thờ Rắn và thờ Cọp (Hổ) Cho đến nay người Khmer ở Vĩnh Phước cũng như ở các nơi khác, họ vẫn còn giữ lại tinh thần tín ngưỡng vật tổ. Rắn thần Naga trong truyền thuyết là "tổ tiên" của người Khmer. Về tín ngưỡng thờ Hổ ở miền Tây Nam bộ nói chung và Vĩnh Phước nói riêng gắn với buổi ban đầu đi mở đất, mở cõi do tâm lý sợ cọp đã đưa đến lập miếu thờ sơn quân chi thần, thờ Chúa xứ sơn lâm, thờ Thần Hổ và bầu cọp làm Hương Cả của thôn làng. Tín ngưỡng thờ Neak Tà (Ông Tà) Đối với đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và ở Vĩnh Phước nói riêng, NeakTà là vị thần có vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh của
  13. -12- họ. Nó thể hiện niềm tin của đồng bào Khmer vào tổ tiên dòng họ, vào những vị thần bảo hộ xóm làng, để xin được cứu giúp mỗi khi bị thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, ... 2.1.2. Tín ngưỡng tại gia Tín ngưỡng thờ tổ tiên Cũng như bao gia đình ở miền Tây Nam Bộ này, trong nhà của người dân Việt, Hoa, Vĩnh Phước bàn thờ gia tiên được đặt ở nơi thiêng liêng, tôn kính nhất. Bàn thờ tổ tiên của người Khmer ở Vĩnh Phước thì khác với người Việt, Hoa, bàn thờ được đặc ở một góc nhà, chính diện giữa gian nhà là thờ Phật. Tín ngưỡng thờ thần hộ mệnh (độ mạng) Bàn thờ được lập bằng hình thức trang thờ. Trang đặt trên nóc tủ, có lư hương, có quần áo bằng giấy cho Bà, Ông, hàng ngày thì đốt nhang lúc chạng vạng tối, vào ngày rằm, ba mươi hàng tháng có cúng chè, nước trà, hương, hoa, … Tín ngưỡng thờ Táo Quân (Thần Bếp) Ông Táo này được thờ ngay trên cửa lò. Có khi chỉ cần cắm nhang vào mỗi chiều tối, không cần bài vị thờ tự trang trọng. Tín ngưỡng thờ Thần Tài, Thổ Địa Đây là dạng thức tín ngưỡng thờ ở các miễu (cộng đồng) và tại gia. Từ ngoài nhìn vào, bên trái là ông Thần tài, bên phải là Ông Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Tín ngưỡng thờ Thông Thiên Trước sân, nhà nào cũng có một cây cột nhỏ bề cao hơn thước, trên đóng một miếng ván vuông nhỏ sắp một lư hương, hủ gạo, hủ muối, cái ve chai để cắm bông: đó là bàn thờ Ông Thiên
  14. -13- 2.2. PHONG TỤC TẬP QUÁN 2.2.1. Phong tục, tập quán trong hôn lễ Tại Vĩnh Châu, do cùng cộng cư với nhau lâu đời và có quan hệ hôn nhân với nhau nên giữa người Việt và người Hoa đã có những sắc thái ảnh hưởng nhau trong phong tục hôn lễ. Ngày nay trong lễ cưới của người Khmer Vĩnh Phước ngày một đơn giản hơn trước do quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa ngày càng sâu rộng với người Việt và người Hoa, quá trình này đã làm thay đổi không chỉ những quan niệm của người Khmer về các giá trị, điều kiện và chuẩn mực trong hôn nhân mà còn thay đổi nhiều các lễ thức trong hôn nhân. Trong các đám cưới hỗn hợp Khmer – Việt hay Khmer – Hoa thì diễn ra cả hai kiểu theo kiểu “hồn ai nấy giữ”. Nếu nhà trai là người Việt hay người Hoa thì làm theo ghi thức Việt hay Hoa ở nhà trai, sau đó đến nhà gái làm theo nghi thức của người Khmer và ngược lại củng như vậy. 2.2.2. Phong tục, tập quán trong nghi thức tang lễ Phong tục, tập quán trong tang lễ của người Việt và người Hoa tương đối giống nhau. Tôn giáo và giáo lý cũng góp phần tạo ra phong tục trong tang lễ của mỗi dân tộc. Người Việt, người Hoa ảnh hưởng Nho giáo, tôn giáo này có những chi phối đáng kể trong phong tục, tập quá tang lễ. Trong phong tục mai táng, nhiều người Việt, Hoa ở Vĩnh Phước cũng hỏa táng và gởi tro trong tháp của các chùa người Khmer. Và những gia đình người Khmer lai Hoa cũng theo phương thức thổ táng.
  15. -14- Về tang phục, cả người Hoa, người Việt ở Vĩnh Phước đều sử dụng tang phục của người Triều Châu. 2.2.3. Phong tục, tập quán trong lễ tết Tết Nguyên đán Mỗi năm, cứ vào dịp gió bấc thổi, trong ba tuần lễ đầu tháng Chạp là người Việt, người Hoa bắt đầu ăn Tết Nguyên đán. Đặc biệt, trong ngày tết của người Hoa phải có ổ bánh tổ. Hiện nay bánh tổ cũng được nhiều gia đình người Việt trong dịp tết cũng mua bánh này về cúng nhất là những gia đình có hai dòng máu Việt – Hoa. Tết của người Khmer cũng có ý nghĩa giống như tết cổ truyền của người Việt, người Hoa, nhưng cách tổ chức và tập tục khác nhau, vì đa số người Khmer đều là tín đồ của Đức Phật. Ngày tết, mọi nhà đều làm bánh ngọt, bánh tét, hoa quả hương đèn dâng lên chùa Lễ Phật Tết Thanh minh Thanh Minh tuy không phải là cái tết lớn, nhưng lại gắn liền với đạo đức. Trong tết Thanh minh các dân tộc Việt, Hoa, Khmer ở Vĩnh Châu có tục “lợp nhà mới” cho mộ vào tiết Thanh minh. Đặc biệt là người Khmer, tuy đặt cốt trong “chet đây” cũng ảnh hưởng của người Hoa tục “lợp nhà mới” cho tháp, dán những mảnh giấy nhỏ ngũ sắc khắp “chet đây” và cũng bày cơm, thức ăn, trái cây ngay trước tháp để cúng rồi cùng nhau ăn bửa cơm cộng cảm với người quá vãng như người Việt và người Hoa. 2.3. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HỌC 2.3.1 . Ngôn ngữ Ở Vĩnh Phước trên lĩnh vực ngôn ngữ, trong quá trình giao lưu, tiếng Việt đã dần dần trở thành tiếng nói
  16. -15- chung bên cạnh hiện tượng song ngữ hay đa ngữ vẫn được coi là bình thường, còn hiện diện rải rác ở một số vùng cộng cư Việt - Khmer, Việt - Hoa... Trong giao lưu, mua bán, người Việt đã tiếp nhận vào vốn từ ngữ của mình hàng trăm từ gốc Quảng Đông, Triều Châu. Người Hoa và văn hóa Hoa, trong sự giao hòa với người Việt và văn hóa Việt, là một mảng màu khá nổi trên vùng đất Nam bộ này 2.3.2. Văn học dân gian Vĩnh Phước có ba dân tộc Việt, Hoa, Khmer cùng cư ngụ quây quần bên nhau. Sự giao thoa của các tác phẩm văn học dân gian từ dân tộc này sang dân tộc kia diễn ra như một quy luật tất yếu. Nhiều câu tục ngữ cả người Việt, người Khmer và người Hoa đều dùng chung, ví dụ như: Còn nước còn tát, khách đến nhà không gà thì vịt, … Giữa truyện ngụ ngôn và truyện cổ tích cũng có sự đan xen. Trong truyện cổ tích về loài vật có nhân vật chính là con vật rất gần với truyện ngụ ngôn, còn lớp truyện cổ tích giải thích nguồn gốc loài vật nhân vật chính thường là con người do phạm tội, hoặc lọc lừa, gian tham, … cuối cùng bị trừng phạt biến thành con vật. 2.4. NGHI LỄ VÀ LỄ HỘI 2.4. 1. Lễ Kỳ yên 2.2.4. Lễ Vu Lan 2.4. 3. Lễ hội của người Khmer
  17. -16- Chương 3 VĂN HÓA VẬT THỂ CỦA NGƯỜI VIỆT, HOA VÀ KHMER TRONG QUÁ TRÌNH GIAO LƯU 3.1. KIẾN TRÚC 3.1.1. Kiến trúc nhà ở Về kết cấu kỹ thuật: Nhà ở của cả ba dân tộc Việt, Hoa Khmer chủ yếu là loại nhà cột giữa mà kỹ thuật dân gian ở đây gọi là “đầu đội vai mamg”, tức là cột cái được khoang lỗ, đưa con sẽ (con sỏ) qua rồi vô kèo, gác đòn dông… Vật liệu xây dựng: các nhà của người bình dân chủ yếu sử dụng vật liệu tre, gỗ, lợp lá và dựng vánh bằng lá dừa nước. Yếu tố tâm linh tác động đến kiến trúc nhà ở: Các dân tộc Việt, Hoa, Khmer tại Vĩnh Phước nói riêng và Vĩnh Châu nói riêng đều có sự kiêng kỵ, cúng kiến, cầu mong cuộc sống của các thành viên trong gia đình được bình yên. 3.1.2. Kiến trúc và trang trí nội thất các cơ sở thờ tự Hiện nay, các cổng chính của các miếu người Hoa được xây lại theo kiểu tam quan thể hiện ảnh hưởng của các tam quan trong kiến trúc chùa Việt. Trang trí đầu mái đao cong hình hồi long và các đề tài rồng, lân, mây, hoa, cua, cá, tôm... cũng thể hiện sự ảnh hưởng văn hóa Việt do các hình thức trang trí này phổ biến trong trang trí mái đao đình chùa Việt. Tại chùa Vĩnh Đức ở Vĩnh Phước nằm trên tuyến đường Nam Sông Hậu, lối kiến trúc và trang trí mang một sác thái thể hiện được mối giao lưu giữa các tộc người nơi đây.
  18. -17- 3.1.3. Hiện tượng phối thờ trong các cơ sở tín ngưỡng Các ngôi chùa, ngôi miếu của người Hoa tại Vĩnh Phước có đối tượng thờ cúng khá phong phú, đa đạng, thể hiện mối quan hệ giao lưu văn hoá Việt-Hoa khá rõ nét gồm nhiều thể loại như: nhân thần (Quan Công, Thiên Hậu, Huyền Thiên Thượng), thần bảo sanh (Ba bà Chúa sanh thai cùng 12 Bà mụ, Quan Âm…); thần kiết tường (Phúc, Lộc, Thọ; Thần tài…), thần động vật (Hổ, Ngựa…) và những đối tượng thờ cúng khác. Trong đó, có các đối tượng được thờ chính là nhân thần như: Huyền Thiêng Thượng Đế, Thiên Hậu, Quan Thánh, Phúc Đức Chính Thần. 3.2. LOẠI HÌNH CƯ TRÚ 3.2.1. Các loại hình cư trú cơ bản Loại hình cư trú của người Việt Cũng như toàn vùng Đồng bằng sông Cửu long, người Việt ở Sóc Trăng cũng lập nên làng, xã trên vùng đất mới nầy hoàn toàn khác biệt với mô hình làng, xã truyền thống ở Bắc và Trung Bộ. Làng, xóm được bố trí ở dọc theo các sông, rạch, trên vùng đất cao và thuận lợi cho giao thông với diện tích làng, xóm rất rộng, không có cổng làng, không có sự ràng buộc nào về huyết thống, thân tộc, nhà ở. Có thể cất nhà bất cứ nơi nào trên mảnh đất khai khẩn riêng của mình, không ràng buộc về ngành nghề. Loại hình cư trú của người Hoa Các khu dân cư của người Hoa được hình thành và hội quán của họ được thiết lập, trong thời gian đầu lập nghiệp người Hoa cư trú theo hình thái đan xen theo phum sóc của người Khmer và xóm làng của người Việt tại những điểm cư dân tập trung đông
  19. -18- Trong bài viết Người Hoa ở Sóc Trăng lịch sử và hiện tại Phan An cũng cho rằng: Về mặt cư trú, người Hoa ở Sóc Trăng sinh sống rải rác trong khắp toàn tỉnh. Họ sống xen kẻ với người Việt, người Khmer trong các làng, xóm, phum, sóc. Tuy nhiên, một số lượng khá lớn người Hoa tập trung sinh sống ở thị xã, thị trấn, các điểm giao thông và thương mại. Loại hình cư trú của người Khmer Các đặc điểm cư trú của người Khmer, ngoài việc phân bố ven biển và quen cửa sông Hậu, còn trãi dài theo các trục lộ chính. Trên những giồng cát, phum sóc của người Khmer được hình thành chung quanh các ngôi chùa cổ kính. Nhìn chung, cũng như người Khmer ở các vùng khác, vùng cư trú của người Khmer thường là những vùng nhiễm mặn, chịu ảnh hưởng của thủy triều, đất đai tương đối khô cằn. Hàng năm vào mùa khô thường bị thiếu nước ngọt trong sản xuất nghiêm trọng. 3.2.2. Điều kiện tự nhiên, xã hội và kinh tế tác động đến tập quán cư trú Nhìn chung, đa số cư dân ở Sóc Trăng và Vĩnh Phước nói riêng cho đến hiện nay vẫn là cư dân nông nghiệp và họ cư trú tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn. Người Việt, người Hoa và người Khmer đã cộng cư với nhau ở nhiều ấp, khóm. 3.3. ẤM THỰC 3.3.1. Đôi nét về ẩm thực người Việt ở Vĩnh Phước Nhìn chung, về phương diện ăn uống, từ lương thực, thực phẩm đến cách sử dụng nó của người Việt ở ba miền Bắc, Trung, Nam không có nhiều dị biệt, mà trên tổng thể khá thuần nhất. Tuy vậy, trải qua hàng trăm năm, người Việt
  20. -19- ở Đồng bằng sông Cửu long – con cháu của những người Việt đi khẩn hoang trước kia – đã tạo nên một sắc thái đặc thù về ăn uống, vừa chứa đựng những yếu tố kế thừa của văn hóa truyền thống lâu đời của tổ tiên xưa, vừa mang màu sắc đậm đà phong vị của miền quê mới với những hoàn cảnh lịch sử và điều kiện thiên nhiên đặc biệt. 3.3.2. Đôi nét về ẩm thực người Hoa ở Vĩnh Phước Trong văn hóa ẩm thực người Hoa luôn thể hiện biểu tượng và từ đồng âm, chính vì vậy mà người Hoa thường cúng và ăn những món mà tên gọi của nó thể hiện yếu tố tốt đẹp ví dụ như: Cá ná (cải rổ); Suông sại (cải phụng) chỉ sự thăng tiến; Củ sại (hẹ) có ý nghĩa “làm có tiền”; Sứng xại (củ tỏi) có ý nghĩa “làm ăn thành công”; Khìn xại (rau cần): có ý nghĩa “siêng năng, chăm chỉ”. 3.3.3. Đôi nét về ẩm thực người Khmer ở Vĩnh Phước Về ăn uống, người Khmer Vĩnh Phước còn giữ được khá rõ nét yếu tố văn hóa tộc người. Người Khmer khá nổi tiếng với nón prahok (mắm bồhốc). Ẩm thực đặc trưng của người Khmer là món bún nước lèo (mun mà chóc tứk sàm lo). Trong dịp lễ hội Óoc- Ombóc còn có món cốm dẹp. 3.3.4. Giao lưu văn hóa trong ẩm thực Việt-Hoa-Khmer Ở Vĩnh Châu ngoài những món chế biến từ mắm thì lẩu mắm cũng là đặc sản được người dân trong ngoài địa phương ưa thích. Trước đây, lẩu mắm còn được gọi với một cái tên rất dân dã “mắm kho” với những loại rau đồng, cá nội, ăn no để lo mở cõi. Và giờ đây, món mắm kho dân dã ấy đã có một cái tên gọi mới ra dáng thành thị hơn, đó là “Lẩu mắm”.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2