intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Lễ hội Đình Hiệp Mỹ Xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn thông qua việc nghiên cứu lễ hội Đình Hiệp Mỹ, luận văn làm rõ đặc trưng của lễ hội; chỉ ra những nét tương đồng, khác biệt với lễ hội đình làng ở nơi khác; rút ra ý nghĩa và giá trị lễ hội đối với người dân trong vùng; đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Lễ hội Đình Hiệp Mỹ Xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh

  1. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TRÀ VINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH ____________________________ ISO 9001:2008 LÊ CHÍ QUYẾT LỄ HỘI ĐÌNH HIỆP MỸ XÃ HIỆP MỸ TÂY, HUYỆN CẦU NGANG, TỈNH TRÀ VINH Chuyên ngành: VĂN HÓA HỌC Mã số: 60310640 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN XUÂN HƯƠNG TRÀ VINH, NĂM 2016
  2. -1- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trà Vinh là tỉnh có 3 dân tộc Kinh, Hoa, Khmer cùng cộng cư trên một vùng đất. Trong đó chùa Khmer, chùa người Hoa và đình của người Việt đã xuất hiện rất lâu và luôn gắn liền trong tâm thức của mỗi người dân khi đến khai phá vùng đất này. Đình là một thiết chế văn hóa truyền thống của người Việt, đình thờ Thành hoàng bổn cảnh. Đình làng ở Trà Vinh nói chung, Đình Hiệp Mỹ nói riêng một mặt mang nét chung của đình làng Việt nhưng mặt khác cũng có nét riêng, đó là có sự giao lưu, hỗn dung văn hóa: dựng Miếu Bà Chúa Xứ trong khuôn viên của đình. Hơn thế nữa, lễ Thượng điền (là một lễ đặc trưng của đình) cũng được tổ chức ở Miếu Bà Chúa Xứ. Đây là một điều đặc biệt mà khó có thể bắt gặp ở các ngôi đình khác. Đình làng và lễ hội đình làng ở Trà Vinh nói chung, lễ hội Đình Hiệp Mỹ nói riêng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu một cách sâu sắc. Hiện nay, lễ hội Đình Hiệp Mỹ đang đứng trước nguy cơ bị mai một. Nhằm góp thêm tiếng nói vào việc gìn giữ truyền thống bản sắc văn hóa lễ hội đình làng, vì vậy tôi chọn đề tài "Lễ hội Đình Hiệp Mỹ" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề So với bề dày lịch sử đất nước thì Nam Bộ là vùng đất mới khai phá. Những cư dân đầu tiên đến vùng đất này đã quan tâm đến việc cất đình, lập miếu sau khi ổn định đời sống vật chất. Nghiên cứu về đình làng Nam Bộ đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tác phẩm Đình Nam
  3. -2- Bộ xưa & nay (1997) của Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường đã khảo tả chung về đình Nam Bộ, sự hình thành và những biến đổi; nghiên cứu sâu về hệ thống thần linh trong đình, các nghi thứccúng tế và lễ hội trong đình. Nghiên cứu về Thành hoàng và tín ngưỡng thờ Thành hoàng từ lâu đã có nhiều công trình. Ví dụ: chỉ tính từ sau năm 2000 thì cũng có rất nhiều công trình. Một số công trình mang tính chất lý luận như Thành hoàng làng Việt Nam của Vũ Ngọc Khánh, xuất bản năm 2002, cuốn sách đã đề cập đến nguồn gốc của Thành hoàng và việc thờ phụng Thành hoàng ở Việt Nam trong đó cũng đề cập đến đình làng ở Việt Nam và cũng trình bày khái quát về kiến trúc và lễ hội của ngôi đình Việt Nam.Về lễ hội đình làng thì trong tác phẩm Lễ hội dân gian ở Nam Bộ của Huỳnh Quốc Thắng (2003), tác giả đã đã nêu tổng quan về lễ hội dân gian người Việt ở Nam Bộ và đặc điểm lễ hội ở khía cạnh giao tiếp văn hóa dân tộc. Đây là một công trình nghiên cứu sâu về lễ hội, tác giả luận văn sẽ kế thừa cách tiếp cận và so sánh những điểm tương đồng, khác biệt của đối tượng nghiên cứu trong công trình này. Một trong những tác giả nghiên cứu sớm về Nam Bộ và đình miếu Nam Bộ khác là nhà văn - nhà nghiên cứu Sơn Nam. Năm 2004, nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn Đình miễu và lễ hội dân gian miền Nam của tác giả Sơn Nam. Tác phẩm đã trình bày các hoạt động thờ cúng và lễ hội dân gian miền Nam. Trong đó, nghiên cứu sâu về đình, miễu và lễ bái của người Việt Nam. Tác phẩm lược qua việc hình thành đình làng cũng như các nghi lễ được tổ chức trong đình ở Nam Bộ. Năm 2012, cuốn sách Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh của hai tác giả Trần Dũng và Đặng Tấn Đức ra mắt công chúng. Tác phẩm có phần nêu lên tín
  4. -3- ngưỡng và lễ hội dân gian tộc người Việt ở Trà Vinh, trong đó có tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng và ngôi đình. Đây là cơ sở để tác giả luận văn tiếp tục kế thừa và nghiên cứu sâu về lễ hội Đình Hiệp Mỹ. Tiếp theo, cuốn Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ của Trần Ngọc Thêm (2014), đã trình này những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ trong đó có vấn đề nghiên cứu về lễ hội đình, nhiều khung lý thuyết của công trình này làm cơ sở lý luận và những chỉ dẫn quý giá để tác giả luận văn định hướng cho quá trình tiếp cận và khảo cứu một cách có cơ sở và toàn diện với đối tượng nghiên cứu của mình. Nghiên cứu riêng về đình làng và lễ hội đình làng ở Trà Vinh cũng có một vài tác giả địa phương quan tâm, khảo cứu, tiêu biểu là tác giả Nguyễn Xuân Phong. Trong cuốn "Đình làng ở Trà Vinh" tác giả này có một phần viết về đình xã Hiệp Mỹ (huyện Cầu Ngang). Tuy nhiên, đề tài chỉ giới thiệu khái quát và sơ lược về Đình Hiệp Mỹ, chưa làm rõ tín ngưỡng và lễ hội chính trong năm của ngôi đình này. Trên đây tác giả luận văn đã tóm lược những nội dung cơ bản từ một số công trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu bổ ích để tác giả kế thừa khi nghiên cứu lễ hội ở Đình Hiệp Mỹ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu lễ hội Đình Hiệp Mỹ, luận văn làm rõ đặc trưng của lễ hội; chỉ ra những nét tương đồng, khác biệt với lễ hội đình làng ở nơi khác; rút ra ý nghĩa và giá trị lễ hội đối với người dân trong vùng; đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội.
  5. -4- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Khảo tả thiết chế đình, miếu. Hệ thống lại quy trình thực hiện các lễ hội. Đề xuất những giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lễ hội Đình Hiệp Mỹ bao gồm: Tín ngưỡng, nghi lễ và các hình thức diễn xướng dân gian. - Phạm vi nghiên cứu:Đề tài chỉ nghiên cứu tín ngưỡng, nghi lễ của các lễ Kỳ yên, Thượng điền, Hạ điền, Khai sơn truyền thống ở Đình Hiệp Mỹ. Khảo sát và tiến hành điền dã những nghi thức cũng như diễn trình của phần lễ và hội của đình. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp lịch sử:Khảo sát vấn đề có tính lịch sử cụ thể. Đây là phương pháp xem xét các sự việc, hiện tượng trong những mối tương quan đồng đại và lịch đại cụ thể. Trong luận văn, tác giả vận dụng phương pháp này để khảo sát về thời gian, lịch sử hình thành cộng đồng người Việt, cũng như nguồn gốc, quá trình phát triển của cơ sở tín ngưỡng dân gian đình thần. - Phương pháp tổng hợp, phân tích và so sánh: tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để làm nổi bật nội dung cốt lõi của tín ngưỡng và lễ hội đình làng, trình bày các luận điểm trên cơ sở đánh giá, nhận xét việc thờ tự và nghi lễ. - Phương pháp quan sát, tham dự: Trên cơ sở tài liệu đã nghiên cứu, tác giả quan sát, tham dự, miêu thuật cụ thể là các ngày chính diễn ra lễ Thượng điền, Hạ điền,
  6. -5- Kỳ yên, Khai sơn để tìm hiểu cách tổ chức, nghi thức, diễn trình, thành phần tham gia… - Phương pháp phỏng vấn sâu: Thông qua việc tiếp xúc, phỏng vấn sâu cán bộ Bảo tàng, các thành viên Ban hội đình, người tham gia lễ hội (Kỳ yên, Thượng điền và Khai sơn) để thu thập sưu tầm các tư liệu làm rõ cho nội dung của đề tài. - Phương pháp tiếp cận liên ngành: Bên cạnh phương pháp chuyên ngành, phương pháp liên ngành được sử dụng trong việc khai thác các nguồn tư liệu như: ngành Sử học, Dân tộc học, Thống kê học... và khảo sát đối tượng bằng phiếu điều tra xã hội học với các nội dung liên quan đến luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Trên cơ sở điền dã và tập hợp, lựa chọn, xử lý các nguồn tư liệu liên quan đến nội dung, luận văn trình bày một cách có hệ thống lễ hội Đình Hiệp Mỹ theo quan điểm nghiên cứu trường hợp. Luận văn sẽ tạo cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị đối với chính quyền các cấp, trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa cộng đồng người Việt vùng Hiệp Mỹ cũng như xem xét đề nghị công nhận Đình Hiệp Mỹ là di tích lịch sử - văn hóa thời gian tới. Ngoài ra, nội dung của luận văn có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu về lễ hội đình làng Trà Vinh. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về xã Hiệp Mỹ và Đình Hiệp Mỹ Chương 2: Các lễ và hội của Đình Hiệp Mỹ Chương 3: Phát huy giá trị văn hóa lễ hội Đình Hiệp Mỹ trong đời sống cộng đồng
  7. -6- PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ XÃ HIỆP MỸ VÀ ĐÌNH HIỆP MỸ 1.1. Đất và người Hiệp Mỹ 1.1.1. Lịch sử vùng đất Hiệp Mỹ Xã Hiệp Mỹ (hiện nay là xã Hiệp Mỹ Đông và Hiệp Mỹ Tây) nằm cách huyện lỵ Cầu Ngang khoảng 10 km, cách thành phố Trà Vinh khoảng 32 km, cách biển Mỹ Long 5 km. Hiệp Mỹ thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, được hình thành bởi lượng phù sa bồi đắp hình thành nên. Từ khi hình thành vùng đất này đã có nhiều lớp người (hầu hết là người Việt) đến đây khai hoang lập nghiệp trong đó nhiều nhất là cư dân vùng Gò Công (Tiền Giang), Chợ Lách, Mỏ Cày (Bến Tre). 1.1.2. Về cộng đồng cư dân Hiệp Mỹ Sự phân chia đơn vị hành chính và thành lập làng, xã trên vùng đất Hiệp Mỹ gắn liền với quá trình các luồng dân di cư từ các nơi hội tụ về định cư khai hoang lập nghiệp, xây dựng xóm làng, trong đó nhiều nhất là lưu dân vùng Gò Công (Tiền Giang) và Bến Tre. Họ vượt sông Tiền bằng tàu thuyền theo dòng nước. Những lưu dân đến vùng đất Hiệp Mỹ bằng đường sông từ vàm Thâu Râu (Cầu Ngang) đi vào. 1.1.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội xã Hiệp Mỹ Tây hiện nay Năm 2003 xã Hiệp Mỹ chia thành 2 xã là Hiệp Mỹ Đông và Hiệp Mỹ Tây. Đất Hiệp Mỹ là đất do phù sa bồi đắp, bị ngập mặn, nhiễm phèn, nên khi mới đến đây cư dân bắt đầu tổ chức sản xuất theo cách thủ công. Họ cùng khai hoang, đắp đê, sổ phèn, rửa mặn, trồng trọt, chăn nuôi.
  8. -7- Ngày nay cơ cấu kinh tế của địa phương nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo, có cơ cấu dân số trẻ, lao động dồi dào. Về đời sống văn hóa tinh thần, trong xã có 2 đình, 3 miếu theo tín ngưỡng dân gian, 02 chùa Phật giáo Bắc tông. Phật giáo đã ăn sâu vào nếp sống của người dân Hiệp Mỹ. 1.2. Đình Hiệp Mỹ xưa và nay 1.2.1. Lịch sử hình thành Đình Hiệp Mỹ Hiện tại, chưa tìm được tư liệu xác định chính xác ngôi đình được xây cất ngày tháng năm nào. Theo các vị cao niên kể lại, trên vùng đất mới ban đầu chỉ có vài mươi người, rồi vài trăm người, rồi vài ngàn người, cho đến khi dân cư đông đúc, cuộc sống ngày càng được ổn định và phát triển. Bấy giờ cái ăn, cái mặc đã có, nhưng về phần tâm linh thì chưa có, cư dân chọn vùng đất cao để lập đình, lập miếu. Hiện nay, Ban hội đình còn lưu giữ một sắc phong có niên đại Tự Đức ngũ niên. Đặt trong bối cảnh ra đời của đình làng Nam Bộ, sắc thần cho thấy: Đình Hiệp Mỹ (Đình Thành Đức) có lẽ được tạo dựng khoảng vào đời Minh Mạng là phù hợp bởi giai đoạn này nhiều đình ở Nam Bộ được xây dựng và đến năm 1852 thì được triều đình sắc phong. Trong khuôn viên đình còn có Miếu thờ Bà Chúa Xứ. Miếu được xây dựng khoảng cùng thời gian với đình làng. Hình thức khá đơn giản, cấu trúc theo hình chữ tam, ba gian hai chái. 1.2.2. Đình Hiệp Mỹ ngày nay Đình Hiệp Mỹ được xây dựng lại hiện nay có kiến trúc truyền thống như nhiều đình làng Nam Bộ trước đây.
  9. -8- Bên phải sân đình là miếu thờ Ngũ Phương, Ngũ Thổ Long Thần. Bên trái sân đình có miếu nhỏ thờ Ông Hổ. Qua khoảng sân thì đến nhà võ ca. Kế tiếp nhà võ ca là võ quy. Nối liền gian võ quy là chính tẩm. Chính tẩm được bố trí như sau: Gian giữa từ ngoài vào có bệ tế thần, bàn thờ Hội đồng và trong cùng là bàn thờ Thành hoàng bổn cảnh. Án thờ là chữ “Thần” bằng Hán tự. Gian trái nội thất chính tẩm có bàn thờ Tả ban, gian phải thờ Hữu ban. Ngoài ra, ở gian phải còn có bàn thờ Tiên sư, Đông hiến. Gian trái có bàn thờ Sơn Quân Thần Nữ , Tây hiến. Phía sau vách chính tẩm có các bàn thờ Tiền hiền, bàn thờ Tiền chức. 1.2.3. Các vị thần của Đình Hiệp Mỹ 1.2.3.1. Thần Thành hoàng Theo quan niệm dân gian, Thành hoàng là vị thần cai quản toàn thể thôn xã, che chở, phù hộ dân làng. Dân làng đối với Thành hoàng rất tôn kính và tin tưởng “làng không có Thành hoàng làng bất an”. Có ý nghĩa là cầu mong sự vươn lên trong cuộc sống. Thành hoàng được tôn thờ mang tính chất chung là phúc thần. 1.2.3.2. Thần Lê Tấn Sỹ Thần Thành hoàng trước đây là chính thần của Đình Hiệp Mỹ, nhưng những năm cuối thế kỷ XIX thì Ban hội đình đã đưa Lê Tấn Sĩ vào phối tự. Đây là một nhân vật lịch sử, là một nghĩa binh yêu nước đã đứng lên chống Pháp. Trong một trận đánh ông bị trọng thương và hy sinh trong tư thế đứng thẳng hiên ngang. Để ghi nhớ tấm gương
  10. -9- oanh liệt của ông cư dân thờ và xem ông như một vị thần theo quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần”. 1.3. Miếu thờ Bà Chúa Xứ 1.3.1. Tín ngưỡng Bà Chúa Xứ 1.3.2. Thờ Bà Chúa xứ trong Đình Hiệp Mỹ Trong khuôn viên Đình Hiệp Mỹ thờ Bà Chúa Xứ, với kiểu kiến trúc tiền đình – hậu miếu của Đình Hiệp Hiệp Mỹ còn để tạo thế cân bằng, khẳng định vị thế người phụ nữ, thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ xã hội, “Đàn ông đi hội đình, đàn bà đi hội miễu”. Tiểu kết chương 1 Trong quá trình vào khai khẩn vùng đất hoang Trà Vinh, cư dân gặp không ít khó khăn. Cuộc sống ổn định, thiết chế văn hóa làng xã cũng bắt đầu hình thành. Việc lập đình, xây miếu là một dạng thức tín ngưỡng bản địa được các lưu dân xác lập trên vùng đất mới. Đình làng lúc đầu chỉ có chức năng là ngôi nhà lớn. Dần dà về sau, nhà nước phong kiến sắc phong cho các vị có công với nước là thần Thành hoàng. Đình cũng là một cơ sở văn hóa tín ngưỡng thể hiện sự tri ân của hậu bối đối với tiền nhân - những vị có công dựng làng, tạo chợ, khai khẩn đất hoang…. Ở Đình Hiệp Mỹ ngoài thờ Thành hoàng họ còn phối tự thần Lê Tấn Sĩ một nhân vật lịch sử thể hiện tinh thần uống nước nhớ nguồn. Trong khuôn viên đình, cư dân lập Miếu thờ Bà Chúa Xứ thể hiện khát vọng của người nông dân về đất đai, mùa màng tươi tốt, cuộc sống phát triển lâu bền.
  11. -10- CHƯƠNG 2 CÁC LỄ VÀ HỘI ĐÌNH HIỆP MỸ 2.1. Lễ Kỳ yên 2.1.1. Vài nét về nguồn gốc lễ Kỳ yên 2.1.2. Diễn trình lễ Kỳ yên Đình Hiệp Mỹ Lễ hội Kỳ yên Đình Hiệp Mỹ là cổ lệ đại lễ có từ xa xưa, được tổ chức hàng năm. Lễ hội trước đây được tổ chức rất hoành tráng với nhiều nghi thức. Tuy nhiên, hiện nay lễ hội đã giản lược đi một số chi tiết. Lễ hội tổ chức trong 2 ngày 15-16 tháng 2, (Âl), với trình tự diễn ra như sau: Lễ Khai môn thượng kỳ và mộc dục, Nghi thỉnh sắc, Nghi Thỉnh sanh, Nghi Tiền hiền, Hậu hiền và chiến sĩ, Nghi cúng thần của bá tánh, Nghi chánh tế, Nghi hồi sắc và Nghi tống khách 2.2. Lễ Hạ điền, Thượng điền và lễ Khai sơn 2.2.1. Lễ Hạ điền: Thời gian cúng 01 ngày (05/5 Âl). Đây là lễ cúng thần Nông hay gọi là lễ xuống mùa. Chương trình lễ như sau: từ 08 giờ đến 10 giờ Ban hội tập trung, chuẩn bị các công việc cho cúng tế; từ 10 giờ đến 11 giờ cúng tế Thần Nông, chiến sỹ. 2.2.2. Lễ Thượng điền: Lễ được tổ chức ở Miếu Bà Chúa Xứ, tổ chức vào ngày 15-16 tháng 10 (Âl). Miếu Bà Chúa Xứ là cơ sở tín ngưỡng dân gian. Đình là tín ngưỡng truyền thống. Lịch sử di cư vào Nam đã dung hợp hai tín ngưỡng với nhau, miếu đã lọt vào trong khuôn viên đình. Lịch sử lập Đình Hiệp Mỹ đã lập miếu trong khuôn viên đình và lễ cúng Thượng điền trở thành lễ vía Bà Chúa Xứ ở Đình Hiệp Mỹ.
  12. -11- 2.2.3. Lễ Khai sơn: Theo tục lệ dân gian, 25 tháng chạp đến ngày mùng 7 tháng giêng là ngày các gia đình làm lễ đưa Thần, Phật, ông Táo về trời, đình làng cũng tổ chức lễ đưa Thành hoàng về trời để báo cáo công việc của làng. Tại Đình Hiệp Mỹ ngày 25 tháng chạp Ban hội đình dựng nêu ở sân đình. Đến ngày mùng 7 tháng giêng tiến hành lễ Khai sơn. Khi tiếng mõ vang lên, cây nêu được hạ xuống là lễ Khai sơn kết thúc, dân làng bắt đầu công việc cày cấy, trồng trọt. 2.3. Các sinh hoạt văn hóa lễ hội 2.3.1. Hát bội Hát bội – một thành tố không thể thiếu vắng trong lễ hội đình Nam Bộ trước đây, cụ thể tại Đình Hiệp Mỹ ở những năm 1980 trở về trước thì được biểu diễn hằng năm. Tuy nhiên, hiện nay hát bội không còn được duy trì. Nhưng trong hồi ức của Ban hội đình và những vị cao niên ở khu vực Đình Hiệp Mỹ thì trước đây trong lễ Kỳ yên, Thượng điền, Hạ điền luôn có phần hát bội. 2.3.2. Hát rỗi, múa bóng Hát múa bóng rỗi là một hình thức diễn xướng dân gian độc đáo, nó có chức năng kép, vừa là lễ thức vừa, phục vụ giải trí thu hút rất đông người xem. Phần mang tính lễ thức – một nghi thức cúng Bà Chúa Xứ, cúng thần, bao gồm các nghi thức hát rỗi, mời chào, ca tụng công đức của Bà, các thần; múa dâng vật phẩm cúng Bà. Phần mang tính sinh hoạt văn nghệ là hình thức nghệ thuật tổng hợp các trò tạp kỹ. Các bà bóng trình diễn múa dâng bông, múa ghế, múa lu…vv. Người xem không chỉ thán phục về tài năng và độ
  13. -12- tinh xảo của bà bóng mà còn như cảm nhận được sự huyền bí trong các thao tác nên chăm chú theo dõi và tán thưởng liên tục. Toàn bộ phần hát rỗi, múa bóng vừa có ý nghĩa thiêng liêng, vừa có ý thế tục, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần vừa đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của người tham dự lễ hội Đình Hiệp Mỹ. 2.3.3. Múa lân Múa lân là loại hình không thể thiếu trong những ngày vui lễ hội Đình Hiệp Mỹ. Mỗi một động tác của lân phải thể hiện được cái cốt cách, cái tinh thần, cái không khí của cuộc vui. Kết hợp rất chặt chẽ với nhịp trống, chiêng, xập xèng. Người giữ dùi trống, xập xèng phải đánh theo bước chân, nhịp múa của lân. Ngược lại, người múa cũng phải nghe được tiếng trống mà múa cho ăn nhịp, đúng điệu. Để cầm được đầu lân, ngoài năng khiếu, đòi hỏi phải có một quá trình luyện tập võ thuật. Mỗi một động tác của lân là các bộ tấn: định tấn, trung bình tấn, hạ tấn, cung tấn, trảo mã tấn, tứ bình tấn, thử bộ, kỳ lân bộ, điếu mã, kim kê độc lập,… Múa lân có các kiểu múa sau: lân xuất động, lân ngủ, lân thức, lân ăn, lân giỡn với địa, lân đấu với lân, lân mẹ dạy con, lân múa dưới cầu, lân nhận quà thưởng,…. Ông Địa trong múa lân giữ vai trò hoạt náo, tăng thêm phần hài hước, vui vẻ. 2.4. Nét chung và riêng của lễ hội Đình Hiệp Mỹ trong bối cảnh lễ hội đình Nam Bộ 2.4.1. Nét chung Qua so sánh với lễ hội tại Đình Thông Tây Hội, có thể thấy có những điểm tương đồng với lễ hội Đình Hiệp Mỹ như sau:
  14. -13- - Về niên đại, kiến trúc của đình: Tuy Đình Thông Tây Hội đựng tạo dựng sớm hơn, nhưng cả hai đình đều được xây dựng trong khoảng thời gian mở cõi phương Nam. Kiến trúc đình thuần Việt, thuộc dạng thức kiến trúc đình cổ miền miền Nam, có các kiến trúc phụ như miếu thờ thần Nông, thờ Bà Chúa Xứ giống nhau. - Về không gian tổ chức lễ hội diễn ra ở nơi tiêu biểu nhất là đình làng, nơi thờ các vị thần Thành hoàng là vị thần chính của đình làng, vì theo quan niệm dân gian thì thần Thành hoàng là vị thần được Thượng Đế giao cho trách nhiệm cai quản toàn thôn xã, che chở phù hộ cho dân sống bình yên, làm ăn phát đạt, thịnh vượng. - Về chu kỳ lễ hội trong năm: Trước đây tổ chức nhiều lễ hội, nhưng ngày nay giản lược đi nhiều, chỉ còn lễ lớn nhất là Kỳ yên. - Về mục đích, ý nghĩa của lễ hội: Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ thể hiện tấm lòng thành với việc dâng đến thần những lễ vật sản xuất trong năm, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị thấn có công, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Ngày Kỳ yên cũng là ngày tế Tiền hiền - Hậu hiền, Tiền bối - Hậu bối. Đây là một nghi lễ bắt nguồn từ nếp nghĩ quý trọng công lao của các bậc tiên tổ có công, biểu thị tư tưởng truyền thống uống nước nhớ nguồn, một hình thức tri ân các bậc tiền nhân có công khai sáng bồi đắp cho địa phương.
  15. -14- 2.4.2. Nét riêng Lễ hội Đình Hiệp Mỹ còn có những nét riêng so với lễ hội ở Đình Thông Tây Hội như: Thời gian tổ chức lễ (lễ Kỳ yên 14-15 tháng 8 Âl, lễ cúng Bà Chúa Xứ ngày 5/5 Âl). Đối tượng thờ cúng khác nhau, Đình Hiệp Mỹ thờ Thành hoàng và phối tự thần Lê Tấn Sỹ là người có công với địa phương, Đình Thông Tây Hội thờ 2 vị hoàng tử là chính thần. Về lễ hội: Đình Hiệp Mỹ hiện vẫn còn tổ chức các lễ Thượng điền, Hạ điền. Đình Thông Tây Hội chỉ tổ chức lễ Kỳ yên. Tuy cùng có Miếu Bà Chúa Xứ trong khuôn viên đình, nhưng Đình Hiệp Mỹ tổ chức lễ cúng riêng cho Bà Chúa Xứ (trong lễ Thượng điền), Đình Thông Tây Hội đã giản lược, không còn tổ chức. Các nghi thức trong phần lễ vẫn đang được tương đối giống nhau nhưng trong lễ Kỳ yên Đình Thông Tây Hội có phần khai kinh. Hoạt động giải trí, trò chơi dân gian ở Đình Thông Tây Hội trong lễ Kỳ yên phong phú hơn ở Đình Hiệp Mỹ. Tuy nhiên, trong lễ Thượng điền Đình Hiệp Mỹ còn có thêm phần hát rỗi, múa bóng, góp phần làm lễ hội thêm sinh động, thu hút nhiều công chúng hội. Bên cạnh đó, lễ hội Đình Hiệp Mỹ còn có những nét riêng tiêu biểu so với lễ hội ở các ngôi đình khác trong tỉnh Trà Vinh: lễ Kỳ yên được tổ chức hàng năm, khác với các đình khác 3 năm mới tổ chức Kỳ yên 1 lần hoặc lễ Kỳ yên là lễ Thượng điền hay Hạ điền được tổ chức lớn hơn gọi là Kỳ yên; cùng có thờ Miếu Bà Chúa Xứ trong khuôn viên đình như các Đình An Mỹ (Châu Thành), Đình Hội Hữu
  16. -15- (Duyên Hải) nhưng không có tổ chức lễ cúng Bà Chúa Xứ (lễ Thượng điền Đình Hiệp Mỹ). Các nghi thức cúng của Đình Hiệp Mỹ còn giữ tương đối đầy đủ, trong khi các đình khác đã giản lược đi rất nhiều. Trong 21 đình có sắc thần, còn rất ít ngôi ít thực hiện nghi thức thỉnh, hồi sắc. 2.4.3. So sánh với lễ hội thờ Neak Tà Do có sự khác biệt về ngôn ngữ, nên tín ngưỡng Thành hoàng của người Việt và tín ngưỡng Neak Tà của người Khmer có sự khác nhau là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, người Việt hay người Khmer đều mang văn hóa bản địa là văn hóa nông nghiệp lúa nước. Do vậy, có tính thống nhất và sự tương đồng giữa hai tín ngưỡng này. Hai hình thái tín ngưỡng dân gian của người Việt và tín ngưỡng Neak Tà của người Khmer đều xuất phát từ tục sùng bái tự nhiên, biểu hiện niềm tin của con người đối với thần bảo hộ, Người Việt thờ thần Thành hoàng ở các ngôi đình, người Khmer thờ Neak Tà ở các miếu. Tuy khác nhau về kiến trúc tôn thờ nhưng có chỗ giống nhau là có không gian tôn thờ riêng, thể hiện sự linh thiêng để thần ngự. Lễ hội Kỳ yên trong tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng của người Việt và lễ hội trong tín ngưỡng thờ Neak Tà của người Khmer có những biểu thị văn hóa khác nhau, nhưng đều bắt nguồn từ tín ngưỡng lễ nghi nông nghiệp. Những biểu thị văn hóa đó phản ảnh bản chất chung, thống nhất, đó là nhu cầu thờ thần bảo hộ cho cộng đồng. Cả hai lễ hội đều có nghi thức cầu an, cầu mưa thuận gió hòa.
  17. -16- Tiểu kết chương 2 Lễ hội ở Đình Hiệp Mỹ xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang được tổ chức hàng năm với các lễ Kỳ yên, Khai sơn, Hạ điền, Thượng điền. Trong đó, lễ Kỳ yên là lễ chính, được tổ chức trang nghiêm với nhiều nghi lễ Tiền hiền, Thỉnh sắc, Chánh tế. Hạ điền là lễ cúng Thần Nông hay gọi là lễ xuống mùa. Lễ Thượng điền được đồng nhất với lễ cúng Bà Chúa Xứ. Trong lễ Kỳ yên và Thượng điền có các sinh hoạt văn hóa thu hút đông đảo người xem như Múa lân, hát tài tử, hát rỗi, múa bóng. So sánh lễ hội Đình Hiệp Mỹ với lễ hội Đình Thông Tây Hội thấy rõ được sự kết hợp tín ngưỡng Thần - Mẫu trong tổ chức lễ hội Đình Hiệp Mỹ. Cả 2 ngôi đình đều có miếu thờ Bà Chúa Xứ trong khuôn viên, nhưng Đình Hiệp Mỹ nâng tầm thờ Mẫu lên thành một lễ hội ngang với lễ tế Thành hoàng, thể hiện ước muốn bình đẳng, cũng như khát vọng được sự bảo trợ của Thành hoàng và Bà Chúa Xứ trong vùng đất mà họ đang sinh sống. Lễ hội Đình Hiệp Mỹ là lễ hội dân gian truyền thống được cộng đồng cư dân trong vùng chung lo tổ chức hiện vẫn đang tồn tại và là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh tín ngưỡng, trong đời sống sinh hoạt văn hóa của nhiều người. Lễ hội ngày nay tuy đã có sự thay đổi, nhưng vẫn có ý nghĩa tích cực đối với xã hội hiện đại.
  18. -17- CHƯƠNG 3 PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LỄ HỘI ĐÌNH HIỆP MỸ 3.1. Lễ hội Đình Hiệp Mỹ trong đời sống tinh thần người dân Hiệp Mỹ hiện nay Ngày nay, Đình Hiệp Mỹ vẫn còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa, nơi các hoạt động văn hóa cộng đồng xóm, ấp được tổ chức và cũng là nơi tạo nguồn cảm hứng cho người dân sáng tạo nên các giá trị văn hóa làng. Đình làng cũng là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống vật thể lẫn phi vật thể. Đình cũng là nơi bảo lưu giữ sắc thần một loại tư liệu quý có giá trị về mặt lịch sử. Là nơi từng bảo tồn các loại hình nghệ thuật như hát bội và hiện nay là tài tử cũng như các phong tục cổ truyền của dân tộc. Đình làng vừa là cội nguồn tổ tiên, vừa là nơi biểu lộ lòng tri ân các bậc tiền nhân đã dày công vun đắp để lại cho muôn đời sau các giá trị văn hóa nhân văn. Lễ hội Đình Hiệp Mỹ là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong trong vùng. Các lễ hội đình làng là những mốc đánh dấu chu trình đời sống sản xuất và đời sống xã hội của mỗi cộng đồng, mà một khi cái mốc mang tính lễ nghi đó chưa được thực hiện thì các quá trình sản xuất và quá trình xã hội đó sẽ bị đình trệ. Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, các lễ hội nông nghiệp này dần biến đổi, làm phong phú hơn bằng những nội dung lịch sử, nội dung xã hội, nội dung văn hóa tạo nên diện mạo vô cùng phong phú và đa dạng như ngày
  19. -18- nay. Lễ hội tạo ra sự đồng cảm, để mỗi người tưởng nhớ đến công đức của các vị tiền nhân, những người có công với địa phương, đất nước, cũng là dịp để người dân thể hiện sự tự do tín ngưỡng và chiêm ngưỡng các nghi thức thể hiện nét truyền thống văn hoá tốt đẹp. Người ta đến với lễ hội còn nhằm mục đích vui chơi, giải trí, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, kinh nghiệm sống. 3.2. Những giá trị văn hóa của lễ hội 3.2.1. Giá trị cố kết cộng đồng Chủ thể của lễ hội Đình Hiệp Mỹ là cộng đồng cư dân trong xã và vùng lân cận. Họ vừa là là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội. Trãi qua nhiều thay đổi của thời gian, lễ hội vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân. Lễ hội quy tụ đông đảo bà con tham gia một cách tự nguyện. Có được nét đẹp này bởi những cư dân di cư đến đây đã tìm cách thích nghi với điều kiện xã hội mới, vừa có thể phát huy được thế mạnh của những yếu tố văn hóa truyền thống mang theo, đồng thời thích ứng môi trường, cảnh quan mới nhằm tạo cho mình một thế bình ổn trong tồn tại và phát triển. Tham dự, nghiên cứu lễ hội ở Đình Hiệp Mỹ, chúng ta có thể cảm nhận được sự chu đáo từ cộng đồng. Có thể nói đây là lễ hội mang đậm tính cộng đồng. Lễ hội do chính cộng đồng là chủ thể sáng tạo, đồng thời cộng đồng trở thành những khách thể thưởng thức các giá trị văn hóa đó. Tất cả đều có sự đồng thuận rất cao trên nhiều phương diện. Đó là sự phân công chặt chẽ từ việc quản lý tiền quỹ đóng góp đến việc chi tiền mua sắm thực phẩm đãi khách và việc trùng tu, tôn tạo di tích.
  20. -19- 3.2.2. Giá trị hướng về nguồn cội Lễ hội Đình Hiệp Mỹ còn có giá trị hướng về nguồn cội. Đó là sự ghi ơn thần Thành hoàng bổn cảnh, thần Lê Tấn Sỹ, Bà Chúa Xứ, các bậc Tiền hiền đã có công phò trợ họ trong quá trình khai hoang, lập làng và trong cuộc sống mưu sinh, chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Người đến dự lễ hội biểu thị lòng tôn kính và biết ơn các vị phúc thần, các bậc tiền nhân đã khuất có nhiều công lao tạo dựng quê hương, xây dựng cơ nghiệp để lại cho đời sau, đồng thời thể hiện ý thức tôn trọng văn hóa truyền thống của dân tộc, hưởng thụ hình thái sinh hoạt tinh thần cộng đồng vốn có nhiều gắn bó với phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian. Cư dân dành thời gian đến với lễ hội theo chu kỳ hàng năm bởi họ đặt niềm tin vào sự linh thiêng của với ước nguyện được bình an, đời sống sung túc. Đó không chỉ là ước nguyện của một cá nhân nào, mà còn là ước nguyện của cả một gia đình, dòng họ. Qua lễ hội, con người tưởng nhớ và hướng về nguồn cội của mình, góp phần giáo dục tinh thần yêu quê hương, đất nước và niềm tự hào về lịch sử, cội nguồn, văn hóa của dân tộc. 3.2.3. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh Lễ hội đình làng, mà cụ thể là lễ Kỳ yên, Thượng điền, Hạ điền là nơi để con người tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả của chân thiện mỹ, được sống trong tinh thần cộng đồng, cư dân địa phương tìm thấy niền lạc quan yêu đời, trọng cái thiện, bồi dưỡng nhân cách, làm trong sáng tâm hồn, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh, giải quyết những ước mơ, khát khao của cộng đồng, làm cho người dự lễ hội thấy cuộc sống có ý nghĩa, tốt đẹp hơn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2