intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng: Sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị Methadone tại trung tâm y tế thành phố Bắc Giang năm 2019

Chia sẻ: Huyen Nguyen My | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

34
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là mô tả thực trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh điều trị methadone tại Trung tâm y tế thành phố Bắc Giang năm 2019; phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng: Sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị Methadone tại trung tâm y tế thành phố Bắc Giang năm 2019

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE BỘ MÔN Y TẾ CÔNG CỘNG LÊ THỊ DUNG SỨC KHỎE TÂM THẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI BỆNH ĐIỀU TRỊ METHADONE TẠI TRUNG TÂM Y TẾ THÀNH PHỐ BẮC GIANG NĂM 2019 Chuyên ngành : Y TẾ CÔNG CỘNG Mã số : 8720701 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Anh Tuấn Hà Nội – 2019
  2. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CDTP : Chất dạng thuốc phiện CSĐT : Cơ sở điều trị DASS : Thang đánh giá trầm cảm, lo âu, căng thẳng (Depression Anxiety Stress Scales) ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu ĐTV : Điều tra viên MMT : Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone (Methadone Mainternance Treatment) NCMT : Nghiện chích ma túy SKTT : Sức khỏe tâm thần MLQ : Mối liên quan Tp. : Thành phố TTYT : Trung tâm y tế UNODC : Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (United Nations Office on Drugs and Crime) WHO : Tổ chức y tế thế giới (World Health Organization)
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Sử dụng ma túy hiện nay đang là vấn đề mà cả xã hội quan tâm, nó len lỏi vào từng căn nhà, ngõ phố và không loại trừ người nào. Ma túy xâm lấn như vũ bão trong cộng đồng người với tất cả các tầng lớp trong xã hội, với các lứa tuổi và không loại trừ nam hay nữ. Theo báo cáo của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC), năm 2014 ước tính trên thế giới có khoảng 12,7 triệu người nghiện chích ma túy (NCMT) [36]. Tại Châu Á, khoảng 25% đến 40% người nghiện chất gây nghiện bất hợp pháp và 60% người nghiện các chất dạng thuốc phiện [34]. Tại Việt Nam tính đến ngày 15/11/2017, cả nước có khoảng 222.582 người nghiện chích ma túy có hồ sơ quản lý. Điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone (MMT) đã được triển khai ở 63 tỉnh, thành phố trên cả nước với 294 cơ sở điều trị, cung cấp dịch vụ cho 52.818 người bệnh [8]. Methadone là chương trình đã có từ nhiều thập kỷ gần đây, hiện được coi là phương pháp điều trị “tiêu chuẩn vàng” đối với người nghiện các chất dạng thuốc phiện, được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia đặc biệt là những quốc gia có thu nhập thấp và trung bình [35]. Với mục đích giảm tác hại do nghiện các chất dạng thuốc phiện gây ra và giảm hoạt động phạm tội, giảm sự kỳ thị xã hội, chương trình điều trị chất dạng thuốc phiện bằng methadone hướng đến đối tượng là người nghiện chích ma túy. Chương trình này được ghi nhận có hiệu quả tích cực trong việc giảm sử dụng ma túy và giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, cải thiện tình trạng việc làm, cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghiện chích ma túy [12], [31], [32], [35]. Nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) là một bệnh mạn tính, điều trị methadone là điều trị lâu dài, phức tạp, liên quan
  4. 2 đến tình trạng thể chất, tâm lý, xã hội đa chiều, đặc biệt vấn đề sức khỏe tâm thần của người điều trị methadone cũng là một vấn đề mà xã hội chúng ta cần phải quan tâm và hỗ trợ [13]. Tại Việt Nam cũng đã có những chuyên đề về sức khỏe tâm thần (SKTT) đối với người nghiện chích ma túy, ít nghiên cứu về rối loạn tâm thần trên người bệnh dùng methadone [2], [29]. Tại tỉnh Bắc Giang, tính đến ngày 26/7/2018, có 9 cơ sở điều trị (CSĐT) methadone được đặt tại các huyện/thành phố, đang quản lý điều trị cho 1.118 người bệnh, tổng số ca bệnh đã được điều trị bằng biện pháp này lên hơn 1.900 người [14]. Tháng 11/2015 cơ sở điều trị methadone thuộc Trung tâm Y tế (TTYT) thành phố Bắc Giang (Tp. Bắc Giang) được thành lập. Tính đến hết tháng 5/2019 cơ sở đã điều trị lũy tích cho 335 người nghiện chích ma túy và hiện tại đang điều trị cho 170 người bệnh [10]. Sức khỏe tâm thần của người bệnh là một trong các chỉ số phản ánh chất lượng dịch vụ và tác động của dịch vụ. Đo lường sức khỏe tâm thần của người bệnh đang điều trị methadone ở đây là rất cần thiết, nghiên cứu sẽ là cơ sở góp phần nâng cao sức khỏe tâm thần cho người bệnh điều trị methadone. Câu hỏi đặt ra là “Thực trạng sức khỏe tâm thần của người điều trị methadone ở đây như thế nào và yếu tố nào ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của họ?” Để trả lời câu hỏi này, nghiên cứu “Sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của người bệnh điều trị methadone tại Trung tâm y tế thành phố Bắc Giang năm 2019” được thực hiện với hai mục tiêu: 1. Mô tả thực trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh điều trị methadone tại Trung tâm y tế thành phố Bắc Giang năm 2019. 2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của đối tượng nghiên cứu.
  5. 3 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Chất ma túy Theo Luật phòng chống ma túy: Chất ma túy bao gồm chất gây nghiện và chất hướng thần. 1.1.2. Nghiện ma túy Theo quyết định 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế, người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy và bị lệ thuộc vào các chất này [1]. 1.1.3. Methadone và điều trị methadone Methadone là một CDTP tổng hợp, có tác dụng dược lý tương tự như các CDTP khác (đồng vận) nhưng không gây nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và không gây khoái cảm ở liều điều trị, có thời gian bán huỷ dài (trung bình là 24 giờ) nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong 1 ngày là đủ để không xuất hiện hội chứng cai. Methadone có độ dung nạp ổn định nên ít phải tăng liều khi điều trị lâu dài. Điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc methadone là một điều trị lâu dài, có kiểm soát, giá thành rẻ, được sử dụng theo đường uống, dưới dạng siro nên giúp dự phòng các bệnh lây truyền qua đường máu như HIV, viêm gan B, C, đồng thời giúp người bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập cộng đồng [1].
  6. 4 1.2. Thực trạng sử dụng ma túy và hậu quả 1.2.1. Thực trạng nghiện chích ma túy Tại Châu Á, khoảng 25% đến 40% người nghiện chất gây nghiện bất hợp pháp và 60% người nghiện các CDTP [34]. Tại Việt Nam tính đến ngày 15/11/2017 cả nước có 222.582 người NCMT có hồ sơ quản lý, điều trị bằng MMT đã được triển khai ở 63 tỉnh, thành phố trên cả nước với 294 CSĐT, 52.818 người bệnh [8]. 1.2.2. Hậu quả của sử dụng ma túy Nghiện ma túy không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân, gia đình người nghiện mà còn ảnh hưởng lớn đến cộng đồng. Tác hại đối với cơ thể Ảnh hưởng đến các mối quan hệ Ảnh hưởng đến gia đình Ảnh hưởng đến xã hội 1.3. Chương trình giảm hại và chương trình methadone Tại Việt Nam, chương trình MMT thí điểm bắt đầu triển khai từ tháng 5/2008 với 06 trung tâm điều trị tại Hải Phòng và Hồ Chí Minh. Tháng 9/2014, chương trình được triển khai tại 38 tỉnh, thành phố với hơn 120 CSĐT và điều trị cho 21.317 người bệnh [8]. Đến hết năm 2015, đã có 57 tỉnh, thành phố triển khai chương trình với 239 cơ sở điều trị, nâng số người bệnh được điều trị lên 43.720 người [2]. 1.4. Sức khỏe tâm thần của người bệnh MMT và các yếu tố liên quan 1.4.1. SKTT của người bệnh MMT ở Việt Nam Trầm cảm Lo âu Căng thẳng
  7. 5 1.4.2. Một số nghiên cứu về sức khỏe tâm thần của người bệnh MMT Nghiên cứu của Nguyễn Thu Trang và cộng sự năm 2016, cho thấy việc sàng lọc rối loạn tâm thần bằng công cụ chuẩn hoá ở người bệnh MMT là rất cần thiết [8]; các chỉ số báo cáo SKTT có thể là chất lượng giấc ngủ và liều MMT. Người bệnh có liều MMT trên 120 mg có nguy cơ rối loạn tâm thần cao hơn 2 lần so với người bệnh có liều dưới 60 mg (OR = 2,4; 95% CI = 1,1 - 5,5) [4]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Ninh Huệ, Phạm Phương Thảo, Lê Minh Thuận năm 2018, nghiên cứu cho thấy người bệnh có rối loạn trầm cảm, lo âu và căng thẳng lần lượt là 22%, 22%, 14,1%, người bệnh bị cả ba rối loạn là 7,5% [27]. 1.5. Thông tin về địa bàn nghiên cứu Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Thành phố Bắc Giang trước kia và nay được biết đến với vai trò là một trong những trung tâm lớn của vùng về công nghiệp đạm - hoá chất, công nghiệp may mặc, đồng thời là trung tâm phân phối, trung chuyển hàng hóa từ Trung Quốc cho miền Bắc, cũng là nơi tập kết các sản phẩm nội địa xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Thành phố Bắc Giang có 02 làng nghề truyền thống, một số cụm công nghiệp vừa và nhỏ gắn với hệ thống các khu, cụm công nghiệp lớn của tỉnh liền kề thành phố như: Quang Châu, Đình Trám, Vân Trung, Song Khê - Nội Hoàng... đó là những thuận lợi cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội và đô thị. Sự phát triển và lớn dần của nền kinh tế thành phố, cũng là mối e ngại của các nhà chức trách khi các tệ nạn xã hội phát triển theo, cụ thể tệ nạn ma túy và sử dụng các chất dạng thuốc phiện.
  8. 6 Thành phố Bắc Giang nơi tập trung số người nghiện ma tuý cao nhất tỉnh, theo số liệu của TTPC HIV/AIDS Bắc Giang tính đến 31/12/2014 toàn tỉnh có 1.434 người nghiện ma tuý. Người sử dụng ma tuý có ở 16/16 xã, phường của thành phố, tập trung nhiều tại các phường, xã như: Trần Phú, Trần Nguyên Hãn, Thọ Xương. Theo thống kê 2016, toàn tỉnh Bắc Giang có 186/230 xã có người nghiện ma túy; người nghiện có hồ sơ quản lý là 1.916. Người nghiện sử dụng Heroin có xu hướng giảm dần, tỷ lệ người sử dụng ma túy tổng hợp nhóm kích thích dạng Amphetamin ngày càng gia tăng, đến nay số sử dụng chiếm khoảng từ 40-45%. Người nghiện ma túy tập trung nhiều nhất ở thành phố Bắc Giang [7]. Trên địa bàn thành phố hiện có 03 cơ sở cai nghiện ma túy tự nguyện nằm trong các đơn vị y tế nhà nước. CSĐT methadone thuộc Trung tâm Y tế thành phố Bắc Giang đi vào hoạt động điều trị MMT từ tháng 11/2015, cơ sở đã điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện bằng MMT lũy tích cho 326 người NCMT (thực tế hiện đang điều trị tại cơ sở 170 người NCMT) [10].
  9. 7 CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Người bệnh đang điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadone tại địa bàn nghiên cứu. 2. Địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại cơ sở điều trị methadone thuộc TTYT Tp. Bắc Giang. 3. Thời gian nghiên cứu Thời gian nghiên cứu từ tháng 2 đến tháng 12 năm 2019, 4. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích. 6. Bộ công cụ thu thập thông tin - Bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp người bệnh. - Bản trích lục thông tin bệnh án. - Thang đo Dass – 21(được phát hành bởi quỹ tâm lý Úc). 7. Xử lý số liệu Các số liệu thu thập được xử lý bằng thuật toán thống kê y sinh học sử dụng phần mềm SPSS 20.0. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
  10. 8 CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Thông tin chung của người bệnh Nghiên cứu được thực hiện với 170 người bệnh điều trị methadone tại Trung tâm Y tế Tp. Bắc Giang, tỷ lệ nghiên cứu là 100%. Phần lớn người bệnh MMT ở trong nghiên cứu có giới tính là nam, chiếm tới 98,8%, chỉ có 2 người bệnh trong nghiên cứu có giới tính là nữ. Về độ tuổi, đa số người bệnh ở độ tuổi lao động, lứa tuổi trung niên với độ tuổi trung bình của đối tượng là 43,9 tuổi. Nhóm tuổi chiếm phần lớn là nhóm từ 41 đến 50 tuổi. Đa số người bệnh có học vấn ở mức tiểu học và THCS (34,47%, 46,47%), THPT 17,65 %, còn lại 1,18% là không biết chữ. Người bệnh tham gia nghiên cứu hoặc sống với bố mẹ, anh chị trong nhà, hoặc đã góa, ly dị hoặc ly thân. Tỷ lệ này chiếm 67,65%, gấp 2,09 lần nhóm sống độc thân (chưa từng kết hôn) hoặc sống với bạn bè, bạn tình hoặc người yêu. Phần lớn họ làm nghề tự do (85,29%), với 60,59% người bệnh có thu nhập hàng tháng từ 3 đến 5 triệu đồng. Mức thu nhập này tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thị Đào [23]. 2. Thực trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh Các đối tượng được phỏng vấn trong nghiên cứu lại có mức độ trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở mức vừa, nặng và rất nặng khá lớn. Có 156 người bệnh gặp ít nhất 1 vấn đề về sức khỏe tâm thần (chiếm 91,8%) và 86 người bệnh gặp cả 3 vấn đề (chiếm 50,6%). Trong đó, tỷ lệ người bệnh mắc lo âu là cao nhất (91,8%) và tỷ lệ mắc căng thẳng là thấp nhất (50,6%). Nhìn chung mức độ trầm cảm của đối
  11. 9 tượng đang được điều trị methadone là khá cao. Sự khác biệt có thể giải thích qua sự khác biệt về văn hóa và địa bàn của các nghiên cứu. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại Nam Định của Lê Anh Tuấn, mô tả về các vấn đề sức khỏe tâm thần trên đối tượng hiện đang điều trị methadone, cho thấy tỷ lệ trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở mức độ vừa khá cao, lần lượt là 96,2%, 82% và 96% [39]. Theo nghiên cứu tại tỉnh Quảng Châu, Trung Quốc trên cùng đối tượng, được thực hiện bởi Xiao Zhang và cộng sự, mức độ trầm cảm của đối tượng đang được điều trị methadone là 42,7% [38]. Tuy nhiên, các đối tượng được phỏng vấn trong nghiên cứu lại có mức độ trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở mức vừa, nặng và rất nặng khá lớn. Theo đó, tỷ lệ đối tượng bị căng thẳng là 50,59%, thấp nhất trong 3 yếu tố. Tỷ lệ mắc trầm cảm là 75,29% tỷ lệ đối tượng lo âu là cao nhất với 91,76%. Từ điều này, có thể thấy tuy mức độ trầm cảm của người bệnh là có sự khác biệt giữa các nghiên cứu, nhưng nhìn chung mức độ trầm cảm của đối tượng đang được điều trị methadone là khá cao. Sự khác biệt có thể giải thích qua sự khác biệt về văn hóa và địa bàn của các nghiên cứu. 3. Một số yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần của người bệnh Qua điều tra phỏng vấn 170 người bệnh đang điều trị Methadone cho thấy các yếu tố có liên quan đến sức khỏe tâm thần là: Trình độ học vấn (với p < 0,05; OR = 4,63), Tình trạng hôn nhân (với p < 0,05; OR = 0,14), Uống rượu bia trong 1 tháng qua (với p < 0,05; OR = 3,1), Đã từng tiêm chích ma túy (với p < 0,05; OR = 0,39), Có sự hỗ trợ tài chính/ thủ tục khác (với p < 0,05; OR = 4,05), Sự hỗ trợ của bạn bè cùng điều trị (với p < 0,05; OR = 2,74).
  12. 10 KẾT LUẬN Nghiên cứu về sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên quan của 170 người bệnh hiện đang tham gia điều trị Methadone tại Trung tâm Y tế thành phố Bắc Giang năm 2019 cho thấy: 1. Thực trạng sức khỏe tâm thần của người bệnh điều trị methadone Tại thời điểm thực hiện nghiên cứu, có 170 người bệnh đủ điều kiện tham gia nghiên cứu với 98.82% là nam giới, độ tuổi trung bình là 44 tuổi và phần lớn người bệnh không có công việc ổn định. Phần lớn người bệnh gặp vấn đề về rối loạn lo âu, chiếm 91,8%. Tỷ lệ người bệnh gặp vấn đề về căng thẳng là ít nhất trong 3 yếu tố sức khỏe tâm thần, chiếm 50,6%. Người bệnh tham gia nghiên cứu có sử dụng rượu, bia hàng ngày (4,1%), hút thuốc lá hàng ngày (65,29%), vẫn còn sử dụng ma túy trong quá trình điều trị methadone (48,82%). 2. Các yếu tố liên quan tới mức độ trầm cảm, lo âu và căng thẳng của người bệnh Số liệu thu thập từ 170 người bệnh phân tích hồi quy theo 3 khía cạnh chính, bao gồm yếu tố cá nhân của người bệnh, yếu tố từ cơ sở điều trị và yếu tố gia đình, cộng đồng. Kết quả cho thấy, các yếu tố cá nhân bao gồm tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, sử dụng rượu bia trong 1 tháng qua, từng tiêm chích ma túy có mối liên quan tới tình trạng trầm cảm của người bệnh. Đồng thời, các yếu tố về cơ sở điều trị bao gồm thuận tiện đi lại, có sự hỗ trợ về tài chính và các thủ tục khác cũng được chứng minh là có mối liên quan tới tình trạng sức khỏe tâm thần này. Yếu tố điều trị cùng bạn bè cũng có mối liên quan tới khả
  13. 11 năng người bệnh mắc rối loạn trầm cảm. Tương tự, các yếu tố của người bệnh liên quan đến lo âu là đã từng tiêm chích ma túy thuộc khía cạnh về cá nhân người bệnh; có sự hỗ trợ tài chính/thủ tục thuộc khía cạnh về cơ sở điều trị. Đồng thời, các yếu tố có liên quan đến căng thẳng là tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn , sử dụng rượu bia và đã từng tiêm chích ma túy. Quan điểm về khoảng cách gần, tiện đi lại khi đến địa điểm cung cấp Methadone và về tầm quan trọng của sự hỗ trợ về tài chính/thủ tục khác cũng ảnh hưởng đến khả năng mắc rối loạn căng thẳng của người bệnh. Các yếu tố trên đều có ý nghĩa thống kế với mức ý nghĩa 95%.
  14. 12 KHUYẾN NGHỊ Qua kết quả nghiên cứu, tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau. Đối với người bệnh điều trị methadone và người nhà Để tăng hiệu quả điều trị, người bệnh không nên tiếp tục sử dụng các chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá, ma túy. Đồng thời, nên dành thời gian tham gia các hoạt động xã hội nhằm tăng cường gắn kết với cộng đồng, cũng như tham gia các hoạt động cùng gia đình nhằm tăng thêm sự gắn kết với các thành viên. Nên thực hiện tuyên truyền cho cộng đồng nhằm nâng cao nhận thức về việc điều trị Methadone. Ủng hộ và động viên tinh thần của người bệnh, giúp họ làm giảm gánh nặng về trầm cảm và căng thẳng khi tham gia điều trị. Khuyến khích người bệnh kết bạn, cùng nhau điều trị và giữ vững tinh thần, nhằm tăng hiệu quả điều trị và giảm khả năng mắc các chứng bệnh liên quan tới sức khỏe tâm thần của người bệnh. Đối với cơ sở điều trị methadone Cơ sở điều trị thực hiện các hoạt động hỗ trợ người bệnh như khuyến khích tham gia các hoạt động xã hội, gia đình; khuyến khích họ đi cùng thành viên trong gia đình khi tham gia điều trị; khi người bệnh đã đạt liều ổn định, có thể chuyển người bệnh về xã/phường để giảm khoảng cách đi lại cho người bệnh, tăng tuân thủ điều trị; xem xét khả năng điều trị miễn phí hoàn toàn cho người bệnh do nhiều người bệnh nghèo, có người sống phụ thuộc; tăng cường kết nối với các dịch vụ hỗ trợ xã hội, tạo công ăn việc làm ổn định cho người bệnh.
  15. 13 Việc đánh giá sức khỏe tâm thần theo thang đo DASS 21 cần được làm mỗi năm cho người bệnh. Cần có các nghiên cứu can thiệp tiếp theo nhằm cải thiện các yếu tố sức khỏe tâm thần của người bệnh điều trị methadone tại cơ sở. Điển hình là việc xem xét các tác động của kiểm tra sức khỏe đầu vào, cải thiện sơ sở điều trị, cải cách các chính sách hỗ trợ cho người bệnh.
  16. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Bắc Giang (2016). “Kết quả sau 3 năm thực hiện Đề án Đổi mới công tác cai nghiện”, Tạp chí lao động và xã hội online (10:50 AM 12/10/2016). 2. Báo Đời sống (2016). “Số người nghiện chích ma túy trên thế giới đã tăng lên mức kỷ lục”. 3. Bộ lao động TBXH (2013). “Đổi mới công tác cai nghiện ma túy ở Việt Nam đến năm 2020”. Tr 1. 4. Bộ VHTT & DL (2016). “Tác hại của ma túy đến bản thân và cộng đồng” Cổng thông tin điện tử. 5. Bộ Y tế (2010), Quyết định 3140/QĐ-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế về “Hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone”, Hà Nội. 6. Bộ Y tế (2012). Báo cáo đánh giá hiệu quả của chương trình thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng methadonee tại Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh. 7. Bộ Y tế (2014), Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS đến 30/9/2014, Hà Nội. 8. Cục phòng chống HIV/AIDS (2016), “Báo cáo Công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2015 và các nhiệm vụ trọng tâm năm 2016” 9. Cục phòng chống HIV/AIDS (2014), “Điều tra ban đầu bệnh nhân điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2014”
  17. 10. Cục Phòng chống Tệ nạn xã hội (2017). Tổng kết công tác phòng, chống HIV⁄AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018. 11. Đại học y dược Huế (2006). "Giáo trình Tâm thần học, Giáo trình giảng dạy bác sĩ Đa khoa", Khoa tâm thần. 12. Đào Thị Minh An, Nguyễn Thị Thu Hường, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Hoàng Long (2015). “Thực trạng bỏ điều trị, ra khỏi chương trình và quay lại điều trị tại các cơ sở điều trị cai nghiện bằng methadone tỉnh Thái Nguyên từ 30/9/2011 đến 31/8/2015”. Tạp chí Y học dự phòng. 13. Đào Thị Diệu Thúy, Trần Minh Hoàng, Đinh Thanh Thúy, Phạm Phương Mai, Lê Minh Giang (2018), “Trầm Cảm Ở Thành Viên Gia Đình Của Nam Tiêm Chích Ma Túy Nhiễm HIV Tại Hà Nội Năm 2016” Tạp chí nghiên cứu Y học 106(1), pg. 179-185. 14. Đậu Thị Tuyết (2013).“Tình trạng Căng thẳng , lo âu, trầm cảm của cán bộ y tế khối lâm sàng bệnh viện đa khoa thành phố Vinh, bệnh viện đa khoa 115 Nghệ An năm 2013 và một số yếu tố liên quan”. Thư viện đại học Y tế công cộng. 15. Hồ Quang Trung và cộng sự (2015). “Kết quả chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại tỉnh Phú Thọ năm 2015”. Tạp chí Y học dự phòng 16. Hoàng Bình Yên và các cộng sự (2013), “Đánh giá một số kết quả điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại Thanh Hóa từ 5/2011 đến 5/2012”, Tạp chí truyền nhiễm Việt Nam số 3, trang 60-65.
  18. 17. Lương Hữu Thông (2006), “Hỏi và đáp về bệnh căng thẳng ”, nhà xuất bản lao động Hà Nội. 18. Nguyễn Minh Tú và cộng sự (2018). “Mối liên quan giữa hoạt động thể lực với trầm cảm, lo âu và căng thẳng ở sinh viên ngành y đa khoa trường đại học y dược Huế năm 2018” Tạp chí y học dự phòng. Tập 28, số 8, 2018, tr 64. 19. Nguyễn Thị Linh Huệ, Phạm Phương Thảo, Lê Minh Thuận (2018), “Trầm cảm, lo âu, căng thẳng và các yếu tố liên quan ở người bệnh đang điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng methadone”. Tạp chí nghiên cứu Y học TP. Hồ Chí Minh* Phụ bản tập 22*Số 1*2018. 20. Nguyễn Thu Trang và cộng sự (2016). “Nguy cơ rối loạn tâm thần ở người bệnh điều trị methadone và một số yếu tố liên quan”. Tạp chí nghiên cứu y học 99(1)-2016, tr 147-154. 21. Phạm Công Chính, Lâm Ngọc Tĩnh (2017). ầm ” Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 8, tr. 165 22. Phạm Đức Mạnh (2014). “Điều tra ban đầu người bệnh điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam năm 2014”. Cục Phòng chống HIV/AIDS. 23. Phạm Thị Đào, Trần Thanh Thuỷ, Lê Thành Chung, Lê Quang Minh (2015). “Kiến thức, thái độ và thực trạng sử dụng các loại ma túy tổng hợp tại thành phố Đà Nẵng năm 2014”, Tạp chí Y học dự phòng. 24. Thanh Trà (26/07/2018). "Hơn 1,1 nghìn người bệnh điều trị nghiện bằng chất thay thế methadone", tiengchuong.vn/Ma-tuy.
  19. 25. thoibaotaichinhvietnam.vn (2018). “Khoảng 275 triệu người trên thế giới sử dụng ma tuý” tiếng chuông.vn. 26. Trần Minh Hoàng và cộng sự (2015). “Một số yếu tố liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của người nhiễm HIV tham gia chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại Hải Phòng”. “Tạp chí nghiên cứu Y học, 94(2), tr 103-109. 27. Trịnh Tất Thắng (2014). "Các rối loạn giấc ngủ và hướng xử trí, Bệnh viện tâm thần Tp. Hồ Chí Minh", http://www.bvtt- tphcm.org.vn. 28. Trung tâm Y tế TP.Bắc Giang (2019). Báo cáo tình hình điều trị methadone tháng 5/2019. 29. Ủy ban quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS và ma túy mại dâm (2018), “Bắc Giang hơn 11 nghìn người bệnh điều trị nghiện bằng chất thay thế methadone”. tiengchuong.vn/Ma-tuy 30. Vũ Việt Hưng (2010). “Thực trạng hoạt động, sự tiếp cận và sử dụng dịch vụ điều trị thay thế methadone tại huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 2010”, Luận văn Thạc sĩ y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội. TIẾNG ANH 31. A.E Rydolph, et al (2012), “Preceptions of community and family level IDU and HIV related stigma, disclosure decisions and experiences with layered stigma among HIV positive injection drug users in Vietnam”, AIDS care, 24(2), pg. 239-244.
  20. 32. Aishwarya Vijay et al (2015), “Treatment Readiness, Attitudes Toward, and Experiences with Methadone and Buprenorphine Maintenance Therapy Among People Who Inject Drugs in Malaysia”. Journal of Substance Abuse Treatment 54, pg. 29–36. 33. Appel PW, Ellison AA, Jansky HK, Oldak R. (2004), “Barriers to enrollment in drug abuse treatment and suggestions for reducing them: Opinions of drug injecting street outreach clients and other system stakeholder”, The American Journal of Drug and Alcohol Abuse; 30(1):129–153. 34. Bach Xuan Tran, Arto Ohinmaa, Steve Mills et al (2012). “Multilevel Predictors of Concurrent Opioid Use during Methadonee Maintenance Treatment among Drug Users with HIV/AIDS”. PLoS ONE, 7(12), 51569. 8. Thach Duc Tran, Tuan Tran và Jan 35. Catherine Anne Esposito, et al (2009), “The prevalance of depression among men living with HIV infection in Viet Nam”, American Journal of Public Health, 99 (S2). 36. Christina F. Ryan, Jason M. White (1996), “Health status at entry to methadone maintenance treatment using the SF‐36 health survey questionnaire”, https://doi.org/10.1046/j.1360- 0443.1996.911397.x
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0