BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
LÊ THỊ THANH XUÂN
TỔNG HỢP MỘT SỐ DUNG MÔI SÂU TRÊN CƠ SỞ
2-ALKYLBENZIMIDAZOLE, CHOLINE CHLORIDE VÀ ỨNG
DỤNG TÁCH CHIẾT OMEGA-3,6,9 TRONG MỠ CÁ BASA Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chuyên ngành: Hóa hữu cơ
Mã số: 9 44 01 14
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÓA HỮU CƠ
TP.HCM – 2021
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Người hướng dẫn khoa học 1: PGS. TS. Hồ Sơn Lâm
Người hướng dẫn khoa học 2: TS. Cù Thành Sơn
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp Học
viện, họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng … năm 2021….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
1
MỞ ĐẦU
Hiện nay, nghề nuôi cá đặc biệt là cá basa, cá tra (catfish)
phát triển mạnh ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, đáp ứng được
nhu cầu tiêu thụ trong nước và làm nguyên liệu cho chế biến xuất
khẩu, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp thủy sản Việt
Nam. Tuy nhiên, cá basa, cá tra chủ yếu được sử dụng phần thịt (phile)
cho xuất khẩu và loại mỡ nguyên sinh cho thị trường trong nước. Các
phụ phẩm của qui trình chế biến như: đầu, xương, mỡ, da...chưa được
tận dụng một cách hiệu quả. Dạng phụ phẩm này từ trước đến nay
được dùng làm phân bón hoặc thức ăn gia súc. Nếu không có biện
pháp xử lý phù hợp thì không chỉ lãng phí nguồn dinh dưỡng chứa
trong đó, mà còn trở thành nguồn gây ô nhiễm cho môi trường.
Trong vài năm gần đây, ở Việt Nam có một số công trình
nghiên cứu tách các hợp chất omega bằng các phương pháp như:
Thủy giải lipid trong môi trường kiềm và kết tủa urea, hoặc sử dụng
phương pháp kết tinh phân đoạn ở nhiệt độ thấp… nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế của quá trình chế biến cá da trơn. Nhưng nhìn chung
các kết quả chỉ mới mang tính chất thăm dò, chưa có công trình
nghiên cứu tách các hợp chất Omega-3,6,9 khỏi hỗn hợp acid béo của
mỡ cá basa và cá tra. Trên thế giới các phương pháp tách chiết
Omega-3,6,9 hiện có trong nghiên cứu và sản xuất như: phương pháp
sắc ký, phương pháp chưng cất và enzyme, phương pháp kết tủa urea
phức, phương pháp chiết chất lỏng siêu tới hạn…
Dung môi sâu là dạng chất lỏng ion thế hệ mới, chúng có thể
được tạo ra bằng cách trộn các thành phần thích hợp và đun nóng sẽ
tạo ra chất lỏng có điểm đóng băng thấp hơn các thành phần riêng lẻ.
Việc hạ thấp điểm đóng băng là kết quả của sự tương tác liên kết
hydro giữa tác nhân. Dung môi sâu có tính chất đặc biệt như, hoàn
2
toàn không bay hơi và không có áp suất hơi. Do đó, chúng không gây
ra những vấn đề liên quan đến cháy nổ, an toàn cho người vận hành
cũng như đối với môi trường sống, như khả năng phân hủy sinh học
và khả năng tương thích sinh học. Chúng có thể thay thế các dung
môi độc hại, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, có khả năng thu hồi và
tái sử dụng. Vì vậy chúng là ứng cử viên được sử dụng như là dung
môi trong các kỹ thuật tách chiết.
Việc tách Omega-3,6,9 khỏi hỗn hợp acid béo cũng như tách
riêng từng dạng omega với một hệ dung môi xanh và có chi phí thấp là
một vấn đề đang được các nhà nghiên cứu và sản xuất quan tâm. Căn cứ
vào nhu cầu thực tế về Omega-3,6,9 tại Việt Nam, cũng như việc phải
nâng cao hiệu quả kinh tế của cá da trơn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu
tính khoa học cao của việc tách và làm giàu Omega-3,6,9 bằng những
hệ dung môi xanh và rẻ tiền, chúng tôi đã đề xuất thực hiện công trình
“Tổng hợp một số dung môi sâu trên cơ sở 2-alkylbenzimidazole,
choline chloride và ứng dụng tách chiết Omega-3,6,9 trong mỡ cá
basa ở Đồng bằng Sông Cửu Long” và được Học Viện Khoa học và
Công nghệ chấp nhận làm nghiên cứu sinh với luận án có nội dung như trên.
* Mục tiêu của đề tài
- Tổng hợp các hệ dung môi sâu trên cơ sở choline chloride
với các hợp chất, 2-alkylbenzimidazole/ethylene glycol và xác định
cấu trúc của chúng.
- Sử dụng các dung môi sâu đã tổng hợp được để làm giàu
và tách Omega-3,6,9 từ mỡ phế thải theo qui trình nhà máy chế biến
cá basa xuất khẩu.
* Nội dung của đề tài
1. Khảo sát thành phần, hàm lượng acid béo trong mỡ cá
basa bằng dung môi truyền thống và xây dựng qui trình tách acid béo
3
ra khỏi phụ phẩm của quá trình chế biến phile cá basa.
2. Nghiên cứu tổng hợp các dung môi sâu (Deep Eutectic
Solvent) trên cơ sở
- Choline chloride với urea và đồng đẳng (methylurea,
thiourea và methylthiourea) xác định tính chất của chúng.
- 2-Alkylbenzimidazole (2-pentylbenzimidazole, 2-heptyl-
benzimidazole, 2-octylbenzimidazole, 2-nonylbenzimidazole), và tạo
hệ dung môi sâu ethylene glycol/2-alkylbenzimidazole.
3. Sử dụng các dung môi sâu đã tổng hợp để tách và làm giàu
Omega-3,6,9 từ nguyên liệu.
4. So sánh quá trình làm giàu và tách Omega-3,6,9 bằng
dung môi sâu đã tổng hợp.
* Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Tìm ra phương pháp tách và làm giàu Omega-3,6,9 có trong
mỡ phụ phẩm của quá trình chế biến cá basa bằng dung môi sâu cho
hàm lượng omega cao. Tận dụng một cách có hiệu quả nguồn phụ
phẩm trong chế biến xuất khẩu cá basa ở vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long. Góp phần nâng cao giá trị kinh tế của con cá và bảo vệ môi
trường, hướng nghiên cứu này khá mới và có giá trị học thuật cao.
Do ở Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu tách và làm giàu
Omega-3,6,9 từ mỡ của nguồn phế thải trong quá trình chế biến cá
basa xuất khẩu bằng dung môi sâu.
4
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược về chất lỏng ion
1.2. Dung môi sâu-DES (deep eutectic solvent) thế hệ chất lỏng
ion mới
1.2.1. Sơ lược về sự hình thành phát triển và ứng dụng của DES
Trong những năm đầu của thế kỷ 20, một hệ chất lỏng ion
mới dựa trên hỗn hợp của muối amoni bậc bốn (2-hydroxyethyl
trimethyl amoni cloride) với một số chất tạo liên kết hydro như
amide, glycol hoặc acid carboxylic (mono-diacid) để tạo thành một
dung môi có khả năng hòa tan nhiều muối và oxit kim loại, giá thành
thấp và dễ tái chế hoặc tự phân hủy mà không gây ô nhiễm môi trường.
Chất lỏng ion mới này được gọi là DES (deep eutectic
solvent). Những công bố đầu tiên về hệ chất lỏng ion này là của
Abbott và cộng sự từ những năm 2001. Để làm nổi bật sự quan tâm
ngày càng tăng của DES là dung môi xanh, C. Andrew và các tác giả
đã tìm kiếm thông qua cơ sở dữ liệu trích dẫn của Web of Science
Citation Database với nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực
DES. Khi các hợp chất cấu thành DES là các chất chính, như aminoacid,
acid hữu cơ, đường hoặc dẫn xuất choline, thì DES được gọi là dung
môi eutectic sâu tự nhiên (NADES). Khi xem xét về tính chất hóa lý,
NADES có đầy đủ các đặc trưng của nguyên tắc hóa học xanh.
1.2.2. Cơ sở khoa học của các hệ DES
Theo Abbott [64], một muối hữu cơ rắn và một tác nhân tạo
phức khi trộn theo tỷ lệ phù hợp và đun nóng sẽ tạo ra chất lỏng có
điểm đóng băng thấp hơn các thành phần riêng lẻ. Ngoài ra, nhiệt độ
của hỗn hợp eutectic nằm dưới điểm sôi của nước. Việc hạ thấp điểm
đóng băng là kết quả của sự tương tác liên kết hydro giữa tác nhân
5
tạo phức và muối hữu cơ. Liên kết hydro là một liên kết rất yếu được
hình thành bởi lực hút tĩnh điện giữa hydro (đã liên kết trong 1 phân
tử) với 1 nguyên tử có độ âm điện mạnh có kích thước bé (N,O, F...)
ở một phân tử khác hoặc trong cùng một phân tử. Liên kết hydro có
thể hình thành giữa các phân tử hoặc trong cùng nội bộ 1 phân tử
1.3. Sơ lược về cá basa, cá tra ở Việt Nam và hàm lượng Omega-
3,6,9 trong cá
1.3.1. Giới thiệu về cá basa, cá tra
1.3.2. Trữ lượng cá basa, cá tra và hàm lượng omega trong cá
1.4. Giá trị và ứng dụng của Omega-3,6,9 trong cuộc sống
1.4.1. Những nghiên cứu về mặt dược lý của omega đối với con người
1.4.2. Giới thiệu về chất béo
1.4.3. Phân loại aicd béo
1.4.4. Giới thiệu về omega
1.5. Một số phương pháp tách chiết Omega-3,6,9 hiện có trong
nghiên cứu và sản xuất
Phương pháp sắc ký, phương pháp chưng cất và enzyme, kết tinh nhiệt độ thấp hoặc kết tủa urea phức, chất lỏng siêu tới hạn. Việt Nam có một số công trình nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả kinh
tế của quá trình chế biến cá da trơn cũng như các phế phẩm chế biến
từ cá đã được thực hiện như: phản ứng thủy phân và kết tủa bằng
urea để thu nhận các acid béo chưa bão hòa, sử dụng phương pháp
kết tinh phân đoạn ở nhiệt độ thấp thu hàm lượng Omega-3 là 22,8-
24,05% [109,110], phương pháp thủy giải lipid trong môi trường
kiềm và kết tủa urea để thu được các acid béo gồm acid béo bão hòa
và acid béo chưa bão hòa với hàm lượng omega 24,5% [111]. Cũng
có các tác giả [112] sử dụng dung môi truyền thống để chiết omega
từ mỡ cá basa và thực hiện phương pháp transester hóa để phân tích
6
và xác định thành phần của chúng. Nhìn chung các công bố này chỉ
mới mang tính chất thăm dò, chưa có công trình nghiên cứu tách các
hợp chất Omega-3,6,9 khỏi hỗn hợp acid béo của mỡ cá basa và cá
tra bằng dung môi sâu.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất, nguyên liệu, dụng cụ tiến hành thí nghiệm
2.2. Chuẩn bị nguyên liệu của cá basa, cá tra
2.2.1. Qui trình xử lý nguyên liệu
Nguyên liệu cá basa, cá tra thu từ nhà máy chế biến thủy sản
ở Đồng Tháp, sau khi mang về được rửa sạch và để ráo nước, sau đó
được tiến hành xẻ thịt theo qui trình của nhà máy sản xuất thủy sản
xuất khẩu, thu được 3 phần: Phần mỡ nguyên sinh, thịt (phile) và các
phần còn lại (da, đầu, mình, nội tạng…) gộp chung là phụ phẩm
trong bảng. Chúng tôi thực hiện ba lần cho các qui trình xẻ thịt để
xác định trọng lượng trung bình.
Cá tra
Cá basa
Trọng lượng
Tỷ lệ
Trọng lượng
Tỷ lệ
STT
Thành phần
(gam)
(%)
(gam)
(%)
1 Mỡ nguyên chất
50
2,3
106
6,06
2
Thịt (phile)
816
37,1
615
35,14
3
Phụ phẩm
1334
60,6
1029
58,8
Tổng
2200
100
1750
100
Bảng 2.2. Thành phần nguyên liệu ban đầu từ cá basa, cá tra
2.2.2. Phương pháp chiết acid béo từ phụ phẩm
Phần phụ phẩm được thêm nước và đun sôi trong 60 phút, để
nguội và làm lạnh. Tách phần mỡ thu được từ phụ phẩm và tiến hành
chiết xuất nối tiếp lần lượt với hệ dung môi n-hexane-methanol.
7
Methyl hóa: Cao thu được sau chiết xuất được tiến hành methyl hóa
với methanol và xúc tác là acid sulfuaric đặc với tỷ lệ Cao/
Methanol/Xúc tác là 50gam/100gam/1gam. Quá trình ester hóa được
tiến hành trong bình thủy tinh 200 ml, có gắn sinh hàn hồi lưu trong thời gian 3 giờ ở điều kiện khuấy và gia nhiệt đến 60 oC bằng thiết bị từ tính. Sản phẩm được tiến hành cô quay chân không ở 35 oC để loại
bớt methanol dư, sau đó rửa nhiều lần bằng nước cất và làm khan
bằng Na2SO4. Mẫu được tiến hành phân tích GC/FID để xác định
thành phần hóa học và được giữ nguyên cho các nghiên cứu tách
Omega-3,6,9 sau này.
2.3. Các hệ DES đã tổng hợp và sử dụng trong luận án
Các hệ DES đã được tổng hợp sử dụng để làm giàu và tách
Omega-3,6,9 từ mỡ phế thải của quá trình chế biến cá basa Việt Nam
được giới thiệu trong bảng sau
Hệ DES
Tỷ lệ khối lượng (g/g)
Methanol/Urea (Mẫu 1, Mẫu 2, Mẫu 3, Mẫu 4)
1:(0,14; 0,2 ; 0,23; 0,25)
Choline chloride/urea (Ch/U)
1:1
Choline chloride/methylurea (Ch/MU)
1:1
Choline chloride/thiourea (Ch/Thi)
1:1
Choline chloride/methylthiourea (Ch/MThi)
1:1
Ethylene glycol/ 2-pentylbenzimidazole (EG/Benz-C5)
10:1,5
Ethylene glycol/ 2-heptylbenzimidazole (EG/Benz-C7)
10:1,5
Ethylene glycol/ 2-octylbenzimidazole (EG/Benz-C8)
10:1,5
Ethylene glycol/ 2-nonylbenzimidazole (EG/Benz-C9)
10:1,5
Bảng 2.3. Tỷ lệ khối lượng tổng hợp các mẫu DES
2.4. Tổng hợp DES trên cơ sở choline chloride/urea và các đồng đẳng
Phương pháp tổng hợp các chất lỏng dạng DES trên cơ sở
choline chloride được áp dụng như sau: Choline chloride và urea
8
được cho vào cốc thủy tinh chịu nhiệt đặt trên bếp khuấy từ có gia nhiệt theo tỷ lệ 1:1, 2:1 và 1:2 về khối lượng và đun nóng ở 60-70 oC
có khuấy cho đến khi thu được một chất lỏng đồng nhất. Thực
nghiệm cho thấy, chỉ có mẫu với tỷ lệ khối lượng choline chloride/
urea là 1:1 và 2:1, sau khi để nguội vẫn giữ trạng thái lỏng. Còn mẫu
1:2 (urea nhiều hơn) bị kết tinh trở lại. Vì vậy chúng tôi chỉ sử dụng
mẫu có tỷ lệ 1:1 trong các nghiên cứu tiếp theo đối với đồng đẳng
của urea là methylurea, thiourea, methylthiourea (tỷ lệ chung là 1:1).
2.5. Tổng hợp 2-alkylbenzimidazole và hệ DES (ethylene glycol/
benzimidazole)
2.5.1. Tổng hợp 2-alkylbenzimidazole
Phản ứng thực hiện giữa o-phenylenediamine và carboxylic
acid tỉ lệ 1:2. Lượng xúc tác đưa vào là 10% trọng lượng các chất
tham gia phản ứng. Cho dòng khí argon vào để đuổi không khí ra
khỏi bình phản ứng. Thực hiện phản ứng ở áp suất 6-8 atm, nhiệt độ 180 oC có khuấy từ.
2.5.2. Kết hợp ethylene glycol với alkylbenzimidazole để tạo thành
hệ DES
Hệ dung môi ethylenglycol/alkylbenzimidazole với tỷ lệ từ 10-
25 gam/100 ml ethylenglycol đã được thử nghiệm sơ bộ. Kết quả cho
thấy không có nhiều sự khác biệt trong khả năng tách và làm giàu
omega. Tuy nhiên khả năng thu hồi alkylbenzimidazole của tỷ lệ
15gam/100ml ethylenglycol là tốt nhất. Sự hao hụt của alkylbenzi-
midazole nằm dưới 10%.
9
2.6. Phương pháp phân tích thành phần hóa học của nguyên liệu
và sản phẩm
2.6.1. Phân tích các hợp chất omega bằng phương pháp GC-FID
2.6.2. Các phương pháp phân tích cấu trúc của DES: FTIR,
GC/MS, NMR, TGA, DSC
2.6.3. Các phương pháp xác định các tính chất cơ lý của DES.
2.6.4. Phương pháp tính toán hiệu suất
2.7. Phương pháp chiết và tách Omega-3,6,9 khỏi acid béo
2.7.1. Thiết bị và kỹ thuật thực hiện tách Omega-3,6,9 khỏi acid
Methyl ester của acid béo, methanol,
DES được cho vào bình phản ứng khuấy liên tục và đun nóng ở nhiệt độ 45 oC. Khi hỗn hợp trở
nên đồng nhất, được làm mát và sau đó làm lạnh ở 4 oC trong 8 giờ. Hỗn hợp thu được tạo thành
hai lớp: lớp trên là chất lỏng, lớp dưới là phần
rắn. Rửa phần rắn bằng
methanol lạnh. Kết hợp dung dịch rửa này vào lớp chất lỏng ban đầu,
làm bay hơi methanol trong thiết bị bay hơi chân không và làm khan.
2.7.2. Tỷ lệ các chất tham gia phản ứng tách omega
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả chiết acid béo trong từng bộ phận của cá basa, cá tra
3.1.1. Kết quả chiết xuất mỡ nguyên sinh
3.1.2. Kết quả chiết xuất thịt cá (phile)
3.1.3. Kết quả chiết xuất mỡ cá thu từ phụ phẩm
Cá basa từ 1029 gam phụ phẩm thu được sau khi thực hiện
phile theo quy trình của nhà máy sản xuất thủy sản xuất khẩu, cho
thêm nước vào nấu và làm lạnh thu được 86,11 gam mỡ nổi (chiếm
10
8,37% từ tổng phụ phẩm). Tương tự với cá tra từ 1334 gam phụ
phẩm, thu được 163 gam mỡ nổi, chiếm 12,22%.
Sản phẩm mỡ thu
STT
Cá tra (gam) Cá basa (gam)
từ phụ phẩm
1
Cao acid béo
153,69
75,34
2
Bả thải cuối
9,24
8,023
3
Thất thoát
0,07
2,74
Tổng
163,00
86,11
Bảng 3.3. Kết quả chiết xuất mỡ thu từ phụ phẩm
Phần thịt (phile) dùng cho xuất khẩu chỉ nằm ở mức 35-37%.
Acid béo trong thịt của hai loại cá gần như bằng nhau và bằng 19,8%.
Phụ phẩm-phần không thể xuất khẩu chiếm khá lớn 59-61%. Sau khi
xử lý, phần mỡ thu hồi từ phụ phẩm của cá tra là 12,22%, còn của cá
basa là 8,37%. Lượng acid béo trong mỡ thu hồi của cá tra là 94,29%
trong khi của cá basa là 87,49%.
3.2. Kết quả phân tích và định danh các hợp chất chiết từ cá
basa, cá tra
3.2.1. Kết quả phân tích và định danh dịch chiết mỡ nguyên sinh
3.2.2. Kết quả phân tích và định danh dịch chiết thịt (phile)
3.2.3. Kết quả phân tích và định danh dịch chiết mỡ của phụ phẩm
STT
Mỡ từ phụ phẩm
Cá tra (gam) Cá basa (gam)
Omega-3,6,9
1
77,98
38,56
Acid béo khác
2
59.28
34,19
Tổng triglycerides
3
5,06
1,78
Không xác định được
4
11,38
0,81
5
75,34
Tổng cao sau chiết xuất
153,69
Bảng 3.6. Sản phẩm của dịch chiết mỡ từ phụ phẩm
11
Hàm lượng các acid béo dạng Omega-3,6,9 trong mỡ từ phụ
phẩm của cá tra là 47,84 %, trong khi đó của cá basa là 44,78 %. Tỷ
lệ này của các bộ phận khác của cả hai loại cá đều nằm ở giới hạn cao
từ 27-34%. Tỷ lệ Omega-3 và Omega-6 trên tổng omega của mỡ
nguyên sinh của cá basa đạt 92,26% chứng minh giá trị dinh dưỡng.
3.2.4. Kết luận về nguyên liệu
Hàm lượng các hợp chất Omega-3,6,9 trong các bộ phận của
cá tra và cá basa khá cao, đặc biệt là Omega-3 và Omega-6. Hơn nữa
trong phần phụ phẩm của hai loại cá này có chứa nhiều hợp chất acid
béo dạng omega.
3.2.5. Methyl ester của nguyên liệu (mỡ phụ phẩm của cá basa)
Cao acid béo được tiến hành phản ứng ester hóa để chuyển thành methyl ester (methanol/acid béo = 3/1, nhiệt độ 65 oC, thời gian 3 giờ trong điều kiện khuấy mạnh).
STT
Acid béo
Cao chiết (%) Methyl ester (%)
1
Acid béo bão hòa
31,37
35,58
2
Acid béo chưa bão hòa
2,85
3,35
3
Omega-3,6,9
59,15
56,97
4
Không xác định được
6,63
4,12
Tổng
100
100
Bảng 3.10. Hàm lượng các hợp chất trước và sau khi ester hóa
Thành phần hoá học của mẫu sau khi tách và phản ứng ester
hóa với methanol không khác biệt đáng kể. Tổng hàm lượng Omega-
3,6,9 trong nguyên liệu là khoảng 57%; 39% là acid béo không phải
là acid béo dạng Omega-3,6,9; 4% là các chất không xác định. Thành
phần hóa học của methyl ester nguyên liệu trong bảng 3.11 sau đây
12
sẽ được dùng cho các nghiên cứu tách và làm giàu Omega-3,6,9 khi
sử dụng các chất lỏng ion đã tổng hợp.
Methyl ester
Dạng acid
Tên của các dạng acid béo trong metyl ester
(%)
Myristic acid (14:0)
1,96
Palmitic acid(16:0)
26,55
Acid bão hòa
Stearic acid (18:0)
6,78
Arachidic acid(20:0)
0,29
Acid chưa
Palmitoleic acid (16:1)
3,35
bão hòa
α-Linolenic acid (ALA) 18:3 (n-3)
0,46
Eicosatrienoic acid 20:3 (n-3)
0,15
Omega-3
Eicosapentaenoic acid (EPA) 20:5 (n-3)
0,42
Docosahexaenoic acid (DHA) 22:6 (n-3) và
0,63
Nervonic acid 24:1 (n-9)
Linoleic acid (LA) 18:2 (n-6)
12,41
γ-Linolenic acid (GLA) 18:3 (n-6)
1,05
Omega-6
Eicosadienoic acid 20:2 (n-6)
0,55
Eicosatrienoic acid 20:3 (n-6)
0,18
Arachidonic acid (AA) 20:4 (n-6)
0,48
Oleic acid 18:1 (n-9)
40,21
Omega-9
Eicosenoic acid 20:1 (n-9)
0,42
Tổng acid béo
95,89
Không xác định và thất thoát
4,11
Tổng
100
Bảng 3.11. Thành phần hóa học của các acid béo trong methyl ester
13
3.3. Kết quả tổng hợp DES trên cơ sở choline chloride với urea
và các đồng đẳng
3.3.1. Kết quả phân tích FTIR và TGA
3.3.1.1. Choline chloride với urea
FTIR νmax (KBr) cm-1: của urea 3352, 3442 cm-1 (N-H), 1667 cm-1 (C=O) của amide, 1457 cm-1 (C-N), của choline chloride 3376 cm-1 (O-H), 3019, 2956 và 2907 cm-1 (-CH2, -CH3), 1087, 1347, 1478 cm-1 của (C-O), 1643, 1206 cm-1 (C-N), của choline chloride/urea đều
có các vân hấp thu tương ứng của urea và choline chloride. Tuy
nhiên, mũi đôi của NH2 của urea đã chuyển thành mũi đơn do hydro của nhóm NH2 tạo liên kết hydro với anion Cl- nên làm tín hiệu này thay đổi. Ngoài ra, số sóng của nhóm OH trong choline chloride ở số sóng 3376 cm-1 đã bị dịch chuyển về vùng thấp hơn tại 3347 cm1-. Độ bền nhiệt của hỗn hợp choline chloride với urea cũng đã được kiểm tra bằng giản đồ phân tích nhiệt TGA là dưới 200 oC.
3.3.1.2. Choline chloride với methylurea
FTIR νmax (KBr) cm-1: của choline chloride 3376 cm-1 (O-H), 3019, 2956 và 2907 cm-1 (-CH2, -CH3), 1087, 1347, 1478 cm-1 của (C-O), 1643, 1206 cm-1 (C-N), của methylurea 3344 cm-1 (N-H), 2915 cm-1 (H-Csp3), 1655 cm-1 (C=O) của amide, 1353, 1171 cm-1
(C-N), của Choline chloride với methylurea đều có các vân hấp thu
tương ứng của methylurea và choline chloride. Tuy nhiên, số sóng của nhóm -OH trong choline chloride ở số sóng 3376 cm-1 đã bị dịch chuyển về vùng thấp hơn tại 3362 cm1-. Độ bền nhiệt của hỗn hợp
choline chloride với methylurea cũng đã được kiểm tra bằng giản đồ phân tích nhiệt là dưới 200 oC.
3.3.1.3. Choline chloride với thiourea
FTIR νmax (KBr) cm-1: của choline chloride 3376 cm-1 (O-H),
14
3019, 2956 và 2907 cm-1 (-CH2, -CH3), 1087, 1347, 1478 cm-1 của (C-O), 1643, 1206 cm-1 (C-N), của thiourea, 3376 và 1618 cm-1 (N- H), 1207 cm-1 (C=S thiocarbonyl), 1413, 1084 cm-1 (C-N). 2686 cm-1
(S-H), của choline chloride với thiourea đều có các vân hấp thu tương
ứng của thiourea và choline chloride. Tuy nhiên, số sóng của nhóm O-H trong choline chloride ở số sóng 3376 cm-1 đã bị dịch chuyển về vùng thấp hơn tại 3361 cm-1 và cường độ tín hiệu tại 2694 của nối S-
H bị giảm mạnh. Bằng giản đồ phân tích nhiệt TGA cho thấy độ bền nhiệt của hỗn hợp choline chloride với thiourea dưới 214 oC.
3.3.1.4. Choline chloride với methyl thiourea
FTIR νmax (KBr) cm-1: của choline chloride 3376 cm-1 (O-H), 3019, 2956 và 2907 cm-1 (-CH2, -CH3), 1087, 1347, 1478 cm-1 của (C-O), 1643, 1206 cm-1 (C-N), của methyl thiourea 3325 và 1636 cm-1 (N-H), 1302 cm-1 (C=S thiocarbonyl), 2863 cm-1 (H-Csp3), 1489, 1059 cm-1 (C-N), của Choline chloride với methyl thiourea đều có
các vân hấp thu tương ứng của methyl thiourea và choline chloride.
Tuy nhiên, số sóng của nhóm O-H trong choline chloride ở số sóng 3376 cm-1 đã bị dịch chuyển về vùng thấp hơn tại 3324 cm-1. Bằng giản đồ phân tích nhiệt TGA cho thấy độ bền nhiệt của hỗn hợp dưới 214 oC. 3.3.2. Tính chất vật lý của các mẫu DES trên cơ sở choline chloride
3.4. Kết quả tổng hợp 2-alkylbenzimidazole và hệ ethylene glycol/
benzimidazole
3.4.1. Kết quả phân tích hợp chất dạng 2-alkylbenzimidazole
3.4.1.1. 2-Pentylbenzimidazole
Phương pháp GC/MS cho kết quả sau: 188, 174, 160, 159,
146, 145, 133, 132 (100%), 131, 118, 92. 77, 63, 41. So với phổ dữ
liệu NIST với 10 pic lớn: 132, 145, 188, 146, 159, 133, 131, 77, 63, 41.
15
FTIR νmax (KBr) cm-1: 3082 (N-H), 2953 (C-H), 2774,
1H-NMR (CDCl3, 500 MHz, , ppm) cho mũi cộng hưởng của proton δH 12,25 (1H, brs, N-H) và các mũi cộng hưởng tín hiệu
2734, 1539 (C=N), 1420, 1272(C-N), 1021, 751.
proton của hydrocarbon thơm δH 7,60 (2H, dd, J1 = 6,0 Hz, J2 = 3 Hz,
H-4, 7); 7,24 (2H, dd, J1 = 6,0 Hz, J2 = 3,2 H-5, 6). Đồng thời phổ 1H-NMR cho các mũi cộng hưởng với sự hiện diện proton của 4
nhóm methylene δH 3,03 (2H, t, J1 = 8 Hz, J2 = 7,5 Hz, H-1’); 1,91
(2H, m, H-2’); 1,36 (2H, dt, J1 = 6,5 Hz, J2 = 3 Hz, H-3’); 1,27 (2H,
dt, J1 = 7Hz, J2 = 7 Hz, H-4’) và 1 nhóm methyl δH 0,82 (3H, t, J1 = 7 Hz, J2 = 7,5 Hz, H-5’). 13C-NMR (CDCl3, 125 MHz, , ppm) xuất hiện các tín hiệu cho thấy sự hiện diện của 5C dây alkyl béo δC =
31,4 (C-1’), 29,1 (C-2’), 28,0 (C-3’), 22,3 (C-4’), 13,8 (C-5’); các
carbon của vòng hydrocarbon thơm C = 138,1 (C-3a,7a), 122,2 (C-5,
6), 114,5 (C-4, 7). Bên cạnh đó có tín hiệu của C mang nối đôi C =
155,7 (C-2).
3.4.1.2. 2-heptylbenzimidazole
Phương pháp GC/MS cho kết quả sau: 216, 201, 187, 173,
160, 159, 146, 145, 133, 132, 131, 118, 92. 77, 63, 41. Đối chiếu với
phổ dữ liệu NIST 10 pic lớn: 132, 145, 131, 187, 146, 216, 159, 133,
77, 63, 41.
FTIR νmax (KBr) cm-1: 3086 (N-H), 2954, 2927 (C-H),
1H-NMR (CDCl3, 500 MHz, , ppm) cho mũi cộng hưởng của proton δH 12,86 (1H, brs, N-H) và các mũi cộng hưởng của tín
2740, 1541 (C=N), 1449, 1423, 1273 (C-N), 1028, 751.
hiệu proton của hydrocarbon thơm δH 7,63 (2H, dd, J1 = 3 Hz, J2 = 3
Hz, H-4, 7); 7,27 (2H, dd, J1 = 3 Hz, J2 = 3 Hz, H- 5, 6). Đồng thời phổ 1H-NMR cho các mũi cộng hưởng với sự hiện diện 6 nhóm
16
methylene δH 3,08 (2H, t, J1 = 7,5 Hz, J2 = 8 Hz, H-1’); 1,95 (2H, m,
H-2’); 1,4 (2H, m, H-3’); 1,23 (6H, m, H-4’,5’,6’) và 1 nhóm methyl δH 0,85 (3H, t, J1 = 7 Hz, J2 = 7 Hz, H-7’). 13C-NMR (CDCl3, 125 MHz, , ppm) xuất hiện các tín hiệu cho thấy sự hiện diện của 7C
dây alkyl béo δC = 31,6 (C-1’), 29,3 (C-2’), 29,2 (C-3’), 28,9( C-4’),
28,5 (C-5’), 22,5 (C-6’), 13,9 (C-7’); các carbon của vòng
hydrocarbon thơm C = 138,4 (C-3a,7a), 122,0 (C-5, 6), 114,5 (C-4,
7). Bên cạnh đó có tín hiệu của C mang nối đôi C = 156 (C-2). 3.4.1.3. 2-Octylbenzimidazole
Phương pháp GC/MS cho kết quả: 230, 215, 201, 187, 173,
146, 145, 132, 131, 118, 92, 77, 63, 41. Đối chiếu với NIST 10 pic
lớn: 230, 215, 201, 187, 159, 146, 145 , 132 ,131, 83, 41.
FTIR νmax (KBr) cm-1: 2927, 2856 (C-H), 2677, 1538
1H-NMR (CDCl3, 500 MHz, , ppm) cho mũi cộng hưởng của proton δH 11,87 (1H, brs, N-H); các proton ở = 7,58 (2H, dd, J1
(C=N), 1436, 1419, 1273 (C-N), 1002, 840, 752.
= 3 Hz, J2 = 3 Hz, H-4, 7); và = 7,23 (2H, dd, J1 = 3 Hz, J2 = 3 Hz,
H-5, 6); proton H-1’ ở = 3,02 (2H, t, J1 = 8 Hz, J2 = 7,5 Hz, H-1’);
các proton H-8’ ở = 1,9 (2H, m, H-2’); = 1,36 (2H, m, H-3’); =
1,2 (8H, m, H-4’, 5’, 6’, 7’); = 0,84 (3H, t, J1 = 7 Hz, J2 = 7 Hz, H- 8’). 13C-NMR (CDCl3, 125 MHz, , ppm): xuất hiện các tín hiệu cho
thấy sự hiện diện của 8C dây alkyl béo C = 31,7 (C-1’), 29,3 (C-2’),
29,2 (C-3’), 29,1( C-4’), 28,4 (C-5’, 6’), 22,5 (C-7’), 13,9 (C-8’); các
carbon của vòng hydrocarbon thơm C= 138,2 (C-3a), 138,1 (C-7a),
122,0 (C-5, 6), 114,5 (C-4, 7). Bên cạnh đó có tín hiệu của C mang nối đôi C = 156 (C-2).
17
3.4.1.4. 2-Nonylbenzimidazole
Phương pháp GC/MS cho kết quả: 244, 229, 215, 201, 187,
173, 160, 159, 146, 145, 133, 132 (100%), 131, 118, 92. 77, 63, 41.
Đối chiếu với NIST 10 pic lớn:132, 145, 244, 187, 146, 131,
201,118, 77,41.
FTIR νmax (KBr) cm-1: 3088 (N-H), 2926, 2853 (C-H), 2771,
1H-NMR (CDCl3, 500 MHz, , ppm) cho mũi cộng hưởng của proton δH 12,32 (1H, brs, N-H) và các mũi cộng hưởng tín hiệu
1542 (C=N), 1454, 1422, 1272 (C-N), 1028, 752.
proton của hydrocarbon thơm δH 7,6 (2H, dd, J1 = 3,5 Hz, J2 = 3 Hz,
H-4, 7); 7,24 (2H, dd, J1 = 3 Hz, J2 = 3 Hz, H-5, 6). Đồng thời các
proton ở δH 3,04 (2H, t, J1 = 8 Hz, J2 = 7,5 Hz, H-1’); 1,92 (2H, m,
H-2’); 1,37 (2H, m, H-3’); 1,24 (10H, m, H-4’, 5’, 6’, 7’, 8’); 0,87 (3H, t, J1 = 7 Hz, J2 = 7,5 Hz, H-9’). 13C-NMR (CDCl3, 125 MHz, ,
ppm) xuất hiện các tín hiệu cho thấy sự hiện diện của 9C dây alkyl
béo δC = 31,8 (C-1’), 29,4 (C-2’, 3’), 29,3 (C-4’), 29,2( C-5’), 28,4
(C-6’,7’), 22,5 (C-8’), 14,1 (C-9’); các carbon của vòng hydrocarbon
thơm C = 138,1 (C-3a, 7a), 122,3 (C-5, 6), 114,5 (C-4, 7). Bên cạnh
đó có tín hiệu của C mang nối đôi C = 156 (C-2).
3.4.2. Hệ dung dịch ethylene glycol/alkylbenzimidazole
2-Alkylbenzimidazole là những chất rắn, có điểm nóng chảy
của 2-pentylbenzimidazole, 2-heptylbenzimidazole, 2-octylbenzi- midazole, 2-nonylbenzimidazole lần lượt: 167 oC, 150 oC, 143 oC và 133 oC tương ứng. Vì vậy, để sử dụng trong tách chiết omega, chúng
tôi phải sử dụng hệ dung dịch ethylene glycol/benzimidazole với tỷ lệ
10/1,5 (1,5 gam 2-alkylbenzimidazole hòa tan trong 10 gam EG)
3.5. Kết quả làm giàu và tách Omega-3,6,9 khỏi hỗn hợp acid béo
dạng methyl ester của nguyên liệu bằng dung môi sâu (DES)
18
3.5.1. Tách và làm giàu Omega-3,6,9 bằng hệ methanol/urea
3.5.1.1. Kết quả làm giàu của hệ methanol/urea sau khi khuấy trộn
với methyl ester
3.5.1.2. Kết quả tách pha và thành phần hóa học phần lỏng của
methanol/urea
Kết quả cho thấy nồng độ urea trong dung dịch DES ở mức
0,2 g/ml cho hiệu quả tạo thành phần lỏng tốt nhất 36%. Khi nồng độ
urea tăng lên thì phần lỏng giảm. Trong khi đó nồng độ urea trong
dung dịch thấp hơn 0,2g/ml, hiệu quả tạo thành phần lỏng cũng
không cao (23% khi nồng độ urea là 0,143 g/ml).
ME
Mẫu 1
Mẫu 2
Mẫu 3
Mẫu 4
Dạng
acid
%
gam
%
gam
%
gam
%
gam
%
gam
FA
35,58 7,12 12,58 0,58
6,08
0,44
8,13
0,47
9,48
0,47
UFA
3,35
0,67
2,55
0,12
2,67
0,19
3,12
0,18
2,47
0,13
Omega-3
1,66
0,33
3,32
0,15
4,26
0,31
3,91
0,23
3,86
0,19
Omega-6 14,67 2,93 45,88 2,11 31,25 2,25 32,76 1,90 31,69 1,58
Omega-9 40,63 8,13 31,35 1,44 53,20 3,83 49,08 2,85 49,50 2,48
KXĐ
4,11
0,82
4,32
0,20
2,54
0,18
3,0
0,17
3,0
0,15
&TT
Tổng
100
20
100
4,6
100
7,2
100
5,8
100
5,0
Bảng 3.18. Khối lượng sản phẩm lỏng sau chiết
Hệ dung môi có nồng độ urea là 0,2g/ml cho hiệu suất tách
tốt nhất và hàm lượng các chất như EPA tăng 2 lần, DHA tăng 3 lần.
Tóm lại:
1. Khi cho urea trực tiếp tạo phức với methyl ester của các
acid béo sẽ xảy ra hiện tượng urea làm thay đổi cấu trúc của các acid
béo này. Trong khi sử dụng urea ở dạng dung môi sâu với nồng độ
19
urea bằng ½ điểm bảo hòa có thể tách được Omega-3,6,9 ra khỏi acid
béo với độ sạch tới 88,71%, với hiệu suất 36% cho một lần tách.
2. Các chất như ETA và EPA đều có hàm lượng cao hơn
nguyên liệu ban đầu từ 1,5 đến 3 lần. Đặc biệt ở mẫu 2 hàm lượng
DHA tăng 3 lần. Tổng Omega-3 chiếm 5% trong hỗn hợp Omega-
3,6,9 đã tách ra.
3. Khi sử dụng dung môi sâu dạng methanol và urea với
nồng độ cao hơn hoặc thấp hơn 0,2 g/ml hiệu quả tách các hợp chất
giảm và hàm lượng omega cũng giảm.
3.5.2. Tách và làm giàu Omega-3,6,9 bằng hệ choline chloride
3.5.2.1. Kết quả làm giàu của các hệ choline chloride/urea và đồng đẳng
3.5.2.2. Kết quả tách pha và thành phần hóa học phần lỏng của các
hệ choline chloride/urea và đồng đẳng
Hiệu quả tách của hệ choline chloride/urea và choline
chloride /methyl urea đạt 17 và 18% tương ứng. Hai hệ dung môi còn
lại nằm trong khoảng 14%.
ME
Ch/U
Ch/ MU
Ch/Thi
Ch/MThi
Dạng acid
gam
%
gam
%
gam
%
gam
%
gam
%
FA
7,12
35,58
0,11
3,29
1,49 41,32 1,07
37,57
0,80
29,00
UFA
3,35
0,08
2,36
0,11
3,19
0,05
1,82
0,09
3,58
0,67
Omega-3
1,66
0,15
4,34
0,19
5,37
0,22
7,47
0,57
20,54
0,37
Omega-6
2,89
14,67
1,10
33,40 0,55 15,26 0,49
17,40
1,01
36,67
Omega-9
8,13
40,63
1,76
53,29 1,12 30,99 0,90
31,79
0,26
9,23
KXĐ và TT
0,82
4,11
0,10
3,32
0,14
3,87
0,11
3,95
0,03
0,98
Tổng ME
20
100
3,30
100
3,60
100
2,84
100
2,76
100
Tổng
11,39
56,96
3,01
91,03 1,86 51,62 1,61
56,66
1,84
66,44
Omega-3,6,9
Bảng 3.25. Khối lượng sản phẩm lỏng sau tách của hệ choline chloride
20
Mặc dù tổng Omega-3,6,9 của hệ dung môi choline chloride
và urea sau khi phối trộn giảm xuống ½ so với nguyên liệu ban đầu,
nhưng 50% lượng Omega-3,6,9 có trong hỗn hợp đã được tách ra với
hàm lượng lên đến 91%. Các dung môi khác, tuy có hàm lượng
Omega-3,6,9 cao hơn gấp 2 lần so với hệ choline chloride và urea,
nhưng chỉ tách được khoảng 15% và hàm lượng Omega-3,6,9 trong
phần tách chỉ đạt 51-66%.
Tóm lại
1. Hệ choline chloride/urea (và các đồng đẳng) không làm thay
đổi nhiều cấu trúc của các hợp chất trong methyl ester, nhưng khả
năng tách Omega-3,6,9 cao, đặc biệt hệ choline chloride/urea với
hiệu quả tách pha là 16,5% và hàm lượng Omega-3,6,9 lên đến 91%.
2. Hiệu suất tách acid béo bão hòa và acid béo chưa bão hòa
trên 96%.
3. Hàm lượng ALA, EPA, DHA tổng lên đến 20% trong sản
phẩm lỏng được tách ra.
3.5.3. Tách và làm giàu Omega-3,6,9 bằng hệ ethylene
glycol/benzimidazole
3.5.3.1. Kết quả làm giàu của các hệ ethylene glycol/benzimidazole
3.5.3.2. Kết quả tách pha và thành phần hóa học phần lỏng của các
hệ ethylene glycol/benzimidazole
- Hiệu suất tách và làm giàu omega của các alkylbenzimi-
dazole chỉ nằm ở mức 15% trên nguyên liệu trong một lần thực hiện.
- Acid béo bão hòa trong phần lỏng giảm đáng kể, đặc biệt là
khi sử dụng 2-pentylbenzimidazole, 2-heptylbenzimidazole và 2-
octylbenzimidazole nhưng hàm lượng vẫn còn cao (từ 13-24% tùy
thuộc mạch alkyl). Các acid béo bão hòa và acid béo chưa bão hòa
còn khá cao gần 10%, riêng hệ EG/Benz-C9 còn 20%.
21
- Hàm lượng Omega-3,6,9 trong dung dịch tách ra không
cao, chỉ đạt 87% đối với EG/ Benz-C5, Benz-C7, Benz-C8 và 76%
với EG/ Benz-C9.
ME
Benz-C5
Benz-C7
Benz-C8
Benz-C9
Dạng acid
gam
%
gam
%
gam
%
%
gam
%
gam
FA
7,12
35,58
0,23
7,56
0,18
5,74
6,18
0,51 16,86
0,19
UFA
0,67
3,35
0,11
3,65
0,11
3,41
3,59
0,15
4,86
0,11
Omega-3
0,37
1,66
0,82
27,66
0,73
23,64
31,93 1,43 47,16
0,99
Omega-6
2,89
14,67
0,08
2,82
0,04
1,26
1,33
0,54 17,63
0,04
Omega-9
8,13
40,63
1,69
56,59
1,93
62,31
53,68 0,34 11,10
1,66
KXĐ và TT
0,82
4,11
0,05
1,72
0,11
3,64
3,29
0,07
2,39
0,11
Tổng ME
20
100
2,98
100
3,10
100
100
3,04
100
3,10
Omega-3,6,9
11,39 56,96
2,59
87,07
2,7
87,21
86,94 2,31 75,89
2,69
Bảng 3.32. Khối lượng sản phẩm lỏng sau chiết tách của hệ EG/Benz
Tóm lại: Hệ dung môi sâu này có hiệu suất tách các acid béo bão hòa
và acid béo chưa bão hòa cao tương đương các hệ trên đây, nhưng
hiệu suất tách các acid béo omega thấp. Đối với Omega-3, cao nhất
hệ EG/Benz-C8 có thể đạt hiệu suất 20%, còn các hệ khác chỉ khoảng
15-17%. Tuy nhiên, hệ này đã làm cho lượng Omega-3 mà chủ yếu là
α-Linolenic acid (ALA) tăng đáng kể lên đến 41% (8 gam trên 20
gam ME) sau khi phối trộn và khuấy. Điều đáng tiếc là khả năng tách
Omega-3 ra khỏi dung dịch không cao. Cần thiết phải có những
nghiên cứu tiếp để phối hợp các hệ, vừa có khả năng tạo ra nhiều
Omega-3, vừa có thể tách chúng với hiệu suất cao hơn.
3.6. So sánh và đánh giá hiệu quả làm giàu Omega-3,6,9 của các
hệ dung môi sâu
3.6.1. Khả năng làm giàu Omega-3,6,9 khi chưa tách
22
Để làm giàu Omega-3,6,9 được thực hiện 2 giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu là phối trộn và khuấy các thành phần ở nhiệt độ thấp
cho đến khi hỗn hợp đồng nhất. Giai đoạn tiếp theo là để nguội ở nhiệt độ phòng sau đó làm lạnh đến 4 oC trong 8 giờ, sau giai đoạn này hỗn hợp tách làm 2 lớp.
Hình 3.40. Một số khả năng hình thành α-Linolenic acid
Hệ methanol/urea (mẫu 2): Sau khi khuấy trộn, hàm lượng
acid béo bão hòa và acid béo chưa bão hòa giảm một cách đáng ngạc
nhiên là 6,77 gam. Trong khi đó Omega-3,6,9 tăng tổng cộng là
6,89 gam
Hệ choline chloride/urea (các đồng đẳng khác) không ảnh
hưởng nhiều đến thành phần hóa học của methyl ester nguyên liệu.
Một số thay đổi tăng giảm khối lượng các chất nhưng không nhiều.
23
Hệ ethylene glycol/benzimidazole đã làm giàu Omega-3 đáng
kể. Sự chuyển đổi sang Omega-3 chủ yếu đi từ Omega-6 và Omega-9.
Acid béo bão hòa và acid béo chưa bão hòa trong các hệ EG/Benz-C5,
EG/Benz-C7, EG/Benz-C8 chỉ chuyển đổi từ 26% đến 28% và 30%
tương ứng, EG/Benz-C9 hầu như không chuyển đổi acid béo bão hòa
và acid béo chưa bão hòa.
3.6.2. Khả năng tách pha (lỏng và rắn)
Ngoại trừ hệ methanol/urea (mẫu 2) có hiệu quả tách pha tốt
nhất. Các hệ khác chỉ nằm trong khoảng 15-18% cho một lần tách.
Mặc dù hệ choline chloride/urea chỉ nằm trong khoảng 16,5%, nhưng
tổng Omega-3,6,9 trong hệ này cao nhất 91%.
Hình 3.41. Tỷ lệ tách thành pha lỏng của các hệ DES
1-Methanol/Urea(M2);2-Ch/U; 3-Ch/MU; 4-Ch/Thi;
5-Ch/MThi; 6-EG/BC5; 7-EG/BC7; 8-EG/BC8; 9-EG/BC9
3.6.3. Khả năng tách các hợp chất trong phần lỏng
Ngoại trừ hệ methanol/urea, các hệ DES khác đều có thể tách
acid béo bão hòa từ 80-96%, riêng hệ Ch/U có thể đạt 99%. Hiệu suất
tách các hợp chất Omega-3,6,9 của các hệ DES căn cứ vào khối
lượng sinh ra khi khuấy trộn với khối lượng tách ra từ phần lỏng.
24
Omega-3
Omega-6
Omega-9
Hệ DES
HS (%)
HS (%)
HS (%)
Hình thành (g)
Tách ra (g)
Hình thành (g)
Tách ra (g)
Hình thành (g)
Tách ra (g)
M-1
0,64
0,15
23,44
9,2
2,11
22,94
6,28
1,44
22,93
M-2
0,86
0,31
36,05
6,68
2,25
33,68 10,74
3,83
35,66
M-3
0,78
0,23
29,48
6,95
1,90
27,34 10,54
2,85
27,04
M-4
0,88
0,19
21,59
7,63
1,58
20,70 10,14
2,48
24,46
Ch/U
0,23
0,15
65,21
1,87
1,10
58,82
4,01
1,76
43,89
Ch/MU
0,64
0,19
29,69
3,01
0,55
18,27
8,12
1,12
13,79
Ch/Thi
0,63
0,22
34,92
2,89
0,49
16,96
8,23
0,90
10,94
Ch/MThi
0,91
0,57
62,64
3,51
1,01
28,77
6,94
0,26
3,75
EG/BC-5
4,76
0,82
17,22
1,52
0,08
5,26
7,00
1,69
24,14
EG/BC-7
5,05
0,73
14,45
1,49
0,04
2,68
7,23
1,93
26,69
EG/BC-8
5,07
0,99
19,52
1,40
0,04
2,86
6,72
1,66
24,70
EG/BC-9
8,22
1,43
17,40
1,80
0,54
30,00
1,68
0,34
20,24
Bảng 3.38. Hiệu suất tách Omega-3,6,9 trong phần lỏng
Các hệ khác có chứa urea tách pha, khi urea gặp lạnh sẽ kết
tinh và kéo theo sự đóng rắn của các acid béo tạo phức hoặc liên kết
với urea. Trong vấn đề này, hiện tượng mầm tinh thể đóng vai trò
quan trọng. Trong một hỗn hợp, đặc biệt là hỗn hợp có chứa các
“solvat”, một bộ phận tạo mầm tinh thể sẽ kéo những phần khác theo
lớp bao bọc bên ngoài, từ rắn đến nữa rắn. Theo thời gian trong điều
kiện nhiệt độ thấp, bộ phận này kết lại và tách khỏi những thành phần
không phải là “solvat”. Cơ chế này giúp cho các hệ có chứa choline
chloride và urea kéo acid béo bão hòa, acid béo chưa bão hòa cũng
như một phần acid béo khác vào phần rắn.
25
3.6.4. So sánh chất lượng Omega-3 tách ra trong sản phẩm lỏng
Omega-3 trong sản phẩm tách ra từ các hệ DES chủ yếu là
ETA, ALA, EPA, DHA. Với hàm lượng thường xuyên ở mức ≤ 2%.
Riêng trường hợp sử dụng hệ ethylene glycol/benzimidazole hàm
lượng ALA tăng khá cao từ 20-44%.
Hình 3.46. Cơ cấu Omega-3 trong phần lỏng của các hệ DES
3.6.5. Kết luận chung về các hệ DES
Hệ methanol/urea là hệ đơn giản, rẻ tiền nhưng hàm lượng
Omega-3,6,9 sau khi tách chỉ đạt 80 đến 88%.
Các hệ ethylene glycol/benzimidazole cho hàm lượng
Omega-3 khá cao (23-47%), tuy nhiên tổng Omega-3,6,9 chỉ đạt cao
nhất là 87% và giá thành cũng như khâu chuẩn bị khá phức tạp và tốn
kém. Trong các dung môi sâu của hệ choline chloride/urea và các
đồng đẳng của urea, thì hệ choline chloride/urea tách tốt nhất với
hàm lượng Omega-3,6,9 đến 91%.
26
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu về nguyên liệu
- Đã sử dụng dung môi truyền thống để chiết acid béo từ các
bộ phận của cá basa, cá tra. Phần thịt dùng cho xuất khẩu chỉ nằm ở
mức 35-37%. Phụ phẩm chiếm khá lớn 59-61%. Sau khi xử lý, phần
mỡ thu hồi từ phụ phẩm của cá tra là 12,22%, còn của cá basa là
8,37%. Lượng acid béo trong mỡ thu hồi của cá tra là 94,29% trong
khi của cá basa là 87,49%.
- Đã định danh các hợp chất omega trong mỡ nguyên sinh,
thịt và mỡ từ phụ phẩm của basa, cá tra. Hàm lượng Omega-3,6,9
trong phần phụ phẩm của cá basa, cá tra là 5,13% và 6,12%. Nguyên
liệu sử dụng cho việc tách và làm giàu Omega-3,6,9 trong phụ phẩm
của qui trình chế biến cá basa xuất khẩu dạng methylester gồm: acid
béo bão hòa: 35,58%; acid béo chưa bão hòa: 3,35%; Omega-3:
1,66%; Omega-6: 14,67% ; Omega-9: 40,63%.
2. Tổng hợp thành công các hệ dung môi sâu (DES)
- Đã tổng hợp thành công hệ dung môi methanol/urea với các
nồng độ (g/ml) 0,143; 0,2; 0,23; 0,26.
- Đã tổng hợp thành công hệ dung môi trên cơ sở choline
chloride gồm choline chloride/urea và các đồng đẳng (metylurea;
thiourea và methylthiourea).
- Đã tổng hợp thành công các chất dạng 2-alkylbenzimi-
dazole (2-pentylben-zimidazole; 2-heptylbenzimidazole; 2-octylben-
zimidazole và 2-nonylbenzimida-zole). Từ các hợp chất 2-alkylben-
zimidazole, đã tạo các hệ dung môi sâu dạng ethylene glycol/ben-
zimidazole bao gồm EG/Benz-C5, EG/ Benz-C7, EG/ Benz-C8 và
EG/ Benz-C9.
27
3. Sử dụng các hệ dung môi sâu đã tổng hợp được để tách và làm
giàu omega-3,6,9 từ mỡ phế phải cá basa
- Đã sử dụng 3 hệ dung môi sâu tổng hợp để làm giàu và tách
Omega-3,6,9 ra khỏi methylester nguyên liệu. Hiệu suất tách đạt từ
15-36% cho một lần tách với hàm lượng Omega-3,6,9 đạt từ 52-91%
tùy thuộc hệ DES.
4. So sánh khả năng làm giàu và tách omega của các hệ DES
- Hệ methanol/urea (mẫu 2) có hiệu quả tách pha tốt nhất 36%.
Các hệ khác chỉ nằm trong khoảng 15-18% cho một lần tách. Tuy
nhiên, đối với hệ choline chloride/urea chỉ nằm trong khoảng 16,5%,
nhưng hàm lượng Omega-3,6,9 trong hệ này cao từ 57% nguyên liệu
lên 91% đây là điểm mới. Các hệ DES khác đều có thể tách acid béo
bão hòa từ 80-96%, riêng hệ choline chloride/urea đạt 99%.
- Hàm lượng Omega-3,6,9 khi tách ra của hệ methanol/urea là
80-88%. Của hệ choline chloride/urea là 91%, còn các đồng đẳng
(metylurea; thiourea và methylthiourea) là 51-66%. Của hệ ethylene
glycol/benzimidazole là 76 đến 87%. Đặc biệt đối với EG/Benz-C9 hệ
dung môi sâu này đã làm cho hàm lượng α-Linolenic acid (ALA)18:3
(n-3) (một dạng Omega-3 khá quan trọng) tăng lên cao đến 44%.
28
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
a/ Về mặt khoa học
- Đã nghiên cứu tổng hợp thành công 3 hệ dung môi sâu và
lần đầu tiên ứng dụng vào việc làm giàu và tách Omega-3,6,9 từ
nguồn phụ phẩm của quá trình chế biến xuất khẩu cá basa ở Đồng
Tháp.
- Một điểm mới là việc sử dụng hệ dung môi sâu ethylene
glycol /benzimi-dazole cho thấy hệ này làm cho hàm lượng α-
Linolenic acid (ALA)18:3 (n-3) (một dạng Omega-3 khá quan trọng)
tăng lên 44%.
- Việc dùng các hệ dung môi sâu dạng DES để tách và làm
giàu Omega-3,6,9 từ mỡ phế thải của quá trình chế biến xuất khẩu cá
basa cho hàm lượng Omega-3,6,9 đạt hơn 90% và hàm lượng
Omega-3,6 trong sản phẩm tách ra từ 22 - 47%.
b/ Về mặt kinh tế
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 100 tấn cá basa, ta chỉ
xuất khẩu được khoảng 37 tấn thịt phile, 63 tấn còn lại là phụ phẩm
chỉ dùng làm thức ăn gia súc. Nếu chế biến 63 tấn phụ phẩm này theo
qui trình công nghệ của chúng tôi, ta thu được 5,1 tấn mỡ, trong đó
có khoảng 2,7 tấn là acid béo dạng Omega-3,6,9 có độ sạch 91%; 2,4
tấn methyl ester của các dạng acid béo khác có thể dùng làm
biodiesel và 57,9 tấn bả thải cuối cùng làm thức ăn gia súc. Ngoài ra,
đây là giải pháp tốt cho việc xử lý môi trường tại các nhà máy chế
biến thủy sản trong tương lai.
29
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Thanh Xuan Le Thi, Hoai Lam Tran, Thanh Son Cu, and Son Lam
Ho, Separation and Enrichment of Omega 3, 6, and 9 Fatty Acids
from the By-Products of Vietnamese Basa Fish Processing using
Deep Eutectic Solvent, Journal of Chemistry Hindawi, 2018,
doi.org/10.1155/2018/6276832, IF=1.75.
2. Bằng độc quyền giải pháp hữu ích Số 2419, Quy trình tách và làm
giàu axit béo dạng Omega-3,6,9 từ mỡ của nguồn phế thải trong
chế biến cá basa xuất khẩu bằng chất lỏng ion dạng DES (Deep
Eutectic Solvent). Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam, Quyết định số
11375w/QĐ-SHTT ngày 12/08/2020.
3. Lê Thị Thanh Xuan, Nguyen Minh Thao, Cu Thanh Son, Ho Son
Lam, Survey composition and content of Omega-3,6,9,extracted
from catfish at mekong delta vietnam by extraction method with
the traditional solvents, Journal of Chemistry Viet Nam, 2017,
5e34, 55, 551-556.
4. Lê Thị Thanh Xuân, Lê Thị Hoa Xuân, Cù Thành Sơn, Hồ Sơn
Lâm, Xác định thành phần hàm lượng Omega-3,6,9 của cá basa-
tra ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Tạp chí hóa học và ứng dụng,
2018, 4, 59-63.
5. Lê Thị Thanh Xuân, Nghiên cứu tổng hợp một số chất lỏng ion
dạng 2-alkylbenzimidazole, Tạp chí phân tích Hóa-Lý và Sinh
học, 24, 113-117, 2019.