Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
<br />
TỔNG QUAN CÁC CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ<br />
TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU CHO NGƯỜI BỆNH THẦN KINH CƠ<br />
Nguyễn Thanh Duy*, Julie Gahimer**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đo lường và đánh giá là thành phần quan trọng trong điều trị vật lý trị liệu cho người bệnh có các bệnh lý<br />
thần kinh. Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường được chuẩn hóa. Mục tiêu bài viêt nhằm giới<br />
thiệu các thử nghiệm được khuyến nghị bởi cục khám chữa bệnh – Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa<br />
Kỳ (American Physical Therapy Association; APTA). Nội dung bài viết bao gồm khái quát cách thức đo lường,<br />
lưu ý khi áp dụng vào lâm sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu trên thế giới cho nhóm người bệnh<br />
thần kinh cơ như tai biến mạch máu não, Parkinson, và người cao tuổi. Nhằm giúp nhân viên y tế có cơ sở tham<br />
khảo và ứng dụng trên lâm sàng để có cái nhìn khách quan, xác định vấn đề cụ thể mang tính chức năng và<br />
chứng minh hiệu quả của phương pháp tập luyện của mình nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao chất lượng công<br />
tác khám chữa bệnh.<br />
Từ khóa: vật lý trị liệu thần kinh cơ, công cụ đo lường chuẩn hóa, giá trị bình thường<br />
ABSTRACT<br />
OVERVIEW OF RECOMMENDED STANDARD OUTCOME MEASURES IN NEUROLOGICAL<br />
PHYSICAL THERAPY<br />
Nguyen Thanh Duy, Julie Gahimer<br />
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 26 – 33<br />
<br />
Evaluation and assessment are important components of physiotherapy for patients with neurological<br />
diseases. Currently, there are many standardized outcome measures in the world. The aim of the article is to<br />
introduce standard outcome measures that are recommended by the Medical Services Administration-Vietnam<br />
Ministry of Health and The American Physical Therapy Association (APTA). The paper includes an overview of<br />
measurement methods, clinical considerations, and reference values from worldwide studies for a group of<br />
neuromuscular patients such as cerebrovascular accident, Parkinson’s disease, and the elderly people. In order to<br />
help health care professional have criteria for reference in apprising in daily practice, have an objective perspective,<br />
identify specific functional issues and prove the effectiveness of interventions, consequently improving the quality<br />
of medical assessment and treatment.<br />
Keywords: neurological physical therapy, standard outcome measure, normative data<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ trong các bệnh lý thần kinh cơ như đột qụy,<br />
Parkinson, xơ cứng rải rác. Tuy nhiên, nhược<br />
Đo lường và đánh giá là thành phần quan điểm của phương pháp này là không đánh giá<br />
trọng trong các chương trình điều trị nói chung được những khiếm khuyết, và không phản ánh<br />
và chương trình vật lý trị liệu nói riêng. Từ lâu,<br />
sự tiến bộ hay giúp đề ra mục tiêu phù hợp cho<br />
phương pháp đánh giá sức mạnh cơ, mức độ co người bệnh. Do đó, một nhóm các phương pháp<br />
cứng cơ, và đo tầm vận động được sử dụng phổ đo lường mới được ra đời và được chuẩn hóa để<br />
biến trong thực hành đánh giá người bệnh có thực hiện trên nhóm người bệnh này(8). Mục tiêu<br />
vấn đề gãy xương, cứng khớp sau bất động và cả<br />
*Bộ môn Vật lý trị liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Đại học Indianapolis - Hoa Kỳ<br />
Tác giả liên lạc: ThS Nguyễn Thanh Duy ĐT: 0973017123 Email: thduypt@ump.edu.vn<br />
<br />
<br />
26 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
bài viêt nhằm giới thiệu các thử nghiệm đo mức độ chức năng, khả năng hay sự tiến bộ<br />
lường đã được chuẩn hóa và được khuyến nghị trong tương lai. Người khám cần xác định rõ “tôi<br />
sử dụng theo hướng dẫn cục khám chữa bệnh – muốn thay đổi điều gì?” Câu trả lời sẽ là gợi ý<br />
Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa Kỳ cho việc lựa chọn loại công cụ đo lường. Ví dụ,<br />
(American Physical Therapy Asociation; khi đánh giá hiệu quả chương trình phục hồi<br />
APTA)(14). Nội dung trình bày bao gồm khái quát chức năng (PHCN) toàn diện ở người đột quỵ<br />
cách thức đo lường, lưu ý khi áp dụng vào lâm thì dùng chỉ số Barthel; nhưng thang này không<br />
sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu nhạy với những thay đổi nhỏ trong thăng bằng<br />
trên thế giới cho nhóm người bệnh thần kinh cơ. ngồi, đứng của người bệnh nặng trong giai đoạn<br />
ĐÁNH GIÁ TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU đầu của bệnh. Chỉ số Barthel đo sự thay đổi toàn<br />
diện. mỗi sự cải thiện trong này cho thấy có sự<br />
BỆNH THẦN KINH CƠ<br />
thay đổi đáng kể. nhưng với những người bệnh<br />
Trong khi đo lường là dùng những biện bị nặng, những công cụ đơn giản đo lường thăng<br />
pháp để lượng hóa và cung cấp số liệu thì đánh bằng tĩnh khi ngồi và sau này là thăng bằng<br />
giá là giải thích diễn dịch dữ liệu đó. Đo lường, thông qua hoạt động đứng lên và đi là phù hợp.<br />
đánh giá có vai trò quan trọng vì những lý do Tương tự, khi tập để giảm nguy cơ té ngã cho<br />
sau: Xác định các vấn đề cụ thể của người bệnh người bệnh Parkinson, đánh giá té ngã hay<br />
mà các phương pháp điều trị có thể cải thiện thăng bằng trong các tác vụ/hoạt động liên quan<br />
được. Việc này cần kiến thức về sự thực hiện của nguy cơ ngã của một người sẽ phù hợp hơn việc<br />
người khỏe mạnh cùng độ tuổi, cùng giới để từ đo tốc độ đi. Cần lưu ý rằng tùy theo giai đoạn<br />
đó xây dựng một mục tiêu hướng đến. Đo lường bệnh mà cần có những công cụ đo lường khác<br />
giúp xác định sự thay đổi, khả năng thực hiện nhau. Độ nhạy để phát hiện sự khác biệt, thay<br />
hoạt động theo thời gian (cần thực hiện sự đo đổi (tốt hơn hoặc xấu hơn) là rất quan trọng<br />
lường này trên người bệnh nhiều lần trong cùng trong việc lựa chọn công cụ nào để đo.<br />
một điều kiện). Với người bệnh tiến triển nặng<br />
Do mức độ phổ biến của bệnh lý và tần suất<br />
theo thời gian, đo lường khách quan giúp cho<br />
gặp các dạng bệnh nay tại các khoa VLTL tại các<br />
quá trình ra quyết định và trao đổi giữa các bên<br />
bệnh viện đa khoa các tuyến, người viết chỉ lựa<br />
liên quan về việc cung cấp xe lăn, khung đi, hay<br />
chọn số liệu liên quan người bệnh đột quỵ- tai<br />
kế hoạch trong tương lai được cụ thể hơn. Cung<br />
biến mạch máu não (TBMMN), chấn thương sọ<br />
cấp thông tin cho người điều trị biết liệu phương<br />
não (CTSN), Parkinson, và giá trị trên người<br />
pháp điều trị có hiệu quả không, và làm căn cứ<br />
bình thường để có thể tham khảo trong trường<br />
để tiếp tục hay thay đổi cách thức/chiến lược<br />
hợp không có nghiên cứu tương ứng ở nhóm<br />
điều trị. Cung cấp thông tin cho đơn vị chi trả, lý<br />
bệnh nhân mà người đọc quan tâm. Công cụ đo<br />
giải cho việc tiếp tục điều trị vì trong nhiều<br />
lường được giới thiệu trong bài này bao gồm:<br />
trường hợp, việc điều trị chỉ tiếp diễn khi chỉ ra<br />
Thang đo lường thăng bằng Berg (Berg Balance<br />
được hiệu quả của việc điều trị. Đo lường còn<br />
Scale -BBS); Thử nghiệm đứng lên và đi (Time<br />
giúp so sánh giữa chi phí và hiệu quả của việc<br />
Up and Go Test-TUG); Thử nghiệm đi bộ 10 mét<br />
can thiệp, hoặc giúp so sánh hai phương pháp<br />
(10-metre walk test-10MWT); Thử nghiệm đi bộ<br />
điều trị, hoặc chi phí bỏ ra để mang lại hiệu quả<br />
6 phút (6 -minute walk test- 6MWT); Thang đánh<br />
mong muốn(8).<br />
giá chức năng đi (Functional Gait Assessment-<br />
Tuy nhiên, người làm lâm sàng cần xác định FGA); Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng (5<br />
mục tiêu đo lường để làm gì? Xét về mục đích Times Sit-to-Stand; 5xSTS); Thang điểm mức độ<br />
đo, cần chọn lựa phương pháp đo phù hợp với tự tin về thăng bằng hoạt động (Activities-<br />
tình trạng của người bệnh và phản ánh được specific Balance Confidence - ABC). Tất cả công<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 27<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
cụ này đều không tốn phí, khi sử dụng chỉ cần thực hiện tốt được ngay cả mục ít thử thách nhất<br />
giấy và viết, dễ dàng thực hiện trên lâm sàng của thử nghiệm đó. Hoặc khi thử nghiệm không<br />
thời gian thực hiện từ 5-20 phút, đo lường về thể đo, hay phân định dưới một ngưỡng nào đó,<br />
mức độ hoạt động và vận động. Bảng 1 trình bày thường do các mục quá khó. Hiệu ứng trần<br />
mục đích của từng thử nghiệm, khía cạnh đánh (ceiling effect) xảy ra khi các mục của thử<br />
giả trên người bệnh, loại phương pháp đánh giá nghiệm quá “dễ”, hay không đủ mức độ thử<br />
và nhóm bệnh phù hợp với đánh giá này. Bảng 2 thách và người được đánh giá dễ dàng đạt<br />
nêu ra các giai đoạn bệnh của một số bệnh phổ được(10). Trong hai trường hợp này, người điều<br />
biến và khuyến nghị của Hội Vật lý trị liệu Hoa trị cần chọn những thang đo lường phù hợp khả<br />
Kỳ liệu có nên sử dụng từng thử nghiệm đó hay năng người bệnh để không gây thất vọng hay<br />
không(14). đánh giá đúng năng lực người bệnh. Các giá trị<br />
CÁC KHÁI NIỆM CHUNG phù hợp cho từng nhóm người bệnh của mỗi thử<br />
nghiệm được trình bày trong Bảng 3.<br />
Giá trị quy chuẩn (Giá trị quy chuẩn) là giá<br />
trị thông thường: được trình bày bằng giá trị THANG ĐO LƯỜNG THĂNG BẰNG<br />
trung bình và độ lệch chuẩn (mean(SD)). Người BERG (BERG BALANCE SCALE -BBS)<br />
đọc có thể biết khoảng tin cậy 95% của giá trị để Gồm 14 mục bao gồm các hoạt động tĩnh và<br />
biết giá trị của người bệnh của mình có trong động có độ khó khác nhau. Điểm số trong<br />
khoảng bình thường không (mean ± 1,96*SD). khoảng từ 0-4, được xác định bởi khả năng thực<br />
Ngoài ra còn có giá trị trung vị và khoảng biến hiện hoạt động. Điểm số sau đó được cộng tổng.<br />
thiên- KBT - range) với giá trị lớn nhất và nhỏ Điểm tối đa là 56. Cần có đồng hồ bấm giờ. Ghế<br />
nhất cũng cùng mục đích cho những giá trị tham có chiều cao tiêu chuẩn (46-50 cm) có tay vịn và<br />
chiếu không tuân theo luật phân phối chuẩn. một ghế không có tay vịn. Bục hoặc ghế thấp có<br />
Thay đổi nhỏ nhất phát hiện được (Minimal chiều cao trung bình (19,7-22,9 cm), thước, và<br />
Detecable Change-MDC) là khoảng thay đổi nhỏ dép hoặc giày(9).<br />
nhất trong điểm số mà đảm bảo rằng sự thay đổi Có một nhược điểm của BBS là mất nhiều<br />
này không phải do sai số đo lường. Khác biệt thời gian thực hiện so với các phương pháp<br />
nhỏ nhất ý nghĩa về mặt lâm sàng (Minimally đánh giá thăng bằng khác. Có thể sử dụng một<br />
Clinically Important Diferece-MCID) đại diện cách hạn chế với người bệnh Parkinson giai<br />
cho khoảng thay đổi nhỏ nhất trong kết cuộc mà đoạn Hoehn & Yahr 2-3, do hiệu ứng trần.<br />
có thể xem là quan trọng đối với người bệnh Bệnh nhân Parkinson ở giai đoạn Hoehn &<br />
hoặc với người điều trị. Khi có hai giá trị này, Yahr 4-5 sẽ không thể hoàn thành thử nghiệm<br />
người điều trị có thể đặt mục tiêu thay đổi ở mức do không thể không dùng thiết bị trợ giúp<br />
độ đủ lớn để có ý nghĩa về lâm sàng hay ít nhất trong quá trình thử nghiệm(1).<br />
là đạt thay đổi đủ để phát hiện là thay đổi thật.<br />
THỬ NGHIỆM ĐỨNG LÊN VÀ ĐI (TIME<br />
Điểm cắt (cut-off score) là điểm thấp nhất có<br />
UP AND GO TEST-TUG)<br />
thể trong bài thử nghiệm, kiểm tra, đánh giá mà<br />
đối tượng được thử cần đạt được để được xem là Thử nghiệm yêu cầu người bệnh ngồi trên<br />
đạt hay đủ chuẩn. Ở những người bệnh dưới giá ghế, lưng dựa vào ghế. Theo lệnh của người<br />
trị này, thông thường người bệnh có nguy cơ té khám, người bệnh đứng lên khỏi ghế, đi bộ 3<br />
ngã cao, người điều trị cần có những chiến lược mét với tốc độ thoải mái và an toàn, đi vòng lại<br />
tập luyện, phòng ngừa phù hợp. Hiệu ứng sàn trở lại và ngồi xuống. Tính thời gian bắt đầu từ<br />
(floor effect) xảy ra khi các mục của thử nghiệm lúc nói “đi” và dừng lại khi người bệnh hoàn tất<br />
quá khó khiến cho người được thử không thể việc ngồi. Các tác giả đã định lượng thử nghiệm<br />
<br />
<br />
<br />
28 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
bằng cách khuyến nghị thời gian (tính bằng nghiệm có thể được thực hiện ở tốc độ đi bộ ưa<br />
giây). Người bệnh nên thử thực hành một lần thích hoặc tốc độ nhanh nhất có thể (cần ghi chú<br />
mà không tính điểm và phải sử dụng cùng một là tốc độ ưa thích hay nhanh). Người đánh giá<br />
loại dụng cụ trợ giúp giữa mỗi lần kiểm tra để có nên đi sau ít nhất nửa bước để không ảnh hưởng<br />
thể so sánh. Cần có ghế tiêu chuẩn (cao khoảng đến tốc độ của người bệnh(14).<br />
46 cm) và đồng hồ bấm giờ(1). THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 6 PHÚT (6 -MINUTE<br />
Thử nghiệm TUG có thể có độ tin cậy thấp WALKTEST-6MWT)<br />
hơn ở những người bệnh bị suy giảm nhận thức.<br />
Mục tiêu của bài kiểm tra là khoảng cách<br />
Tính nội tin cậy (Intrarater) có thể bị ảnh hưởng<br />
người bệnh đi bộ trong 6 phút. Người bệnh có<br />
bởi khả năng thực hiện của đối tượng khi hoàn<br />
thể nghỉ bao nhiêu lần tùy thích, nhưng đồng hồ<br />
thành nhiều lần đánh giá cho thấy người bệnh<br />
bấm giờ vẫn tiếp tục chạy và ghi lại số lần nghỉ<br />
nhanh chóng làm quen với thử nghiệm này, thử<br />
ngơi và tổng thời gian nghỉ ngơi. Thiết bị hỗ trợ<br />
nghiệm đầu tiên ảnh hưởng đến thử nghiệm thứ<br />
có thể được sử dụng nhưng phải được ghi nhận.<br />
hai(1). Được thiết kế để thử nghiệm cho người đi<br />
Nếu một người bệnh cần hỗ trợ, chỉ nên cung<br />
bộ ở tốc độ thoải mái, nhưng đôi khi được thử<br />
cấp hỗ trợ tối thiểu cho người bệnh để hoàn<br />
nghiệm với việc đi bộ ở tốc độ “nhanh nhưng an<br />
thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ được<br />
toàn”. Trên lâm sàng, điều quan trọng là ghế<br />
ghi lại sẽ phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất trong quá<br />
đứng không dựa vào tường(10).<br />
trình thử nghiệm. Khi thực hiện, người khám<br />
THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 10 MÉT (10-METRE không đi bộ phía trước hoặc trực tiếp bên cạnh<br />
WALK TEST-10MWT) người bệnh, vì điều này có thể tạo nhịp cho<br />
Thử nghiệm yêu cầu người bệnh đi bộ một người bệnh và ảnh hưởng đến tốc độ và khoảng<br />
khoảng cách cho trước. Thời gian được đo trong cách họ đi. Thay vào đó, đi bộ ít nhất nửa bước<br />
khi đi khoảng cách đã định, thường thì người phía sau người bệnh. Cần có đồng hồ bấm giờ.<br />
bệnh được cho khoảng cách để tăng tốc đến tốc Bánh xe để đo khoảng cách - nếu có thể, ghế,<br />
độ đi bộ ưa thích của mình, khoảng cách này hành lang dài 12 m (15 m; 30 m); cần ghi chú<br />
không được gộp vào khi xác định tốc độ. Vận tốc quãng đường đo lường. Dấu (hình nón) để chỉ<br />
đi tính bằng khoảng cách đi chia cho thời gian đi nơi đi vòng qua.<br />
khoảng cách đó. Có nhiều biến thể của bài kiểm Cũng có thể áp dụng phương trình hồi quy<br />
tra này mặc dù bài kiểm tra 10 mét (10MWT) là đặc trưng cho giới giải thích 40% phương sai<br />
phổ biến nhất. Cần chuẩn bị đồng hồ bấm giờ, trong khoảng cách đi bộ ở người trưởng thành<br />
đường đi không có vật cản dài 6, 8, 10, 12 mét khỏe mạnh(20).<br />
tùy theo khoảng cách được kiểm tra(3). Nam: 6MWD = (7,57 x chiều cao cm) - (5,02 x<br />
Các dụng cụ hỗ trợ đi có thể được sử dụng tuổi) - (1,76 x cân nặng) -309.<br />
nhưng phải được ghi lại trong các lần thử Nữ: 6MWD = (2,11 x chiều cao cm) - (2,29 x<br />
nghiệm. Nếu người bệnh cần hỗ trợ, chỉ cung cân nặng kg) - (5,78 x tuổi) + 667.<br />
cấp sự hỗ trợ tối thiểu cho bệnh nhân để hoàn<br />
Nghiên cứu chứng minh thấy sự khác biệt<br />
thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ đã<br />
đáng kể tùy thuộc vào độ dài của quãng đường<br />
ghi lại phải phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất cần có<br />
được sử dụng. Yêu cầu người tham gia đi bộ trên<br />
trong quá trình thử nghiệm. Ví dụ, nếu một<br />
đường dài 10 mét, dẫn đến khoảng cách đi được<br />
người bệnh cần hỗ trợ tối thiểu cho phần lớn thử<br />
ngắn hơn so với khi được yêu cầu đi bộ trên<br />
nghiệm nhưng yêu cầu hỗ trợ trung bình để giữ<br />
đường 50 mét. Do đó, điều quan trọng là chuẩn<br />
thăng bằng trong một lần, bệnh nhân nên được<br />
hóa để theo dõi cho cả mục đích lâm sàng và<br />
đánh giá là cần hỗ trợ mức trung bình. Thử<br />
nghiên cứu. Các hướng dẫn của Hiệp hội Lồng<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 29<br />
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br />
<br />
ngực Hoa Kỳ cho thử nghiệm đi bộ sáu phút tư đường, cho phép thử nghiệm trong khu<br />
khuyên bạn nên sử dụng lối đi bộ 30 mét hoặc phố riêng của người bệnh sau khi xuất viện<br />
100 feet với chiều dài của hành lang được đánh sau điều trị nội trú. Những người mắc bệnh<br />
dấu mỗi 3 mét. Điểm quay vòng được đánh dấu Alzheimer từ trung bình đến nặng có thể bị<br />
bằng hình nón. Chống chỉ định người bị đau thắt suy giảm thăng bằng và cần hỗ trợ về thể chất<br />
ngực và nhồi máu cơ tim không ổn định trong để di chuyển. Một số cá nhân cũng có thể yêu<br />
vòng một tháng trước kể từ lúc thử nghiệm(25). cầu sử dụng một thiết bị hỗ trợ để đi bộ(14).<br />
Có thể sử dụng GPS smartphone cung cấp Người lượng giá có thể cần sử dụng trợ giúp<br />
kết quả tương tự như dùng bánh xe đo quãng thể chất và lời nói trong giai đoạn thử nghiệm<br />
đường và có thể thuận tiện hơn để người nếu người bệnh khó có khả năng tập trung<br />
khám hỗ trợ người bệnh nếu cần. Thử nghiệm hoặc gặp khó khăn trong việc hiểu hướng dẫn.<br />
ngoài trời trên đất bằng không bang qua ngã<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. (A) Thử nghiệm đứng lên và đi-TUG; (B) Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng – 5xSTS; (C) Thang đo<br />
lường thăng bằng Berg- BBS; (D) Thử nghiệm đi bộ 6 phút- 6MWT<br />
THANG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG ĐI mục được tính theo thang điểm từ 0 đến 3, với 0<br />
(FUNCTIONAL GAIT ASSESSMENT-FGA) = suy yếu/ khiếm khuyết nghiêm trọng; 1 =<br />
khiếm khuyết/ suy yếu trung bình; 2 = khiếm<br />
Thử nghiệm FGA có 10 mục đánh giá khả khuyết/ suy yếu nhẹ; 3 = bình thường. Điểm cao<br />
năng thực hiện các hoạt động bao gồm: đi trên nhất = 30. Việc đánh giá có thể được thực hiện có<br />
bề mặt bằng phẳng, thay đổi tốc độ đi, đi với đầu hoặc không có dụng cụ trợ giúp. Người bệnh<br />
quay ngang và dọc, đi với xoay thân 180°, bước nên đi mà không cần sự trợ giúp thể chất của<br />
qua chướng ngại vật, đi với chân đế hẹp, đi với người khác. Khi thực hiện các mục, người khám<br />
mắt nhắm, đi lùi và lên xuống cầu thang. Mỗi không đi phía trước hoặc ngay bên cạnh, vì điều<br />
<br />
<br />
30 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br />
<br />
này "tạo nhịp" cho người bệnh và có thể ảnh sát, trợ giúp trung bình, trợ giúp tối đa). Hướng<br />
hưởng đến tốc độ họ đi. Thay vào đó, đi ít nhất dẫn người bệnh đứng hoàn toàn giữa các lần lặp<br />
nửa bước phía sau(15). cử động và không chạm vào lưng ghế trong mỗi<br />
Cần có đồng hồ bấm giờ, dụng cụ đo để lần lặp. Nếu người bệnh có chạm vào lưng ghế<br />
đánh dấu khu vực. Khu vực đi bộ được đánh vẫn tiếp tục, nhưng không khuyến khích. Cố<br />
dấu: Chiều dài = 20 feet (6 mét); chiều rộng 12 gắng không nói chuyện với người bệnh trong<br />
inch (30,48 cm). Chướng ngại vật có chiều cao 9 khi kiểm tra vì có thể làm giảm tốc độ của người<br />
inch (22,86 cm) sử dụng ít nhất 2 hộp giày xếp bệnh. Nếu quan ngại người bệnh có thể mệt mỏi<br />
chồng lên nhau. Cầu thang có các bước cao 7,75 – với một lần thử trước, người khám có thể thị<br />
9 inch (20-23 cm) với tay vịn hai bên. Vị trí của phạm v và yêu cầu người bệnh thực hiện hai lần<br />
người khám không tạo ra sự khác biệt về tính lặp lại trước để đảm bảo họ hiểu các hướng dẫn.<br />
ngoại tin cậy. Sử dụng thuốc khi đánh giá FGA Được phép đặt chân thoải mái trong quá trình<br />
có thể dẫn đến một số điểm cắt (cut off) khác thử nghiệm. Cần ghế có chiều cao tiêu chuẩn<br />
nhau cho người bệnh Parkinson có nguy cơ bị (43-45 cm, 17-18 inch) với tựa lưng và đồng hồ<br />
ngã. Khi xem xét thời gian dùng thuốc cho người bấm giờ.<br />
bệnh Parkinson, có báo cáo rằng khả năng dự Người bị rối loạn thăng bằng thực hiện<br />
đoán té ngã trong thời gian thuộc hết hiệu lực 5xSTS chậm hơn nhóm chứng và thử nghiệm<br />
(off) tốt hơn so với trong thời gian thuốc có hiệu nhạy hơn trong dân số trẻ (