intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tổng quan các công cụ đo lường được khuyến nghị trong vật lý trị liệu cho người bệnh thần kinh cơ

Chia sẻ: Saobiendo Saobiendo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

76
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đo lường và đánh giá là thành phần quan trọng trong điều trị vật lý trị liệu cho người bệnh có các bệnh lý thần kinh. Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường được chuẩn hóa. Mục tiêu bài viêt nhằm giới thiệu các thử nghiệm được khuyến nghị bởi cục khám chữa bệnh – Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa Kỳ (American Physical Therapy Association; APTA). Nội dung bài viết bao gồm khái quát cách thức đo lường, lưu ý khi áp dụng vào lâm sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu trên thế giới cho nhóm người bệnh thần kinh cơ như tai biến mạch máu não, Parkinson, và người cao tuổi. Nhằm giúp nhân viên y tế có cơ sở tham khảo và ứng dụng trên lâm sàng để có cái nhìn khách quan, xác định vấn đề cụ thể mang tính chức năng và chứng minh hiệu quả của phương pháp tập luyện của mình nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tổng quan các công cụ đo lường được khuyến nghị trong vật lý trị liệu cho người bệnh thần kinh cơ

Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br /> <br /> <br /> TỔNG QUAN CÁC CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG ĐƯỢC KHUYẾN NGHỊ<br /> TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU CHO NGƯỜI BỆNH THẦN KINH CƠ<br /> Nguyễn Thanh Duy*, Julie Gahimer**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đo lường và đánh giá là thành phần quan trọng trong điều trị vật lý trị liệu cho người bệnh có các bệnh lý<br /> thần kinh. Hiện nay, trên thế giới có nhiều phương pháp đo lường được chuẩn hóa. Mục tiêu bài viêt nhằm giới<br /> thiệu các thử nghiệm được khuyến nghị bởi cục khám chữa bệnh – Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa<br /> Kỳ (American Physical Therapy Association; APTA). Nội dung bài viết bao gồm khái quát cách thức đo lường,<br /> lưu ý khi áp dụng vào lâm sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu trên thế giới cho nhóm người bệnh<br /> thần kinh cơ như tai biến mạch máu não, Parkinson, và người cao tuổi. Nhằm giúp nhân viên y tế có cơ sở tham<br /> khảo và ứng dụng trên lâm sàng để có cái nhìn khách quan, xác định vấn đề cụ thể mang tính chức năng và<br /> chứng minh hiệu quả của phương pháp tập luyện của mình nhằm mục tiêu cao nhất là nâng cao chất lượng công<br /> tác khám chữa bệnh.<br /> Từ khóa: vật lý trị liệu thần kinh cơ, công cụ đo lường chuẩn hóa, giá trị bình thường<br /> ABSTRACT<br /> OVERVIEW OF RECOMMENDED STANDARD OUTCOME MEASURES IN NEUROLOGICAL<br /> PHYSICAL THERAPY<br /> Nguyen Thanh Duy, Julie Gahimer<br /> * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 26 – 33<br /> <br /> Evaluation and assessment are important components of physiotherapy for patients with neurological<br /> diseases. Currently, there are many standardized outcome measures in the world. The aim of the article is to<br /> introduce standard outcome measures that are recommended by the Medical Services Administration-Vietnam<br /> Ministry of Health and The American Physical Therapy Association (APTA). The paper includes an overview of<br /> measurement methods, clinical considerations, and reference values from worldwide studies for a group of<br /> neuromuscular patients such as cerebrovascular accident, Parkinson’s disease, and the elderly people. In order to<br /> help health care professional have criteria for reference in apprising in daily practice, have an objective perspective,<br /> identify specific functional issues and prove the effectiveness of interventions, consequently improving the quality<br /> of medical assessment and treatment.<br /> Keywords: neurological physical therapy, standard outcome measure, normative data<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ trong các bệnh lý thần kinh cơ như đột qụy,<br /> Parkinson, xơ cứng rải rác. Tuy nhiên, nhược<br /> Đo lường và đánh giá là thành phần quan điểm của phương pháp này là không đánh giá<br /> trọng trong các chương trình điều trị nói chung được những khiếm khuyết, và không phản ánh<br /> và chương trình vật lý trị liệu nói riêng. Từ lâu,<br /> sự tiến bộ hay giúp đề ra mục tiêu phù hợp cho<br /> phương pháp đánh giá sức mạnh cơ, mức độ co người bệnh. Do đó, một nhóm các phương pháp<br /> cứng cơ, và đo tầm vận động được sử dụng phổ đo lường mới được ra đời và được chuẩn hóa để<br /> biến trong thực hành đánh giá người bệnh có thực hiện trên nhóm người bệnh này(8). Mục tiêu<br /> vấn đề gãy xương, cứng khớp sau bất động và cả<br /> *Bộ môn Vật lý trị liệu - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Đại học Indianapolis - Hoa Kỳ<br /> Tác giả liên lạc: ThS Nguyễn Thanh Duy ĐT: 0973017123 Email: thduypt@ump.edu.vn<br /> <br /> <br /> 26 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br /> <br /> bài viêt nhằm giới thiệu các thử nghiệm đo mức độ chức năng, khả năng hay sự tiến bộ<br /> lường đã được chuẩn hóa và được khuyến nghị trong tương lai. Người khám cần xác định rõ “tôi<br /> sử dụng theo hướng dẫn cục khám chữa bệnh – muốn thay đổi điều gì?” Câu trả lời sẽ là gợi ý<br /> Bộ Y Tế Việt Nam và Hội vật lý trị liệu Hoa Kỳ cho việc lựa chọn loại công cụ đo lường. Ví dụ,<br /> (American Physical Therapy Asociation; khi đánh giá hiệu quả chương trình phục hồi<br /> APTA)(14). Nội dung trình bày bao gồm khái quát chức năng (PHCN) toàn diện ở người đột quỵ<br /> cách thức đo lường, lưu ý khi áp dụng vào lâm thì dùng chỉ số Barthel; nhưng thang này không<br /> sàng, và các giá trị tham chiếu từ các nghiên cứu nhạy với những thay đổi nhỏ trong thăng bằng<br /> trên thế giới cho nhóm người bệnh thần kinh cơ. ngồi, đứng của người bệnh nặng trong giai đoạn<br /> ĐÁNH GIÁ TRONG VẬT LÝ TRỊ LIỆU đầu của bệnh. Chỉ số Barthel đo sự thay đổi toàn<br /> diện. mỗi sự cải thiện trong này cho thấy có sự<br /> BỆNH THẦN KINH CƠ<br /> thay đổi đáng kể. nhưng với những người bệnh<br /> Trong khi đo lường là dùng những biện bị nặng, những công cụ đơn giản đo lường thăng<br /> pháp để lượng hóa và cung cấp số liệu thì đánh bằng tĩnh khi ngồi và sau này là thăng bằng<br /> giá là giải thích diễn dịch dữ liệu đó. Đo lường, thông qua hoạt động đứng lên và đi là phù hợp.<br /> đánh giá có vai trò quan trọng vì những lý do Tương tự, khi tập để giảm nguy cơ té ngã cho<br /> sau: Xác định các vấn đề cụ thể của người bệnh người bệnh Parkinson, đánh giá té ngã hay<br /> mà các phương pháp điều trị có thể cải thiện thăng bằng trong các tác vụ/hoạt động liên quan<br /> được. Việc này cần kiến thức về sự thực hiện của nguy cơ ngã của một người sẽ phù hợp hơn việc<br /> người khỏe mạnh cùng độ tuổi, cùng giới để từ đo tốc độ đi. Cần lưu ý rằng tùy theo giai đoạn<br /> đó xây dựng một mục tiêu hướng đến. Đo lường bệnh mà cần có những công cụ đo lường khác<br /> giúp xác định sự thay đổi, khả năng thực hiện nhau. Độ nhạy để phát hiện sự khác biệt, thay<br /> hoạt động theo thời gian (cần thực hiện sự đo đổi (tốt hơn hoặc xấu hơn) là rất quan trọng<br /> lường này trên người bệnh nhiều lần trong cùng trong việc lựa chọn công cụ nào để đo.<br /> một điều kiện). Với người bệnh tiến triển nặng<br /> Do mức độ phổ biến của bệnh lý và tần suất<br /> theo thời gian, đo lường khách quan giúp cho<br /> gặp các dạng bệnh nay tại các khoa VLTL tại các<br /> quá trình ra quyết định và trao đổi giữa các bên<br /> bệnh viện đa khoa các tuyến, người viết chỉ lựa<br /> liên quan về việc cung cấp xe lăn, khung đi, hay<br /> chọn số liệu liên quan người bệnh đột quỵ- tai<br /> kế hoạch trong tương lai được cụ thể hơn. Cung<br /> biến mạch máu não (TBMMN), chấn thương sọ<br /> cấp thông tin cho người điều trị biết liệu phương<br /> não (CTSN), Parkinson, và giá trị trên người<br /> pháp điều trị có hiệu quả không, và làm căn cứ<br /> bình thường để có thể tham khảo trong trường<br /> để tiếp tục hay thay đổi cách thức/chiến lược<br /> hợp không có nghiên cứu tương ứng ở nhóm<br /> điều trị. Cung cấp thông tin cho đơn vị chi trả, lý<br /> bệnh nhân mà người đọc quan tâm. Công cụ đo<br /> giải cho việc tiếp tục điều trị vì trong nhiều<br /> lường được giới thiệu trong bài này bao gồm:<br /> trường hợp, việc điều trị chỉ tiếp diễn khi chỉ ra<br /> Thang đo lường thăng bằng Berg (Berg Balance<br /> được hiệu quả của việc điều trị. Đo lường còn<br /> Scale -BBS); Thử nghiệm đứng lên và đi (Time<br /> giúp so sánh giữa chi phí và hiệu quả của việc<br /> Up and Go Test-TUG); Thử nghiệm đi bộ 10 mét<br /> can thiệp, hoặc giúp so sánh hai phương pháp<br /> (10-metre walk test-10MWT); Thử nghiệm đi bộ<br /> điều trị, hoặc chi phí bỏ ra để mang lại hiệu quả<br /> 6 phút (6 -minute walk test- 6MWT); Thang đánh<br /> mong muốn(8).<br /> giá chức năng đi (Functional Gait Assessment-<br /> Tuy nhiên, người làm lâm sàng cần xác định FGA); Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng (5<br /> mục tiêu đo lường để làm gì? Xét về mục đích Times Sit-to-Stand; 5xSTS); Thang điểm mức độ<br /> đo, cần chọn lựa phương pháp đo phù hợp với tự tin về thăng bằng hoạt động (Activities-<br /> tình trạng của người bệnh và phản ánh được specific Balance Confidence - ABC). Tất cả công<br /> <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 27<br /> Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br /> <br /> cụ này đều không tốn phí, khi sử dụng chỉ cần thực hiện tốt được ngay cả mục ít thử thách nhất<br /> giấy và viết, dễ dàng thực hiện trên lâm sàng của thử nghiệm đó. Hoặc khi thử nghiệm không<br /> thời gian thực hiện từ 5-20 phút, đo lường về thể đo, hay phân định dưới một ngưỡng nào đó,<br /> mức độ hoạt động và vận động. Bảng 1 trình bày thường do các mục quá khó. Hiệu ứng trần<br /> mục đích của từng thử nghiệm, khía cạnh đánh (ceiling effect) xảy ra khi các mục của thử<br /> giả trên người bệnh, loại phương pháp đánh giá nghiệm quá “dễ”, hay không đủ mức độ thử<br /> và nhóm bệnh phù hợp với đánh giá này. Bảng 2 thách và người được đánh giá dễ dàng đạt<br /> nêu ra các giai đoạn bệnh của một số bệnh phổ được(10). Trong hai trường hợp này, người điều<br /> biến và khuyến nghị của Hội Vật lý trị liệu Hoa trị cần chọn những thang đo lường phù hợp khả<br /> Kỳ liệu có nên sử dụng từng thử nghiệm đó hay năng người bệnh để không gây thất vọng hay<br /> không(14). đánh giá đúng năng lực người bệnh. Các giá trị<br /> CÁC KHÁI NIỆM CHUNG phù hợp cho từng nhóm người bệnh của mỗi thử<br /> nghiệm được trình bày trong Bảng 3.<br /> Giá trị quy chuẩn (Giá trị quy chuẩn) là giá<br /> trị thông thường: được trình bày bằng giá trị THANG ĐO LƯỜNG THĂNG BẰNG<br /> trung bình và độ lệch chuẩn (mean(SD)). Người BERG (BERG BALANCE SCALE -BBS)<br /> đọc có thể biết khoảng tin cậy 95% của giá trị để Gồm 14 mục bao gồm các hoạt động tĩnh và<br /> biết giá trị của người bệnh của mình có trong động có độ khó khác nhau. Điểm số trong<br /> khoảng bình thường không (mean ± 1,96*SD). khoảng từ 0-4, được xác định bởi khả năng thực<br /> Ngoài ra còn có giá trị trung vị và khoảng biến hiện hoạt động. Điểm số sau đó được cộng tổng.<br /> thiên- KBT - range) với giá trị lớn nhất và nhỏ Điểm tối đa là 56. Cần có đồng hồ bấm giờ. Ghế<br /> nhất cũng cùng mục đích cho những giá trị tham có chiều cao tiêu chuẩn (46-50 cm) có tay vịn và<br /> chiếu không tuân theo luật phân phối chuẩn. một ghế không có tay vịn. Bục hoặc ghế thấp có<br /> Thay đổi nhỏ nhất phát hiện được (Minimal chiều cao trung bình (19,7-22,9 cm), thước, và<br /> Detecable Change-MDC) là khoảng thay đổi nhỏ dép hoặc giày(9).<br /> nhất trong điểm số mà đảm bảo rằng sự thay đổi Có một nhược điểm của BBS là mất nhiều<br /> này không phải do sai số đo lường. Khác biệt thời gian thực hiện so với các phương pháp<br /> nhỏ nhất ý nghĩa về mặt lâm sàng (Minimally đánh giá thăng bằng khác. Có thể sử dụng một<br /> Clinically Important Diferece-MCID) đại diện cách hạn chế với người bệnh Parkinson giai<br /> cho khoảng thay đổi nhỏ nhất trong kết cuộc mà đoạn Hoehn & Yahr 2-3, do hiệu ứng trần.<br /> có thể xem là quan trọng đối với người bệnh Bệnh nhân Parkinson ở giai đoạn Hoehn &<br /> hoặc với người điều trị. Khi có hai giá trị này, Yahr 4-5 sẽ không thể hoàn thành thử nghiệm<br /> người điều trị có thể đặt mục tiêu thay đổi ở mức do không thể không dùng thiết bị trợ giúp<br /> độ đủ lớn để có ý nghĩa về lâm sàng hay ít nhất trong quá trình thử nghiệm(1).<br /> là đạt thay đổi đủ để phát hiện là thay đổi thật.<br /> THỬ NGHIỆM ĐỨNG LÊN VÀ ĐI (TIME<br /> Điểm cắt (cut-off score) là điểm thấp nhất có<br /> UP AND GO TEST-TUG)<br /> thể trong bài thử nghiệm, kiểm tra, đánh giá mà<br /> đối tượng được thử cần đạt được để được xem là Thử nghiệm yêu cầu người bệnh ngồi trên<br /> đạt hay đủ chuẩn. Ở những người bệnh dưới giá ghế, lưng dựa vào ghế. Theo lệnh của người<br /> trị này, thông thường người bệnh có nguy cơ té khám, người bệnh đứng lên khỏi ghế, đi bộ 3<br /> ngã cao, người điều trị cần có những chiến lược mét với tốc độ thoải mái và an toàn, đi vòng lại<br /> tập luyện, phòng ngừa phù hợp. Hiệu ứng sàn trở lại và ngồi xuống. Tính thời gian bắt đầu từ<br /> (floor effect) xảy ra khi các mục của thử nghiệm lúc nói “đi” và dừng lại khi người bệnh hoàn tất<br /> quá khó khiến cho người được thử không thể việc ngồi. Các tác giả đã định lượng thử nghiệm<br /> <br /> <br /> <br /> 28 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br /> <br /> bằng cách khuyến nghị thời gian (tính bằng nghiệm có thể được thực hiện ở tốc độ đi bộ ưa<br /> giây). Người bệnh nên thử thực hành một lần thích hoặc tốc độ nhanh nhất có thể (cần ghi chú<br /> mà không tính điểm và phải sử dụng cùng một là tốc độ ưa thích hay nhanh). Người đánh giá<br /> loại dụng cụ trợ giúp giữa mỗi lần kiểm tra để có nên đi sau ít nhất nửa bước để không ảnh hưởng<br /> thể so sánh. Cần có ghế tiêu chuẩn (cao khoảng đến tốc độ của người bệnh(14).<br /> 46 cm) và đồng hồ bấm giờ(1). THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 6 PHÚT (6 -MINUTE<br /> Thử nghiệm TUG có thể có độ tin cậy thấp WALKTEST-6MWT)<br /> hơn ở những người bệnh bị suy giảm nhận thức.<br /> Mục tiêu của bài kiểm tra là khoảng cách<br /> Tính nội tin cậy (Intrarater) có thể bị ảnh hưởng<br /> người bệnh đi bộ trong 6 phút. Người bệnh có<br /> bởi khả năng thực hiện của đối tượng khi hoàn<br /> thể nghỉ bao nhiêu lần tùy thích, nhưng đồng hồ<br /> thành nhiều lần đánh giá cho thấy người bệnh<br /> bấm giờ vẫn tiếp tục chạy và ghi lại số lần nghỉ<br /> nhanh chóng làm quen với thử nghiệm này, thử<br /> ngơi và tổng thời gian nghỉ ngơi. Thiết bị hỗ trợ<br /> nghiệm đầu tiên ảnh hưởng đến thử nghiệm thứ<br /> có thể được sử dụng nhưng phải được ghi nhận.<br /> hai(1). Được thiết kế để thử nghiệm cho người đi<br /> Nếu một người bệnh cần hỗ trợ, chỉ nên cung<br /> bộ ở tốc độ thoải mái, nhưng đôi khi được thử<br /> cấp hỗ trợ tối thiểu cho người bệnh để hoàn<br /> nghiệm với việc đi bộ ở tốc độ “nhanh nhưng an<br /> thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ được<br /> toàn”. Trên lâm sàng, điều quan trọng là ghế<br /> ghi lại sẽ phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất trong quá<br /> đứng không dựa vào tường(10).<br /> trình thử nghiệm. Khi thực hiện, người khám<br /> THỬ NGHIỆM ĐI BỘ 10 MÉT (10-METRE không đi bộ phía trước hoặc trực tiếp bên cạnh<br /> WALK TEST-10MWT) người bệnh, vì điều này có thể tạo nhịp cho<br /> Thử nghiệm yêu cầu người bệnh đi bộ một người bệnh và ảnh hưởng đến tốc độ và khoảng<br /> khoảng cách cho trước. Thời gian được đo trong cách họ đi. Thay vào đó, đi bộ ít nhất nửa bước<br /> khi đi khoảng cách đã định, thường thì người phía sau người bệnh. Cần có đồng hồ bấm giờ.<br /> bệnh được cho khoảng cách để tăng tốc đến tốc Bánh xe để đo khoảng cách - nếu có thể, ghế,<br /> độ đi bộ ưa thích của mình, khoảng cách này hành lang dài 12 m (15 m; 30 m); cần ghi chú<br /> không được gộp vào khi xác định tốc độ. Vận tốc quãng đường đo lường. Dấu (hình nón) để chỉ<br /> đi tính bằng khoảng cách đi chia cho thời gian đi nơi đi vòng qua.<br /> khoảng cách đó. Có nhiều biến thể của bài kiểm Cũng có thể áp dụng phương trình hồi quy<br /> tra này mặc dù bài kiểm tra 10 mét (10MWT) là đặc trưng cho giới giải thích 40% phương sai<br /> phổ biến nhất. Cần chuẩn bị đồng hồ bấm giờ, trong khoảng cách đi bộ ở người trưởng thành<br /> đường đi không có vật cản dài 6, 8, 10, 12 mét khỏe mạnh(20).<br /> tùy theo khoảng cách được kiểm tra(3). Nam: 6MWD = (7,57 x chiều cao cm) - (5,02 x<br /> Các dụng cụ hỗ trợ đi có thể được sử dụng tuổi) - (1,76 x cân nặng) -309.<br /> nhưng phải được ghi lại trong các lần thử Nữ: 6MWD = (2,11 x chiều cao cm) - (2,29 x<br /> nghiệm. Nếu người bệnh cần hỗ trợ, chỉ cung cân nặng kg) - (5,78 x tuổi) + 667.<br /> cấp sự hỗ trợ tối thiểu cho bệnh nhân để hoàn<br /> Nghiên cứu chứng minh thấy sự khác biệt<br /> thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ đã<br /> đáng kể tùy thuộc vào độ dài của quãng đường<br /> ghi lại phải phản ánh sự hỗ trợ lớn nhất cần có<br /> được sử dụng. Yêu cầu người tham gia đi bộ trên<br /> trong quá trình thử nghiệm. Ví dụ, nếu một<br /> đường dài 10 mét, dẫn đến khoảng cách đi được<br /> người bệnh cần hỗ trợ tối thiểu cho phần lớn thử<br /> ngắn hơn so với khi được yêu cầu đi bộ trên<br /> nghiệm nhưng yêu cầu hỗ trợ trung bình để giữ<br /> đường 50 mét. Do đó, điều quan trọng là chuẩn<br /> thăng bằng trong một lần, bệnh nhân nên được<br /> hóa để theo dõi cho cả mục đích lâm sàng và<br /> đánh giá là cần hỗ trợ mức trung bình. Thử<br /> nghiên cứu. Các hướng dẫn của Hiệp hội Lồng<br /> <br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 29<br /> Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5* 2019<br /> <br /> ngực Hoa Kỳ cho thử nghiệm đi bộ sáu phút tư đường, cho phép thử nghiệm trong khu<br /> khuyên bạn nên sử dụng lối đi bộ 30 mét hoặc phố riêng của người bệnh sau khi xuất viện<br /> 100 feet với chiều dài của hành lang được đánh sau điều trị nội trú. Những người mắc bệnh<br /> dấu mỗi 3 mét. Điểm quay vòng được đánh dấu Alzheimer từ trung bình đến nặng có thể bị<br /> bằng hình nón. Chống chỉ định người bị đau thắt suy giảm thăng bằng và cần hỗ trợ về thể chất<br /> ngực và nhồi máu cơ tim không ổn định trong để di chuyển. Một số cá nhân cũng có thể yêu<br /> vòng một tháng trước kể từ lúc thử nghiệm(25). cầu sử dụng một thiết bị hỗ trợ để đi bộ(14).<br /> Có thể sử dụng GPS smartphone cung cấp Người lượng giá có thể cần sử dụng trợ giúp<br /> kết quả tương tự như dùng bánh xe đo quãng thể chất và lời nói trong giai đoạn thử nghiệm<br /> đường và có thể thuận tiện hơn để người nếu người bệnh khó có khả năng tập trung<br /> khám hỗ trợ người bệnh nếu cần. Thử nghiệm hoặc gặp khó khăn trong việc hiểu hướng dẫn.<br /> ngoài trời trên đất bằng không bang qua ngã<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 1. (A) Thử nghiệm đứng lên và đi-TUG; (B) Thử nghiệm thời gian 5 lần ngồi-đứng – 5xSTS; (C) Thang đo<br /> lường thăng bằng Berg- BBS; (D) Thử nghiệm đi bộ 6 phút- 6MWT<br /> THANG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG ĐI mục được tính theo thang điểm từ 0 đến 3, với 0<br /> (FUNCTIONAL GAIT ASSESSMENT-FGA) = suy yếu/ khiếm khuyết nghiêm trọng; 1 =<br /> khiếm khuyết/ suy yếu trung bình; 2 = khiếm<br /> Thử nghiệm FGA có 10 mục đánh giá khả khuyết/ suy yếu nhẹ; 3 = bình thường. Điểm cao<br /> năng thực hiện các hoạt động bao gồm: đi trên nhất = 30. Việc đánh giá có thể được thực hiện có<br /> bề mặt bằng phẳng, thay đổi tốc độ đi, đi với đầu hoặc không có dụng cụ trợ giúp. Người bệnh<br /> quay ngang và dọc, đi với xoay thân 180°, bước nên đi mà không cần sự trợ giúp thể chất của<br /> qua chướng ngại vật, đi với chân đế hẹp, đi với người khác. Khi thực hiện các mục, người khám<br /> mắt nhắm, đi lùi và lên xuống cầu thang. Mỗi không đi phía trước hoặc ngay bên cạnh, vì điều<br /> <br /> <br /> 30 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Tổng Quan<br /> <br /> này "tạo nhịp" cho người bệnh và có thể ảnh sát, trợ giúp trung bình, trợ giúp tối đa). Hướng<br /> hưởng đến tốc độ họ đi. Thay vào đó, đi ít nhất dẫn người bệnh đứng hoàn toàn giữa các lần lặp<br /> nửa bước phía sau(15). cử động và không chạm vào lưng ghế trong mỗi<br /> Cần có đồng hồ bấm giờ, dụng cụ đo để lần lặp. Nếu người bệnh có chạm vào lưng ghế<br /> đánh dấu khu vực. Khu vực đi bộ được đánh vẫn tiếp tục, nhưng không khuyến khích. Cố<br /> dấu: Chiều dài = 20 feet (6 mét); chiều rộng 12 gắng không nói chuyện với người bệnh trong<br /> inch (30,48 cm). Chướng ngại vật có chiều cao 9 khi kiểm tra vì có thể làm giảm tốc độ của người<br /> inch (22,86 cm) sử dụng ít nhất 2 hộp giày xếp bệnh. Nếu quan ngại người bệnh có thể mệt mỏi<br /> chồng lên nhau. Cầu thang có các bước cao 7,75 – với một lần thử trước, người khám có thể thị<br /> 9 inch (20-23 cm) với tay vịn hai bên. Vị trí của phạm v và yêu cầu người bệnh thực hiện hai lần<br /> người khám không tạo ra sự khác biệt về tính lặp lại trước để đảm bảo họ hiểu các hướng dẫn.<br /> ngoại tin cậy. Sử dụng thuốc khi đánh giá FGA Được phép đặt chân thoải mái trong quá trình<br /> có thể dẫn đến một số điểm cắt (cut off) khác thử nghiệm. Cần ghế có chiều cao tiêu chuẩn<br /> nhau cho người bệnh Parkinson có nguy cơ bị (43-45 cm, 17-18 inch) với tựa lưng và đồng hồ<br /> ngã. Khi xem xét thời gian dùng thuốc cho người bấm giờ.<br /> bệnh Parkinson, có báo cáo rằng khả năng dự Người bị rối loạn thăng bằng thực hiện<br /> đoán té ngã trong thời gian thuộc hết hiệu lực 5xSTS chậm hơn nhóm chứng và thử nghiệm<br /> (off) tốt hơn so với trong thời gian thuốc có hiệu nhạy hơn trong dân số trẻ (
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0