intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay" đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Trịnh Hùng Thanh Trường Đại học Nguyễn Huệ Tác giả liên hệ: Trịnh Hùng Thanh, email: thanhhunghvct@gmail.com Tóm tắt: Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một bộ phận hết sức quan trọng, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là tư tưởng mang bản chất cách mạng, khoa học và là một trong những sáng tạo lớn, đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng được Người diễn đạt giản dị, dễ hiểu, có sức cảm hóa, thuyết phục rất lớn đối với nhân dân. Từ yêu cầu thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, với tinh thần tiếp tục tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, bài viết đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; thời kỳ quá độ; tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là gì, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ra sao và làm thế nào để xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì không phải ngay một lúc có được câu trả lời hoàn chỉnh, chính xác và không phải ai cũng có thể hiểu được. Với cách tiếp cận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, với lối diễn đạt giản dị, dễ hiểu có sức cảm hóa, thuyết phục rất lớn đối với nhân dân, Hồ Chí Minh đã từng bước làm sáng tỏ, phác thảo nên những nét cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 499
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 2. NỘI DUNG 2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Quan điểm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam bắt nguồn từ lý tưởng về một xã hội công bằng, bình đẳng, nhân dân được sống trong tự do và hạnh phúc. Người cho rằng các vấn đề dân tộc cơ bản chỉ có thể được giải quyết triệt để trong CNXH, ngược lại, CNXH chỉ có thể trở thành hiện thực trên cơ sở những quyền cơ bản của dân tộc được giải quyết một cách triệt để. Đó là hai mặt của sự nghiệp cách mạng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Đây cũng chính là thực chất của CNXH theo cách hiểu của Hồ Chí Minh, cho nên khi định nghĩa CNXH là gì, Người đã giải thích một cách dễ hiểu: “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc” (Hồ, 2011, 415). Tóm lại, “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” (Hồ, 2011, 521). Đó là những luận điểm tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất sâu sắc, phản ánh những đặc trưng bản chất nhất của CNXH mà nhân dân ta đang phấn đấu để đạt tới. Có thể khái quát những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam như sau: Về kinh tế: Nền kinh tế chúng ta xây dựng là nền kinh tế XHCN trong thời kỳ quá độ. Quá độ nghĩa là chưa hoàn chỉnh, nhưng về nội dung, nền kinh tế đó vẫn phải đảm bảo các mặt về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý, cơ cấu kinh tế, chế độ phân phối,… Mục tiêu của nền kinh tế XHCN là nhằm cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý đến nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, muốn phát triển phải gắn với sự phát triển của sức sản xuất, của khoa học - kỹ thuật, tạo ra một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại. Người có tư duy sớm về công nghiệp hóa như là một quy luật tất yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước chưa trải qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Người quan tâm đến cơ cấu kinh tế công - nông - thương nghiệp, lấy nông nghiệp 500
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” làm mặt trận chính, thương nghiệp là cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân. Nhận thức sâu sắc về đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước vốn là thuộc địa, với nền kinh tế nông nghiệp chậm phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm có tư duy về sự tồn tại các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, trong đó Người nhấn mạnh sở hữu nhà nước là của toàn dân. Và gắn với các hình thức sở hữu là các thành phần kinh tế đa dạng với kinh tế nhà nước là chủ đạo. Người còn chú trọng đến hợp tác quốc tế. Dựa trên tinh thần nhân văn “bốn bể đều là anh em”, Người đã sớm có tầm nhìn xa và bản lĩnh về khai thác tiềm năng và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước trên thế giới đối với Việt Nam, sẵn sàng mở cửa và hợp tác với các nước trên thế giới. Mục tiêu kinh tế của CNXH trong thời kỳ quá độ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa bảo đảm những nội dung cơ bản nhất của một nền kinh tế XHCN theo nguyên lý Mácxít, vừa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Người nói: “Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân dân để xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội” (Hồ, 2011e, 432). Hồ Chí Minh đưa ra cách tiếp cận về CNXH từ những đặc trưng, bản chất của CNXH. Theo cách tiếp cận này, CNXH không chỉ đơn thuần là một xã hội khác, trái với chủ nghĩa tư bản mà bản chất của CNXH là một xã hội vừa cao hơn về trình độ, vừa “đẹp hơn”, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Về kinh tế, theo Hồ Chí Minh là phải: “xây dựng nền tảng vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội... có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài” (Hồ, 2011d, 412). Người nhấn mạnh vấn đề tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Về cơ cấu kinh tế, Người đã đề cập cả cơ cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Người chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Đặc biệt cần ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh, tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội; khuyến khích, hướng dẫn, giúp đỡ cho hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động phát triển; trong tổ chức hợp tác xã. Người rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế, chủ trương thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không 501
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG làm không hưởng. Đồng thời, Người bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản xuất: “chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội... làm khoán là ích chung và lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay” (Hồ, 2011c, 537). Đây là quan điểm quan trọng, thể hiện tầm nhìn trong việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực cho kinh tế phát triển, vận hành đúng quy luật tự nhiên. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn tính chất khó khăn, lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá độ, Người xác định bước đi trong xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta đó là: phải dần dần, thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không được chủ quan nôn nóng, đốt cháy giai đoạn. Phải thực hiện “đi bước nào vững chắc bước ấy”. Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, Người nói: “... lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn...” (Hồ, 2011c, 390). Trong phát triển công nghiệp, Người sớm nhắc nhở phải đề phòng bệnh duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Người nói: mấy năm kháng chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị... nếu muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan... Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên, rồi đến tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, song mới đến công nghiệp nặng... Mặt khác, Người đề cập đến việc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, nhưng lưu ý rằng: tiến nhanh, tiến mạnh không phải là làm bừa, làm ẩu, chớ đem ý muốn chủ quan thay cho điều kiện thực tế khách quan. Về chính trị: Chủ Tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cái lớn nhất, điều không gì có thể so sánh từ thắng lợi của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng là mang lại quyền dân chủ cho người dân; cuộc cách mạng đó đã biến người nô lệ thành người tự do. Tiêu ngữ của nước Việt Nam mới: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” phản ánh thành quả lớn nhất, bản chất của chế độ chính trị mới chưa hề có trong lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra” (Hồ, 2011b, 232). Chế độ chính trị do dân làm chủ là làm chủ bằng nhà nước thông qua nhà nước và thể hiện ở nhà nước. Vì vậy, phải xây dựng nhà nước theo đúng tiêu chí là nhà nước dân chủ. Trước hết, đó là một nhà nước của dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có nhiều biểu hiện thể hiện 502
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quyền hạn của dân trong nhà nước kiểu mới, đó là quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan nhà nước; quyền kiểm soát đại biểu do mình bầu ra; quyền kiểm soát nhà nước và “không chấp nhận” chính phủ nếu chính phủ làm trái ý dân; quyền bãi miễn đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Nhân dân làm chủ thông qua nhà nước. Muốn vậy, phải hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Các thiết chế đó được thể hiện trong tất cả các cơ quan nhà nước, từ quốc hội, chính phủ, đến các cơ quan tư pháp. Điều quan trọng nhất của thiết chế dân chủ là dựa vào dân, lấy dân làm gốc, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến của dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Thiết chế đó thể hiện một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hạn chế dần tiêu cực, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trong mục tiêu chính trị của xã hội XHCN, cùng với nâng cao chất lượng và trách nhiệm của nhà nước, một nội dung quan trọng là phải giữ vững, phát huy vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nhiệm vụ quan trọng và nặng nề của Đảng là lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới, thắng bần cùng và lạc hậu. Mục tiêu chính trị của chế độ mới, của CNXH là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh - mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa - để đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng ở một đất nước trong lịch sử chưa có tiền lệ. Vai trò lãnh đạo của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp biến một nước nghèo nàn, lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa, khoa học kỹ - thuật tiên tiến. Đảng phải có bản lĩnh và đổi mới tư duy mạnh mẽ, chống bảo thủ, giáo điều, rập khuôn, máy móc. Đảng phải có đội ngũ đảng viên, cán bộ tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc; phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Cùng với xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước là củng cố, tăng cường sức mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất, vì đây là hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng. Về văn hóa - xã hội, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Nghĩa rộng bao hàm cả những vấn đề xã hội, con người, đạo đức, lối sống, tư tưởng… Nghĩa hẹp được hiểu theo từng lĩnh vực cụ thể như văn 503
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hóa, văn nghệ, giáo dục,… Năm 1961, trả lời phóng viên thường trú của báo L’Humanité (Nhân đạo) tại Hà Nội về việc làm sao có thể biến nước Việt Nam lạc hậu thành một nước tiên tiến, Hồ Chí Minh trả lời: “Có lẽ cần phải để lên hàng đầu những cố gắng của chúng tôi nhằm phát triển văn hóa. Chủ nghĩa thực dân đã kìm hãm nhân dân chúng tôi trong vòng ngu muội để chúng dễ áp bức. Nền văn hóa nảy nở hiện thời là điều kiện cho nhân dân chúng tôi tiến bộ” (Hồ, 2011e, 191) . Mục tiêu xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải giữ gìn được cốt cách dân tộc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Trong cốt cách dân tộc thì đặt lên hàng đầu là chủ nghĩa yêu nước mà hạt nhân là tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ, tiếp đến là luân lý, tức là những khía cạnh về đạo đức như biết hy sinh vì lợi ích của quần chúng, rồi đến khía cạnh về xã hội như vấn đề phúc lợi xã hội, vấn đề dân quyền. Về các vấn đề xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, làm cho “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (Hồ, 2011a, 187). Người đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội như chăm lo cho thương binh và các gia đình liệt sĩ; quan tâm việc học hành, chữa bệnh của nhân dân, đặc biệt là người già, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật. Người chú trọng văn hóa tâm linh, quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Người là xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Để có được chủ nghĩa xã hội thực sự vì con người, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa” (Hồ, 2011e, 293). Việc xây dựng con người mới - con người xã hội chủ nghĩa đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, từng cá nhân không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng bản thân về mọi mặt, có như vậy mới thực sự góp phần của mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. 2.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự soi đường, dẫn dắt của tư tưởng Hồ 504
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Chí Minh. Trong sự nghiệp đổi mới, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, với những khó khăn ở trong nước, Đảng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo vào thực tiễn đất nước và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên trở thành một nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, có thêm nhiều điều kiện, tiền đề thuận lợi để vững bước trên con đường mà Đảng ta, nhân dân ta và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 25). Thành tựu của 36 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự thật”, Đảng ta đã nhận thức một cách sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, về con đường đi lên CNXH. Sự phát triển nhận thức của Đảng ta thể hiện trên các nội dung cơ bản sau: Một là, về tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ. Tại Đại hội VI (1986), Đảng ta xác định rằng, từ CNTB lên CNXH tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, do xuất phát điểm về các lĩnh vực của đời sống xã hội đều rất thấp kém, nên thời kỳ quá độ rất lâu dài và khó khăn, trải qua nhiều chặng đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Đảng ta chỉ rõ: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Ðó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998a, 374). Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991) Đảng ta xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất 505
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG rất thấp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998b, 133). Tổng kết 15 năm đổi mới, tại Đại hội IX, nhận thức của Đảng ta về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa lên một bước: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 84). Tới Đại hội XI, Đảng ta đã khái quát về thời kỳ quá độ lên CNXH “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Thời kỳ quá độ là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen cùng phát triển. Tư tưởng này đã định hướng các nhiệm vụ, nội dung của thời kỳ quá độ ở nước ta và là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng XHCN, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về mục tiêu và đặc trưng, bản chất của CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm 8 đặc trưng, các đặc trưng đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới. Đặc trưng thứ nhất là: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là đặc trưng cơ bản nhất, cốt lõi nhất và biểu hiện tập trung nhất bản chất của CNXH mà nhân dân ta xây dựng. Tổng kết, đánh giá 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta khẳng định: “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 103). Hai là, nhận thức rõ hơn về những nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về mục tiêu của thời kỳ quá độ: Trên cơ sở tính chất và đặc điểm của thời kỳ quá độ, Cương lĩnh 1991 xác định “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi 506
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998b, 136). Đồng thời, xác định rõ hơn mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ. Trên cơ sở đó và căn cứ vào tình hình thực tiễn đất nước, Đại hội VII đã đề ra mục tiêu tổng quát của 5 năm (1991-1995) là: “vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 60). Và nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Đây được coi là những dấu mốc, mục tiêu cần đạt được của chặng đường đầu trong thời kỳ quá độ. Với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta, 10 năm đầu đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội VIII (1996) của Đảng nhận định nước ta đã kết thúc chặng đường đầu tiên và bắt đầu bước vào chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ lên CNXH với nội dung trọng tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Trên cơ sở các thành tựu đạt được của hơn 35 thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xây dựng mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 217). Như vậy, có thể hình dung lộ trình, bước đi và mục tiêu của các giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ là tương đối rõ ràng. Việc xác định cụ thể mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cho từng giai đoạn là sự thể hiện nhận thức mới của Đảng về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó là những định hướng, những tiêu chí cơ 507
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG bản để toàn Đảng, toàn dân phấn đấu trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Về cơ cấu kinh tế, xã hội và các hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ. Trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng Cộng sản Việt Nam nhận thức rõ hơn trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, những cơ cấu, tính chất, vị trí các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về cơ cấu kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Cùng với tổng kết thực tiễn, nhận thức và sự vận dụng của Đảng ta về CNXH, con đường đi lên CNXH ngày càng sát thực, cụ thể hóa. Nhưng, trong quá trình xây dựng CNXH, bên cạnh những thời cơ, vận hội, nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn cả trên bình diện quốc tế, cũng như từ các điều kiện thực tế trong nước tạo nên. Trong bối cảnh đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường quá độ lên CNXH, chúng ta cần tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng nhất: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo con đường Hồ Chí Minh đã chọn, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh giành được độc lập dân tộc, từng bước quá độ lên CNXH. Trong điều kiện nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đi lên CNXH, vì đó là quy luật tiến hóa trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Chỉ có CNXH mới đáp ứng được khát vọng của toàn dân tộc: độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, cơm no áo ấm cho mọi người dân Việt Nam. Thực tiễn phát triển đất nước cho thấy, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là tiếp tục con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Đổi mới, vì thế, là quá trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, chứ không phải là thay đổi mục tiêu. 508
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Tuy nhiên, khi thực hiện kinh tế thị trường, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực của nó, đồng thời phải biết cách ngăn chặn, phòng tránh các mặt tiêu cực, bảo đảm nhịp độ phát triển nhanh, bền vững trên tất cả mọi mặt đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; không vì phát triển, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà làm phương hại các mặt khác của cuộc sống con người. Không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Vấn đề đặt ra là, trong quá trình phát triển vẫn giữ vững định hướng XHCN, biết cách sử dụng các thành tựu mà nhân loại đã đạt được để phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH, nhất là thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, làm cho tăng trưởng kinh tế luôn đi liền với sự tiến bộ, công bằng xã hội, sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức, tinh thần. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu mà đất nước ta phải trải qua. Chúng ta phải tranh thủ thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, của điều kiện giao lưu, hội nhập quốc tế để nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân, nghĩa là phải biết phát huy mọi nguồn lực vốn có trong dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngày nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính, có phát huy mạnh mẽ nội lực mới có thể tranh thủ sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trong nội lực, nguồn lực con người là vốn quý nhất. Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam bao gồm trí tuệ, tài năng, sức lao động, của cải thật to lớn. Để phát huy tốt sức mạnh của toàn dân tộc xây dựng và phát triển đất nước, cần giải quyết tốt các vấn đề sau: Tin dân, dựa vào dân, xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nhất là ở địa phương, cơ sở, làm cho dân chủ thật sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội. Chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Xã hội chủ nghĩa với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà chúng ta đang hướng 509
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tới là một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn. Thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ sở lấy liên minh công - nông - trí thức làm nòng cốt, tạo nên sự đồng thuận xã hội vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Xây dựng CNXH phải biết tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại. Ngày nay, sức mạnh của thời đại tập trung ở cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Chúng ta phải tranh thủ tối đa các cơ hội do xu thế đó tạo ra để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phải có cơ chế, chính sách đúng để thu hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Muốn vậy, chúng ta phải có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc chân chính của mọi người Việt Nam nhằm góp phần làm gia tăng tiềm lực quốc gia. Chủ động hội nhập quốc tế phải gắn liền với nhiệm vụ trau dồi bản lĩnh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là cho thanh, thiếu niên - lực lượng rường cột của nước nhà, để không tự đánh mất mình bởi xa rời cội rễ dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và bản sắc dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ đó mới có thể loại trừ các yếu tố độc hại, tiếp thu tinh hoa văn hóa loài người, làm phong phú, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. Chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy nhà nước, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hiện cần kiệm xây dựng CNXH. Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân cần đến vai trò lãnh đạo của một Đảng cách mạng chân chính, một Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, phải: Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, một Đảng “đạo đức, văn minh”. Cán bộ, đảng viên gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là người hướng dẫn, lãnh đạo nhân dân, vừa hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong mọi việc. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, 510
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” vì nhân dân; thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia một cách đồng bộ để phục vụ đời sống nhân dân. Cần nhận thức sâu sắc rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Bằng các giải pháp thiết thực, cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ liêm khiết, tận trung với nước, tận hiếu với dân; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những “ông quan cách mạng”, lạm dụng quyền lực của dân để mưu cầu lợi ích riêng; phát huy vai trò của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Giáo dục mọi tầng lớp nhân dân ý thức biết cách làm giàu cho đất nước, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hăng hái đẩy mạnh tăng gia sản xuất kinh doanh gắn liền với tiết kiệm, chống lãng phí để xây dựng nước nhà. Trong điều kiện đất nước còn nghèo, tiết kiệm phải trở thành quốc sách, đồng thời cũng là một chuẩn mực đạo đức, hành vi văn hóa. Đúng như Hồ Chí Minh đã căn dặn, một dân tộc biết “cần”, biết “kiệm” là một dân tộc văn minh, tiến bộ; dân tộc đó chắc chắn sẽ thắng được nghèo nàn, lạc hậu, ngày càng giàu có về vật chất, cao đẹp về tinh thần. 3. KẾT LUẬN Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng khoa học, cách mạng, phản ánh rõ tư duy lý luận và phương pháp biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh của Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở, nền tảng trực tiếp để Đảng và Nhà nước ta hoạch định và hoàn thiện đường lối, chính sách, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay. Trong giai đoạn hiện nay, để vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các nguồn lực, trước hết là nội lực để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn 511
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đồng thời phải tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh chống những luận điểm xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998a). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 47). Chính Trị Quốc Gia Sự Thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998b). Văn kiện Đảng toàn tập (Vol. 51). Chính Trị Quốc Gia Sự Thật. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [7]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 4). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia. [9]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [10]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [11]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 13). Chính trị quốc gia. 512
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2