Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
lượt xem 3
download
Bài viết "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay" làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, đồng thời phân tích các biện pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Phạm Thị Thúy Vân Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 Tác giả liên hệ: Phạm Thị Thúy Vân, email: phamthithuyvan@hpu2.edu.vn Tóm tắt: Phát huy nhân tố con người luôn được xem là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, đồng thời phân tích các biện pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó cho thấy, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện những di huấn của Người vào việc phát huy tối đa năng lực của con người trong lao động, trong hoạt động sáng tạo là yếu tố cơ bản đảm bảo thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ khóa: con người; con người hiện thực; phát huy nhân tố con người; chủ nghĩa xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh. 1. MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi các các vấn đề về con người là mối quan tâm thường trực, là mục tiêu hướng tới trong mọi tư tưởng và hành động của mình. Từ lúc ra đi tìm đường cứu nước đến khi trở thành lãnh tụ và đến lúc phải “từ biệt thế giới này” không bao giờ Người xa rời mục tiêu đó. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh là một di sản quý báu, chiều sâu trong tư tưởng đó là triết lý nhân sinh sâu sắc, là tinh thần, phương pháp luận để giải quyết vấn đề con người. Đó là hệ thống tư tưởng về bản chất con người, về niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con người, phản ánh con đường giải phóng con người một cách triệt để nhằm xây dựng một chế độ xã hội trong đó con người có điều kiện phát triển toàn diện và phát huy hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình. Cho đến nay, hệ thống tư tưởng đó vẫn còn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Chính 582
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” vì vậy, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người nhằm phát huy nhân tố con người trong thời đại mới chính là sự chuẩn bị tích cực, chủ động nguồn nhân lực chất lượng cao cho tương lai của đất nước trên con đường phát triển theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. 2. NỘI DUNG 2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Thứ nhất, con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những cá nhân hiện thực, khách quan gắn với từng giai đoạn lịch sử và từng thời kỳ cách mạng cụ thể. Kế thừa quan điểm con người hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, không có vấn đề chính trị - xã hội nào lại không xoay quanh vấn đề con người và không có con người chung chung trừu tượng, mà chỉ có những con người hiện thực, sống và lao động trong một xã hội hiện thực. Với Hồ Chí Minh, “con người thật” - tức là con người xét trong các quan hệ xã hội hiện thực, trong các điều kiện sống hiện thực với nhiều bình diện và nhiều chiều khác nhau. Tùy theo từng thời điểm lịch sử gắn liền với từng thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ “con người” và xem xét nó trong tổng hoà các quan hệ xã hội của nó. Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Người thường dùng các khái niệm “người bản xứ”, “người mất nước”, “người bị bóc lột”,... và đối lập với họ là những tên “thực dân”, “viên chức tàn bạo”, “kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc lợi”,... Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, con người Việt Nam đã trở thành người tự do, là người làm chủ đất nước, thực hiện đại đoàn kết để kháng chiến chống thực dân Pháp. Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “đồng bào”, “nhân dân”, “dân”,... và qua đó đặt con người trong quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc. Trong thời kỳ cải cách ruộng đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã nói rõ về con người trong các quan hệ giai cấp. Sau khi miền Bắc hoàn thành công cuộc cải cách và cải tạo nói trên thì Hồ Chí Minh dùng những khái niệm phù hợp với các quan hệ xã hội mới, như “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “công nhân”, “nông dân tập thể”, “người chủ tập thể”,... Ngoài các quan hệ xã hội, Người còn xem xét con người theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,... Đó đều là những con người hiện thực, cụ thể và khách quan. 583
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ hai, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội của con người, Hồ Chí Minh cũng thống nhất quan điểm cho rằng, con người là một thực thể mang tính xã hội. Tính xã hội đó được hình thành trong tổng hoà các quan hệ xã hội với nhiều cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh là ở chỗ, khi xem xét các mối quan hệ hiện thực của con người, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến sự tác động, chi phối lẫn nhau giữa các quan hệ đó trong sự hình thành bản chất xã hội của chính con người. Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến các quan hệ bên ngoài con người, mà còn nhìn sâu vào bên trong, để thấy các mối quan hệ bên trong của con người. Ở những quan hệ bên ngoài, Hồ Chí Minh cho rằng, con người có cấp độ bản chất Người, cấp độ bản chất giai cấp, cấp độ bản chất dân tộc, nhân loại; các cấp độ này có mối quan hệ đan xen và chi phối lẫn nhau. Xuất phát từ cách xem xét ấy, Hồ Chí Minh đã nêu lên một định nghĩa về con người rất độc đáo, mang đậm nét bản sắc văn hóa phương Đông và Việt Nam. Người nói: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” (Hồ, 2011b, 130). Ở những mối quan hệ bên trong, bằng cách tiếp cận duy vật biện chứng về bản chất con người, Hồ Chí Minh cho rằng, bên trong con người hiện thực luôn tồn tại mối quan hệ giữa phần thiện và phần ác, giữa đức và tài, giữa hay và dở, giữa tốt và xấu, hiền và dữ,... bao gồm cả tính người - mặt xã hội và tính bản năng - mặt sinh học của con người. Từ đó, Hồ Chí Minh đi đến nhận định rằng, con người dù “có thế này, thế khác”, “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình” (Hồ, 2011c, 99), đều có xu hướng vươn đến chân - thiện - mỹ. Đây là một quan niệm độc đáo của Hồ Chí Minh. Độc đáo hơn là ở chỗ, Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh giữa thiện và ác trong con người là gốc. Nếu trong con người, cái thiện chiến thắng cái ác, thì cái thiện trong xã hội, cái thiện trên thế giới cũng có thêm sức mạnh để giành chiến thắng trước cái ác. Người viết: “Trong mình có hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai phe cùng đấu tranh với nhau. Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại. Nếu không đấu tranh mà để cho phe thiện bại, thì là hỏng”, vì vậy, “phải đấu tranh để anh thiện thắng. Nếu anh thiện trong mình thắng thì phe thiện trong nước, ngoài nước sẽ mạnh” (Hồ, 2011c, 100). Do đó, để khơi dậy cái thiện, làm cho cái thiện nảy nở, phát triển, mỗi người 584
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cần chủ động đấu tranh với cái xấu, cái ác trong bản thân mình để nâng mình lên trong mọi hoàn cảnh. Con người trong cách tiếp cận của Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất mang những phẩm chất riêng, vừa là một thực thể xã hội mang những phẩm chất của một hệ thống các quan hệ xã hội trong sự thống nhất biện chứng giữa cái chung với cái đặc thù và cái riêng. Cụ thể hơn, trong khi luôn nhấn mạnh và coi trọng con người tập thể, con người xã hội, Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến con người cá nhân. Chính vì vậy, Người đã khẳng định, chủ nghĩa xã hội không hề phủ nhận cá nhân, chà đạp lên lợi ích cá nhân, mà ngược lại, hơn hẳn bất kỳ một chế độ xã hội nào trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội luôn tôn trọng lợi ích cá nhân, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển tự do và toàn diện của cá nhân. Thứ ba, trong lý luận về vai trò chủ thể của con người, Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến mặt tư tưởng, đến sức mạnh tinh thần của con người đối với sự phát triển của xã hội và của chính bản thân con người. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời căn cứ vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức, đánh giá đúng đắn về vai trò của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người không chỉ là mục tiêu của sự phát triển xã hội, mà còn là chủ thể của lịch sử, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh quan tâm trước hết đến mặt tư tưởng, đến sức mạnh tinh thần của chính con người. Cụ thể, đối với sự phát triển của xã hội, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc hiện thực xã hội và con người Việt Nam, đồng thời vận dụng sáng tạo phương pháp hành động biện chứng Mácxít, Hồ Chí Minh đã luận chứng một cách khoa học về vai trò động lực tinh thần trong con người, về tính năng động của yếu tố tinh thần trong sự phát triển của lịch sử. Đây là điểm rất độc đáo, đặc sắc, đậm chất biện chứng và đậm chất phương Đông của Hồ Chí Minh. Sức mạnh tinh thần ấy, theo Hồ Chí Minh, được hình thành từ khát vọng giành cho được độc lập tự do của cả dân tộc và truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm được hun đúc từ ngàn năm dựng nước và giữ nước của cha ông. Đó là sức mạnh đoàn kết của tình đồng chí; là ý chí quyết chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hy sinh; là ý chí trung thành với Đảng, với nhân dân; kiên cường chiến đấu vì độc lập - tự do của Tổ quốc. Người viết: “Dù địch có những vũ khí tối tân, hùng binh ác tướng, nhưng chúng ta lại có những thứ 585
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vũ khí mạnh mẽ hơn, bền bỉ hơn chúng. Chúng ta có ý chí quật cường không núng của dân tộc, chúng ta có sự đoàn kết của toàn dân. Chúng ta có lòng hy sinh cảm tử của chiến sĩ ở tiền tuyến. Chúng ta có sức kiên quyết nhẫn nại của đồng bào ở hậu phương. Đó là những vũ khí luôn luôn chiến thắng quân thù, chứ không lực lượng nào chiến thắng được những vũ khí đó” (Hồ, 2011a, 219). Từ đó Người đi đến yêu cầu: “Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa thì phải xây dựng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa” (Hồ, 2011f, 69). Tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói tóm tắt là phải “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình” (Hồ, 2011e, 603). Đối với sự phát triển của bản thân con người, sức mạnh tinh thần sẽ giúp cho con người, bằng chính năng lực của mình, tự đấu tranh để thoát khỏi mọi sự áp bức bất công, thoát khỏi mọi sự tha hóa để có thể trở về bản chất người tốt đẹp nhất. Nhấn mạnh vai trò sức mạnh tinh thần đối với sự phát triển của chính bản thân con người, Hồ Chí Minh không sa vào duy tâm, ảo tưởng. Bởi lẽ, Người đã dựa trên quan điểm hết sức biện chứng khi xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu,... Sức mạnh tinh thần đó theo Hồ Chí Minh, thể hiện ở sự tự điều chỉnh của mỗi người, ở sự tự ý thức của mỗi cá nhân. Điều này có nghĩa, mỗi người “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước”, mà “nghĩ đến đồng bào, đến toàn dân” (Hồ, 2011g, 672), thì sẽ “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi” (Hồ, 2011g, 672). Chỉ có như vậy, mỗi người mới có thể chủ động đấu tranh với cái xấu, cái ác trong bản thân mình để hoàn thiện bản thân. Thứ tư, trong vấn đề xây dựng con người mới, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giáo dục và tự giáo dục, coi trọng nội dung xây dựng và mở rộng dân chủ nhằm nâng cao các giá trị làm người. Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Theo Người, để tiếp tục phát huy nhân tố con người, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo và biện pháp quan trọng bậc nhất; “không có giáo dục, không có cán bộ, thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa” (Hồ, 2011d, 345). Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho con người. Giáo dục có vai trò tạo điều kiện, định hướng cho tất cả mọi người không phân biệt giai cấp, đảng phái, chính kiến, giàu nghèo,... được học tập, được 586
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” phát huy năng lực và sở trường của mình. Thông qua giáo dục, cái thiện trong mỗi con người sẽ ngày càng nhiều thêm và cái ác sẽ mất dần đi. Con người được giáo dục toàn diện sẽ trở thành những con người mới - chủ nhân tương lai của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Để xây dựng con người mới, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt chú trọng đến vấn đề xây dựng và mở rộng dân chủ, nâng cao các giá trị làm người. Bởi Người cho rằng, dân chủ là một nhu cầu tất yếu của con người, nó thuộc bản chất người. Và như vậy, không ai có quyền tước bỏ đi cái thuộc tính bản chất ấy, cái bản chất luôn muốn vươn tới sự tự do để khẳng định khả năng phát triển của con người. Chính bởi vậy, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, trình độ dân trí lại thấp kém, Hồ Chí Minh sớm nhận thức sự cần thiết phải thực hành dân chủ rộng rãi để nhân dân hiểu quyền và nghĩa vụ của mình, biết đấu tranh giành lấy tự do, hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Do đó, Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề xây dựng một chế độ dân chủ chân chính thay cho chế độ thực dân - phong kiến. Với Hồ Chí Minh, dân chủ không chỉ là vấn đề lợi ích, quyền lực và thể chế gắn với chế độ nhà nước, luật pháp mà còn là những giá trị làm người, giá trị thuộc về phẩm giá, nhân cách, tự trọng và tự chủ của con người. Bởi, nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Ở nước ta, chế độ dân chủ nhân dân là một nấc thang trong quá trình phát triển của dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xây dựng một xã hội mới. Nó không chỉ phủ định chế độ quân chủ đã tồn tại hàng ngàn năm, mà còn phủ định chế độ thực dân - một chế độ xã hội “phi nhân tính” do thực dân Pháp áp đặt vào Việt Nam. 2.2. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh Đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, con người luôn được xem là nguồn tài nguyên, của cải đích thực và quý giá nhất. Vì vậy, mục đích phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, xét đến cùng, phải vì con người, cho con người, tạo môi trường thuận lợi để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khoẻ và có cơ hội phát huy mọi năng lực sáng tạo. Nhận thức được điều đó, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề 587
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG con người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định vai trò đặc biệt của nhân tố con người với tính cách là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Thực tế cũng cho thấy, qua hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng đã phát huy được sức mạnh của mỗi con người Việt Nam cũng như của cả dân tộc cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Từ việc nhận thức rõ con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước, Đảng đã đưa ra nhiều quan điểm và giải pháp phát huy nhân tố con người, nhằm khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo, lòng tự tôn tự hào dân tộc, nhân cách cao đẹp của con người Việt Nam nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Quá trình đổi mới luôn xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân nên đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế - xã hội của đất nước do đó có bước phát triển, đời sống mọi mặt của nhân dân từng bước được nâng cao; chính trị, xã hội ổn định;... Những thành tựu đó chính là những minh chứng cụ thể cho sức mạnh to lớn của con người Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được thì việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế. “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, Đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số Đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 185). Bên cạnh đó, “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 72); chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu; “chưa chú trọng đúng mức giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng làm việc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 113-114); chưa tạo ra được môi trường thuận lợi cho việc phát huy tối đa nhân tố con người Việt Nam;... Những bất cập này đã cản trở việc phát huy nhân tố con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, trước yêu cầu của tình hình mới, việc tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vào việc phát huy nhân tố con người nhằm khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của con người được xem là một trong những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt. Để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa một cách hiệu 588
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quả, cần phải có một hệ thống các biện pháp đồng bộ, trong đó, cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu sau: Một là, đẩy mạnh phát triển giáo dục và đào tạo để phát triển toàn diện con người Việt Nam. Sự biến đổi không ngừng của hoàn cảnh xã hội đòi hỏi mỗi con người cần phải liên tục cập nhật kỹ năng, hoàn thiện mình để thích ứng với tình hình mới. Do đó, để nâng cao trình độ, phát triển toàn diện năng lực của mỗi cá nhân thì giáo dục và đào tạo được xem là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu. Một mặt, giáo dục phác thảo trước mô hình nhân cách cần đạt đến, nó tác động đến đối tượng giáo dục một cách có hệ thống, có mục đích và theo một tổ chức chặt chẽ. Mặt khác, giáo dục truyền lại những thành tựu của nền văn minh xã hội theo con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất. Nhân cách con người được hoàn thiện bởi một nền giáo dục xã hội và tự giáo dục toàn diện sẽ trở thành những người vừa “hồng”, vừa “chuyên”; vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam mới. Theo đó, để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, cần thiết phải xây dựng một xã hội học tập, một xã hội văn minh với các giá trị chân, thiện, mỹ, đồng thời hình thành ở mỗi cá nhân năng lực sáng tạo và tư duy phản biện, có kỹ năng tự học, khả năng giao tiếp, hợp tác nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Để làm được điều này, quá trình đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống, coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân, bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nội dung giáo dục phải toàn diện, đồng thời bám sát yêu cầu của xã hội, đào tạo chuyên sâu các ngành nghề, lĩnh vực, cung cấp đủ kiến thức và kỹ năng làm việc trong các ngành công nghiệp hiện đại, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ tiên tiến. Đồng thời, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội của các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên. Coi trọng bồi đắp con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại, có nhân cách tốt, lối sống đẹp. Trong thực hiện giáo dục và đạo tạo nhằm phát huy nhân tố con người Việt Nam, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, vừa khẳng định 589
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG những giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa cơ bản, quyết định bản sắc văn hóa, con người Việt Nam, vừa ngăn chặn, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của con người. Thứ hai, quan tâm giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích theo phương châm bảo đảm công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát triển. Lợi ích chính là điểm mấu chốt, là một trong những động lực hàng đầu nhằm phát huy nhân tố con người. Theo đó, để phát huy vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước, không thể không đặt ra vấn đề giải quyết hài hoà giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng và lợi ích toàn xã hội, giữa lợi ích trực tiếp trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần,… Việc kết hợp hài hoà và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích đó sẽ tạo ra động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong thời kỳ mới. Thực tiễn đất nước cũng chứng minh, khi nào chúng ta kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội sẽ tạo ra được trạng thái lành mạnh trong từng đơn vị tập thể và xã hội, do vậy mà tính tích cực xã hội và tinh thần sáng tạo được phát huy, kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định; nếu ngược lại sẽ kìm hãm, cản trở sự phát triển của đất nước, thậm chí tiêu cực xã hội và tệ nạn xã hội gia tăng. Trước yêu cầu của tình hình mới hiện nay, để kết hợp hài hòa các quan hệ lợi ích, phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần tôn trọng và bảo đảm cho sự phát triển của lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Theo đó, các chế độ, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải được cụ thể hóa để thực sự trở thành công cụ thực hiện công bằng xã hội, từng bước hiện thực hóa các giá trị xã hội chủ nghĩa vào thực tiễn đời sống xã hội của đất nước, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới. Công bằng nhưng không cào bằng là nguyên tắc đạo đức tối thượng trong điều kiện hiện nay, thể hiện ở việc lợi ích mà mỗi cá nhân được hưởng tương xứng với công lao, sự đóng góp của họ. Để bảo đảm công bằng cần thực hiện tốt các hình thức phân phối, đây là động lực trực tiếp kích hoạt nhu cầu, động cơ lợi ích cá nhân chính đáng phát triển, đồng thời phản ánh những giá trị đạo đức tiến bộ. Bên cạnh đó, phải đặt lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích xã hội, trong đó “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”; trong những trường hợp nếu có xung đột thì phải hy sinh lợi ích cá nhân. Đây cũng chính là điều mà sinh thời Chủ 590
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài” (Hồ, 2011a, 290). Và khi “lợi ích chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng” (Hồ, 2011a, 291). Thứ ba, xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ trong mọi mặt của đời sống xã hội nhằm tạo môi trường, điều kiện thiết yếu để phát huy tính tích cực và sáng tạo của con người trong các lĩnh vực. Nhân tố con người chỉ được khai thác và phát huy tối đa khi con người thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình. Để phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người trong mọi hoạt động thì nhất thiết phải xây dựng và thực hiện một cơ chế dân chủ, trong đó ngày càng quan tâm đến dân chủ trực tiếp nhằm hiện thực hoá những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong đời sống xã hội. Đây cũng là điều mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm, chú ý. Vì với Người, dân chủ có vai trò to lớn trong việc phát huy tính tích cực và sáng tạo của con người, từ đó góp phần thúc đẩy đến sự phát triển xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của dân chủ như một sức mạnh giải phóng, giải phóng ý thức tư tưởng, giải phóng mọi tiềm năng xã hội, nhờ đó phát huy được mọi khả năng sáng tạo, sáng kiến của nhân dân, tạo ra những nguồn lực dồi dào cho tiến bộ và phát triển. Như thế, việc phát huy dân chủ không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho tất cả mọi người có thể cống hiến năng lực của mình cho xã hội, mà còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho việc thực hiện cơ chế phản biện xã hội với tinh thần lành mạnh, xây dựng và phát huy trách nhiệm công dân. Nói cách khác, thông qua quá trình dân chủ hoá, trí tuệ của toàn dân được huy động và đóng góp vào sự phát triển chung của xã hội. Phát huy dân chủ đòi hỏi mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu. Các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Bên cạnh đó, cần không ngừng nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm 591
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội, đồng thời xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Thực hiện dân chủ còn phải đi đôi với tăng cường kỷ cương pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa; khắc phục mọi biểu hiện dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng “dân chủ” để chia rẽ khối đại đoàn kết, làm rạn nứt sự đồng thuận xã hội. Thứ tư, phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Quan điểm này của Hồ Chí Minh chứa đựng những nội dung rộng lớn cả về lý luận và thực tiễn về việc xây dựng một chế độ mới mà ở đó con người “sống với nhau có tình có nghĩa” và có điều kiện phát triển toàn diện. Để tạo ra được xã hội tốt đẹp ấy cách hành xử của con người phải mang tính nhân văn sâu sắc, phải thấm đẫm tình người, phải tạo nên cái Thiện bằng cách Thiện. Do vậy, việc tiếp tục phát triển hệ giá trị của con người trong thời đại mới hiện nay, nhằm làm cho phần Thiện trong mỗi con người, và trong toàn xã hội ngày càng “nảy nở như hoa mùa xuân” chính là một trong những biện pháp hết sức cần thiết. Phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam còn là sự khẳng định vai trò động lực tinh thần trong con người, tính năng động của yếu tố tinh thần đối với sự phát triển của xã hội và của chính bản thân con người. Có thể thấy, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên nhiều giá trị truyền thống quý báu, tiêu biểu là: yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc; đoàn kết; nhân ái; trung thực, trách nhiệm; cần cù, sáng tạo. Đó cũng chính là những giá trị tiêu biểu, cốt lõi của con người Việt Nam. Để làm cho những giá trị tốt đẹp này không ngừng nảy nở, lan toả và bồi đắp thêm đòi hỏi phải thực hiện những nội dung, như: chú trọng xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam phù hợp với điều kiện hiện nay; tiếp tục rà soát chính sách phát triển hệ giá trị của con người, bổ sung, hoàn thiện những chính sách đúng đắn còn tác dụng, loại bỏ những chính sách đã lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục, định hướng giá trị cho con người Việt Nam, đẩy mạnh phong trào “Thi đua yêu nước” gắn với cuộc vận động học 592
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn xã hội một cách thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, vận dụng sáng tạo phương pháp “nêu gương” của Hồ Chí Minh: trong gia đình, cha mẹ là tấm gương cho con cái; thầy cô giáo là một tấm gương về đạo đức tự học và sáng tạo để học sinh noi theo; ở ngoài xã hội, cấp trên nêu tấm gương cho cấp dưới. Đặc biệt, cần phải phát huy năng lực tự giáo dục giá trị của mỗi người dân; hình thành trong mỗi người dân năng lực đánh giá, thẩm định giá trị, để có thể phân biệt đúng - sai, tích cực - tiêu cực, cao cả - thấp hèn, thiện - ác, hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ để hoàn thiện bản thân. Chỉ có như vậy, mỗi người mới có thể chủ động đấu tranh với mọi hiện tượng tiêu cực để nâng mình lên trong mọi hoàn cảnh. Như thế, thực hiện theo những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc phát triển hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới chính là tiến hành cuộc cách mạng xã hội, tiến hành cải tạo/tự cải tạo trong mỗi con người. Thứ năm, khắc phục các trở lực trong việc phát huy nhân tố con người hiện nay. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chú ý đến việc phát huy các yếu tố tích cực, phát huy các động lực trong phát triển con người. Tuy nhiên, nét độc đáo trong cách tư duy biện chứng của Người là ở chỗ, bên cạnh việc chỉ ra các nguồn động lực của sự phát triển, Người còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt tiêu mặt tích cực trong mỗi con người, đó là chủ nghĩa cá nhân. Tác hại của chủ nghĩa cá nhân vô cùng lớn, nó sinh ra trăm thứ bệnh, như tham ô, lãng phí, quan liêu,... Chủ nghĩa cá nhân huỷ hoại chính con người, làm suy đồi con người, mất nhân tính, đi ngược xu thế phát triển của loài người. Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh, trước yêu cầu của tình hình mới hiện nay, bên cạnh việc phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con người, thì việc hạn chế và ngăn chặn những mặt tiêu cực kìm hãm sự phát triển của con người cũng là một trong những biện pháp hết sức quan trọng. Để làm được điều này, cần thiết phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về tác hại của chủ nghĩa cá nhân, lối sống cá nhân chủ nghĩa để mọi người biết phân biệt việc bảo vệ lợi ích cá nhân chân chính với chủ nghĩa cá nhân là hai nội dung khác nhau về bản chất. Bảo vệ lợi ích cá nhân chân chính là bảo vệ những lợi ích được pháp luật thừa nhận, bảo vệ; những lợi ích này không mâu thuẫn với lợi ích của người khác, của tập thể, cộng đồng, xã hội và cao hơn là lợi ích của Tổ quốc, dân tộc. Cần tuyên dương những tấm 593
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG gương người tốt việc tốt và nhân rộng những điển hình tốt, hình thành trong xã hội và trong mỗi người niềm tin về chân - thiện - mỹ. Trong tuyên truyền, giáo dục cần khơi dậy những giá trị truyền thống tốt đẹp như tinh thần nhân ái, lòng yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, nhân văn,... Bên cạnh đó, thực hiện từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật đề vừa giáo dục nhưng cũng vừa răn đe, ngăn ngừa, trừng trị thích đáng với những hành vi tham ô, lãng phí, tham nhũng, hành vi vi phạm lợi ích tập thể, cộng đồng, xã hội. Đồng thời, tích cực xây dựng, tạo lập môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội lành mạnh cho việc xây dựng con người mới sống có văn hóa, nghĩa tình, trách nhiệm. Bởi môi trường văn hóa tiến bộ, lành mạnh sẽ làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống xã hội, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hàng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với các sản phẩm độc hại. Ngoài ra, cần tích cực đẩy mạnh việc tự rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng và trong toàn xã hội, thực hành dân chủ trong Đảng là cơ sở để thực hành dân chủ rộng rãi trong toàn xã hội, phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. 3. KẾT LUẬN Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc luôn nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của nhân tố con người và lấy đó làm điểm tựa vững chắc là điều kiện để chúng ta đưa sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến thắng lợi. Phát huy nhân tố con người, luôn đặt con người - con người hiện thực - vào trung tâm của mọi suy nghĩ và hành động nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đó là một vấn đề có tính quy luật. Trong giai đoạn hiện nay, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện những di huấn của Người nhằm phát huy tối đa năng lực của con người trong lao động, trong hoạt động sáng tạo là yếu tố cơ bản đảm bảo thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. 594
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [3]. Hồ, C. M. (2011a). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 5). Chính trị quốc gia. [4]. Hồ, C. M. (2011b). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 6). Chính trị quốc gia. [5]. Hồ, C. M. (2011c). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 8). Chính trị quốc gia. [6]. Hồ, C. M. (2011d). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 10). Chính trị quốc gia. [7]. Hồ, C. M. (2011e). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 11). Chính trị quốc gia. [8]. Hồ, C. M. (2011f). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 12). Chính trị quốc gia. [9]. Hồ, C. M. (2011g). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 15). Chính trị quốc gia. 595
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học và vận dụng tư tưởng đó trong việc học tập của sinh viên
18 p | 2345 | 375
-
Bài thuyết trình môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
36 p | 3552 | 330
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 7 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới
18 p | 587 | 71
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức và xây dựng con người mới (34tr)
34 p | 812 | 64
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 2 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc
7 p | 264 | 35
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức, con người (2022)
32 p | 53 | 16
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2022)
52 p | 39 | 13
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 5: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế (2022)
21 p | 46 | 13
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Chương 6 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức, con người (2023)
32 p | 49 | 9
-
Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh: Chương 3 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (2023)
52 p | 65 | 8
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiết kiệm
8 p | 101 | 4
-
Ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: Phần 1
97 p | 4 | 4
-
Ebook Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam: Phần 2
182 p | 4 | 3
-
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay
9 p | 5 | 2
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
12 p | 3 | 2
-
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong nghiên cứu, giảng dạy ở các trường sư phạm
5 p | 4 | 1
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và những mốc phát triển quản lý giáo dục trong tiến trình 70 năm nền giáo dục Việt Nam
6 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn