intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Chia sẻ: Pham Quynh Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

377
lượt xem
160
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

  1. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng  Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
  2. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng MỤC LỤC Đặt vấn đề ...................................................................................................................... 1 Nội dung ......................................................................................................................... 2 I. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân .................................................... 2 1. Vị trí và vai trò của công nghiệp.............................................................................. 2 2. Cơ cấu ngành công nghiệp ....................................................................................... 3 II. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội ........................... 4 III. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua ........................................ 7 1. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua ....................................... 7 2. Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp Việt Nam ........................................................................................................................................ 9 IV. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước ........................................................................................... 11 1. Phương hướng phát huy vai trò công nghiệp trong quá trình CNH - HĐH đất nước ............................................................................................................................. 11 2. Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .......... 14 3. Các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trong thời kỳ CNH - HĐH đất nước ..................................................................................................................................... 19 V. Dự báo sự phát triển công nghiệp Việt Nam trong những năm tới.......................... 20 Kết luận ......................................................................................................................... 22 Tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 23
  3. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng đặt vấn đề Trong các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân thì công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất rất quan trọng. “Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội”. Trong nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay có nhiều thành phần kinh tế cùng nhau tham gia hoạt động đan xen nhau theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì vấn đề công nghiệp hoá-hiện đại hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan của lịch sử nước nhà. Quá trình này diễn ra trong điều kiện nước ta là một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển, tụt hậu khá xa so với các nước phát triển, thua kém nhiều đối với các nước trong khu vực về trình độ, khó khăn về vấn đề vốn, thị trường tiêu thụ, kinh nghiệm vận hành theo nền kinh tế thị trường và quản lý sản xuất kinh doanh theo cơ chế mới. Trong điều kiện như vậy cần nghiên cứu vấn đề công nghiệp của nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa là rất cần thiết. Liệu Việt Nam có thể đi lên thành một nước phát triển nhờ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hóa dựa trên cơ sở phát triển nghành công nghiệp được hay không đó là vấn đề mà chúng ta đang cần nghiên cứu. Thực tế đã chứng minh, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền sản xuất là điều kiện tiên quyết đối với hầu hết các nước đang phát triển muốn vươn lên hàng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao. Tuy nhiên đây không phải là một quá trình đơn giản, nó không đơn thuần là sự chuyển tiếp kinh tế, cơ cấu ngành sản xuất theo hướng tăng tỷ lệ công nghiệp trên nông nghiệp trong phạm vi toàn quốc, mà là một quá trình phức tạp, lâu dài. Đây là một quá trình chuyển đổi tổng thể, bao quát nhiều vấn đề quan trọng của nền kinh tế vĩ mô mà sự thành công hay không của quá trình này có tính quyết định đến mục tiêu CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân. ở nước ta, từ Đại hội Đảng lần thứ I (9/1960) đã đề ra chủ trương công nghiệp hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội và qua một thời gian dài trên ba mươi năm qua chủ trương đó của Đảng vẫn được quán triệt và thực hiện triệt để. Hướng chủ yếu để thực hiện CNH-HĐH ở Việt Nam là phát triển công nghiệp - là ngành có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và nó cũng có vai trò to lớn trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Không thể nào CNH-HĐH nếu không có sự phát triển công nghiệp vì CNH-HĐH không thể được thực hiện khi mà nền kinh tế lạc hậu kém phát triển. Đồng thời quá trình CNH-HĐH lại tạo điều kiện cho công nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ. Vì vậy việc nghiên cứu sự phát triển công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH là rất quan trọng và cần thiết.
  4. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng Nội dung I/ Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 1. Ví trí và vai trò của công nghiệp. Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân bao gồm tất cả các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, các xí nghiệp công nghiệp thực hiện chức năng khai thác, chế biến, sửa chữa. Sản phẩm của công nghiệp là toàn bộ công cụ lao động phần lớn đối tượng lao động và vật phẩm tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất của xã hội . Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hóa phát triển, sản xuất công nghiệp hoạt động theo nhu cầu của các quan hệ sản xuất hàng hóa như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,... Công nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vât chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân, trình độ phát triển của công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn đanh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong những năm qua, công nghiệp nước ta đã trải qua một quá trình lịch sử đầy thử thách gay go, ác liệt để tồn tại và phát triển. Công nghiệp nước ta đã bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, công nghiệp được vận động theo một trình tự nhất định như sau: Công nghiệp với tư cách là một loại lao động sản xuất nằm trong nông nghiệp do người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn để sản xuất ra các sản phẩm thủ công nghiệp có tính chất tự cấp tự túc phụ thuộc nền kinh tế nông nghiêp. Như C. Mác đã chỉ ra đó là sự phụ thuộc có tính chất nguyên thủy của công nghiệp đối với nông nghiệp . Công nghiệp tách khỏi nông nghiệp dưới hình thức nghề thủ công nghiệp độc lập. Nền sản xuất đó là nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Quá trình phát triển công nghiệp từ nền sản xuất hàng hóa nhỏ lên nền đại công nghiệp cơ khí qua 3 giai đoạn đó là: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí. Quá trình phát triển của công nghiệp vừa thể hiện sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội vừa thể hiện trình độ phát triển của nền sản xuất hàng hóa trong sản xuất công nghiệp cũng như ảnh hưởng của sự phát triển sản xuất công nghiệp đến trình độ phát triển sản xuất hàng hóa nói chung của nền kinh tế quốc dân . Nghiên cứu lịch sử phát triển công nghiệp cho thấy: “Công nghiệp không chỉ tái sản xuất cơ sở vật chất cho xã hội mà còn tái sản xuất ra các quan hệ sản xuất khác nhau trên bước đường phát triển của mình. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Tóm lại, công nghiệp là một phạm trù kinh tế với nhiều hình thức phát triển ở mức độ khác nhau như: công nghiệp gia đình, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp, công nghiệp hiện đại, công nghiệp tư bản chủ nghĩa, công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Nhưng đặc điểm chủ yếu của công nghiệp được biểu hiện trong việc áp dụng rộng rãi các hình thức phân công có tính chất kỹ thuật, trong sản xuất, sản phẩm có sự tồn tại của hệ thống máy móc, tính liên tục của quá trình sản xuất. Sản xuất công nghiệp có tính chuyên môn hóa.
  5. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng Quá trình phát triển sản xuất công nghiệp cả về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội đã khẳng định vai trò chủ đạo và từng bước phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân . Thực chất vai trò chủ đạo của công nghiệp là sự ảnh hưởng quyết định của công nghiệp đến việc phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những hình mẫu để các ngành kinh tế khác phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Vì công nghiệp có lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất tiên tiến hơn các ngành kinh tế quốc dân khác. Trong sản xuất công nghiệp con người sử dụng các công cụ lao động chủ yếu là máy móc thiết bị còn như nông nghiệp chỉ sử dụng công cụ lao động thô sơ. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được bắt nguồn từ chỗ nó tập hợp và không ngừng phát triển giai cấp công nhân đội quân tiên phong trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế, đổi mới xã hội. Do đó mà công nghiệp có quan hệ sản xuất luôn được củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nhân trong ngành công nghiệp có trình độ cao hơn trong sản xuất nông nghiệp. Đối tượng lao động của công nghiệp rất phong phú và đa dạng (cả tự nhiên và nhân tạo ). Mặt khác, sản xuất công nghiệp là sản xuất chuyên môn hóa phân công lao động và hợp tác lao động chặt chẽ. Hình thức sở hữu là hình thức toàn dân còn phân phối theo hình thức tiền lương: đây là hình thức phân phối tối ưu nhất và hình thức tổ chức quản lý ở trình độ cao nên hình thành các nhà máy, các xí nghiệp công nghiệp. Trong cách mạng quan hệ sản xuất: công nghiệp quyết định sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân chủ yếu lên sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa. Công nghiệp là ngành duy nhất trang bị công cụ lao động cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân khác.Vì vậy, tốc độ và sự phát triển của công nghiệp quyết định đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Đồng thời quá trình đó cũng tác động tới quá trình phân công lao động. Công nghiệp thông qua việc trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế (nhất là nông nghiệp). Như vậy, sức mạnh của công nghiêp không chỉ có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong bản thân công nghiệp mà còn có tác dụng to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân . Trong cách mạng khoa học kỹ thuật: "Công nghiệp giữ vai trò vô cùng to lớn .Vai trò đó thể hiện chủ yếu ở việc đem các thành quả của công nghệ áp dụng vào các ngành kinh tế quốc dân bằng cách trang bị kỹ thuật cho nó làm cho các ngành đó có những bước tiến mới về cơ sở vật chất kỹ thuật đẩy mạnh quá trình cách mạng khoa học kỹ thuật của mình Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa: Công nghiệp là tiền đề vật chất để thay đổi tận gốc các tư tưởng và văn hóa cũ, xây dựng tư tưởng và văn hoá mới, nânbg cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân góp phần bảo đảm sự phát triển và tiến bộ đồng đều giữa các vùng: vùng miền núi - đồng bằng, thành thị - nông thôn, lao động trí óc - lao động chân tay,... tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Ngoài ra trong các lĩnh vực khác: công nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của lĩnh vực đó. 2. Cơ cấu ngành công nghiệp. Xuất phát từ vai trò chủ đạo của công nghiệp ta xem xét đến cơ cấu kinh tế của công nghiệp. Cơ cấu ngành công nghiệp là số lượng ngành công nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong
  6. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện trình độ phát triển công nghiệp của đất nước, trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ tự chủ của nến kinh tế cũng như trình độ tăng năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất. Cơ cấu ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát huy vị trí chủ đạo của công nghiệp. Do đó, kế họach cơ cấu ngành công nghiệp là một bộ phận trọng yếu trong kế hoạch hóa công nghiệp . Vì vậy để kế hoạch hóa kinh tế ngành công nghiệp cần phải có sự nhận thức đầy đủ về các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp đó là: - Nhân tố ảnh hưởng quyết định là tiến bộ KHKT. Nhân tố này làm xuất hiện các ngành sản xuất công cụ lao động mới, làm xuất hiện nhiều ngành hiện đại như: chế tạo công cụ, sản xuất phương tiện tự động hóa , sản xuất máy vô tuyến, sản xuất vật liệu cao cấp. - Trình độ và tính chất phát triển của công nghiệp thể hiện ở mối quan hệ gắn bó lâu đời giữa hai ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế. Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm, lao động, nguyên liệu cho công nghiệp và là thị trường tiêu thụ sản phẩm cho công nghiệp. - Cơ cấu ngành công nghiệp phụ thuộc vào tình hình tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Nhân tố này tạo điều kiện tiên quyết hay hạn chế việc hình thành các ngành công nghiệp - Trên cơ sở đó xây dựng một cơ cấu công nghiệp phong phú và cũng thể hiện được tính riêng biệt, tính mũi nhọn của công nghiệp một nước. - Điều kiện lịch sử kinh tế xã hội sẽ để lại những đặc điểm riêng về cơ cấu công nghiệp mỗi nước, đồng thời cũng tạo ra những thay đổi cơ cấu công nghiệp trong thời kỳ. Phong tục, tập quán, truyền thống sản xuất công nghiệp ở mỗi nước cũng được thể hiên rõ nét trong cơ cấu. Nhân tố này tác động gián tiếp qua nhu cầu và là nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư. - Trình độ phân công lao động quốc tế , tính đa dạng của nhu cầu, sự khác nhau về diều kiện thuận lợi trong sản xuất ở các nước đòi hỏi bất kể nền kinh tế nào cũng cần có sự trao đổi kết quả hoạt động lao động, Chính vì vậy cần phải mở rộng . - Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, mở rộng thị trường thế giới. Các nhân tố trên tạo thành một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công nghiệp. Quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta cũng là quá trình cải tiến cơ cấu công nghiệp nói chung và cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng. ii/ quan đIểm của đảng ta về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và các lợi thế, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định, giải quyết cơ bản các vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách,... Con đường để đạt được nhanh nhất là công nghiệp hóa (CNH). Sự nghiệp CNH ở nước ta được bắt đầu từ năm l960, từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960). Đảng đã khẳng định: “nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là CNH XHCN mà mấu chốt là phát triển nền công nghiệp nặng”(1) và chủ trương CNH là “Xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm nền tảng, ưu tiên phát (1) Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960.
  7. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng triển công nghiệp nặng một cách hợp lý đồng thời ra sức phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ”(2). Chiến lược này được củng cố và bổ sung qua các thời kỳ đại hội IV (12/1976) V(1981) và các hội nghị trung ương, đại hội Đảng. Để thực hiện chiến lược này, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, tranh thủ sự viện trợ và giúp đỡ của các nước bạn XHCN... chú trọng một khoảng thời gian chúng ta đã hình thành được một nền kinh tế đa ngành, có các ngành quan trọng như cơ khí, luyện kim, điện năng, khai thác than... Đại hội đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đề ra đường lối: “ xây dựng kinh tế XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, xây dựng công nghiệp với nông nghiệp cả nước thành cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp…”(3). Sau năm 1975 thống nhất đất nước do vậy đòi hỏi phải có chiến lược CNH thích hợp hơn. Nhưng thực tế, đường lối CNH do Đảng đề ra vẫn giữ nguyên. Do chủ trương nôn nóng chủ quan duy ý chí và với sai lầm trong công tác chỉ đạo, trong cơ chế và chính sách nền thời kỳ đầu 1974-1980 nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng, cơ cấu kinh tế ngày càng trở nên bất hợp lý và mất cân đối nghiêm trọng. Nông nghiệp kém phát triển không đáp ứng được nhu cầu trong nước, công nghiệp nặng không phát huy được tác dụng. Thời kỳ 1976-1980 tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%; thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,6%. Trong khi đó dân số tăng 2,24%/năm, sản xuất công nghiệp bình quân chỉ tăng 0,6%, trong đó công nghiệp quốc doanh giảm 2,6%; sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 1,9%. Quá trình CNH diễn ra có nhiều khó khăn và chậm chạp vì thiếu những tiền đề kinh tế cơ bản. Hiệu quả kinh tế rất thấp so với nguồn vốn và công sức bỏ ra. Nguồn lực bị lãng phí nhiều, chưa có tích lũy nội bộ. Nóng vội trong cải tạo XHCN, hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể vì vậy không huy động được các nguồn lực trong nước tham gia vào CNH đất nước. Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quồc lần thứ V (3/1982) đã xác định: “Nội dung chính của CNH XHCN trong những năm tới là tập trung sự phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng” (4). Sự thay đổi đó bước đầu đã có tác dụng đến phát triển kinh tế - xã hội và CNH. Bình quân hàng năm sản xuất công nghiệp tăng 0,5%; TNQD tăng từ 20,5% năm 1980 lên 30% năm 1985. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa V của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân" (KTQD) và cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả" (5) và đại hội Đảng VI đã khẳng định : "Tiếp (2) Đảng Lao động Việt Nam . Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III, 1960. (3) Trang151 - Giáo trình Lịch sử Đảng. (4) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V. (5) Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VI.
  8. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng tục nắm vững hai chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa". Kể từ năm 1986, đây là thời kỳ đổi mới toàn diện và đồng bộ cả về nhận thức quan điểm và tổ chức chỉ đạo thực hiện Đại hội lần thứ VI (12/1986) đã xác định rõ quan điểm và chủ trương, phương hướng đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo” (6) và “Trước mắt là kế hoạch 5 năm 1986-1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu” (7). Từ quan điểm và chủ trương mới trên Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng cơ chế và bằng các chính sách biện pháp thực hiện cụ thể là: chính sách kinh tế nhiều thành phần, chính sách kinh tế đối ngoại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tài chính tiền tệ kiềm chế lạm phát, chuyển cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhờ vậy nền kinh tế đã vượt qua trạng thái suy giảm lạm phát đáng kể, điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, tiếp tục công nghiệp hóa. Lạm phát từ mức 3 con số năm 1986: 5887,2%; năm 1987:417,6% ; năm 1988: 410,9%; giảm xuống còn hai con số năm 1989: 30%; năm 1990: 52,8%. Tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng sản phẩm xã hội là 4,8%. Thu nhập quốc dân: 3,9%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp 5,2%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp 3,5%; giá trị xuất khẩu 28%; giá trị nhập khẩu 8%. Một số mặt hàng xuất khẩu cơ bản được hình thành như dầu mỏ, than đá, lâm hải sản, gạo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong tất cả các lĩnh vực tăng nhanh. Thu nhập quốc dân năm 1991 tăng 2,4% so với năm 1990, năm 1992 tăng 5,4% so với 1991. Sản lượng công nghiệp tăng 5,3% (1991) và 15,5% (1992). Cơ cấu công nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng thích hợp và có hiệu quả hơn. Năm 1986 cơ cấu tổng sản lượng công nghiệp, ngành điện lực chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hóa chất phân bón cao su 8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng các ngành đó là 5,1% - 15,9% - 9,4%. Giữa các ngành công nghiệp nhóm A và công nghiệp nhóm B đã bước đầu có sự điều chỉnh trong sự phát triển theo hướng chú trọng thích đáng hơn đến các ngành công nghiệp nhóm B để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước và để sử dụng tốt hơn các nguồn lực với kỹ thuật truyền thống lao động. Công nghiệp ngoài quốc doanh đã được phát triển chiếm 31,4% (1976) và 43% (1989) còn công nghiệp quốc doanh năm 1989 chiếm 57%. Để tiếp tục những quan điểm, chủ trương chính sách đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991) đã chỉ rõ: “Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường XHCN điều quan trọng nhất là phải cải tiến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, phát triển lực lượng sản xuất CNH theo hướng hiện đại gắn liền với việc phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở (6) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. (7) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
  9. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng vật chất kỹ thuật của XHCN không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” (8). Đại hội Đảng VII cũng xác định mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991-1995): “Đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” (9) . Quá trình đổi mới đã tạo nên được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, thành tựu CNH trong những năm 1991,1992,1993 cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực tế hơn so với nhiều năm trước đây - lạm phát được kiềm chế, tốc độ tăng giá trị xuất khẩu lớn hơn tổng sản phẩm xã hội. Cán cân thanh toán chuyển từ thiếu hụt 9% GDP giữa năm 1980 sang thặng dư 2%GDP. Tổng sản phẩm trong nước 1991 tăng 6,1% so với năm 1990. Trong đó giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 10,4%; nông nghiệp tăng 1,9%; xuất khẩu tăng 13,2%.Sự phát triển công nghiệp trong những năm đổi mới không chỉ thể hiện ở tốc độ tăng trưởng mà quan trọng hơn là ở sự chú trọng đổi mới công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, và ở sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất gắn với thị trường trong và ngoài nước, phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động đến sự phát triển chung của nền KTQD và đa dạng hóa các loại hình tổ chức kinh doanh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã coi “Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng nhanh hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Đến đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (7/1996) Đảng ta đã quán triệt tư tưởng CNH: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa với nhịp độ tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả" (10) và đạ hội VIII xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam đến năm 2020 và năm 2000 là: ” Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của công nghiẹp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phong, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” (11). Đại hội xác định: Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển- đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thữ IX (4/2001) của Đảng đã xác định: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển sản xuất, đồng thời xây dưng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN…” (12). Để thực hiện đường lối và chiến lược kinh tế, đến năm 2010, Đại hội đề ra chủ trương, giảI pháp sau: - Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm. (8) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. (10) Trang 33- Văn kiện Đại hội Đảng VIII. (11) Trang 174 – Giáo trình Lịch sử Đảng. (12) Trang 182 – Giáo trình Lịch sử Đảng.
  10. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng - Phát triển kinh tế nhiều thành phần (3 hình thức sở hữu cơ bản và 6 thành phần kinh tế) - Tiếp tục lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế nhà nước, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Các quan đIểm của Đảng về vấn đề công nghiệp qua các kỳ đại hội đã và đang xuyên suốt sự phát triển của công nghiệp Việt Nam. Iii/ Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua 1. Thực trạng công nghiệp Việt Nam trong những năm qua. Trong những năm gần đây, nhất là trong quá trình đổi mới, khu vực công nghiệp phải đương đầu với những khó khăn khá gay gắt. Do những khuyết điểm, sai lầm trong quá khứ về chính sách cơ cấu và chính sách đầu tư, đến nay công nghiệp nước ta có trên 4584 xí nghiệp nhưng trình độ công nghệ chỉ đạt từ 60%-70% mức trung bình của thế giới. Thậm chí có loại chỉ bằng 15-20%. Nhiều loại thiết bị sử dụng đã làm cho mức hao phí nguyên liệu gấp 2 đến 3 lần mức trung bình của thế giới. Nét nổi bật là thiết bị cũ, thiếu phụ tùng thay thế, thiếu bảo dưỡng và sửa chữa nên thiết bị ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Phần lớn các xí nghiệp chỉ mới hoạt động 50%-60% công suất máy. Trình độ sử dụng tài sản thấp phổ biến là làm việc 1 ca (36%). Do chưa ý thức đầy đủ về giá thành và chất lượng, nhất là chưa có quan điểm rõ ràng việc nâng cao đặc tính kỹ thuật của sản phẩm và quy trình sản xuất nên giá thành sản phẩm sản xuất thường cao, chất lượng kém, mẫu mã xấu, vì thế sản phẩm khó tiêu thụ trên thị trường. Nhiều xí nghiệp đòi hỏi được HĐH nhưng lại gặp phải khó khăn về nguồn vốn đầu tư. Sự phát triển quá lớn về lượng của các xí nghiệp công nghiệp địa phương càng làm gay gắt thêm tình trạng mất cân đối của nền kinh tế và gây lãng phí lớn trong sử dụng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên vật liệu. Hiện nay bình quân mỗi tỉnh, thành phố có 60%- 70% xí nghiệp công nghiệp, quá khả năng cho phép của một địa phương. Tuy nhiên cùng với chính sách chuyển dịch cơ cấu, chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo đường lối Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhiều cơ sở kinh tế, nhất là các xí nghiệp quốc doanh trung ương đang thích ứng dần với môi trường kinh doanh mới, bước đầu duy trì, ổn định và phát triển sản xuất. Điểm nổi bật là hầu hết các xí nghiệp dần dần gắn sản xuất với thị trường, chú ý đầu tư chiều sâu, đổi mới mặt hàng, quan tâm đến chi phí giá thành. Một số xí nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi thực sự và tăng nhanh khoản nộp cho ngân sách Nhà nước (như liên hiệp xí nghiệp xi măng năm 1990 nộp ngân sách gấp 19 lần năm 1991). Đây là những chuyển biến bước đầu trong công nghiệp và có thể xem xét đánh giá thực trạng cơ cấu công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua: Thời gian năm 1955-1975. Đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất của nền công nghiệp nước ta. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc chúng ta đã nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh. Cho đến nay hầu hết nhà máy lớn còn tồn tại và phát huy tác dụng đều được xây dựng trong thời kỳ
  11. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng này như: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, cơ khí Trung tâm (Cẩm Phả), Khu Gang thép Thái Nguyên, phân đạm Hà Bắc, phân lân Văn Điển, Apatít Lào Cai... Hàng loạt nhà máy điện được xây dựng mới: điện Vinh, Lao Cai, Uông Bí, Ninh Bình, Quảng Ninh,... được khôi phục cải tạo và phát triển. Trong công nghiệp nhẹ, chúng ta đã xây dựng một số cơ sở tương đối lớn như khôi phục và mở rộng nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, xây dựng nhà máy dệt kim 8/3…. Do những nỗ lực trên giá trị tổng sản lượng công nghiệp đã tăng lên với nhịp điệu nhanh. Đó là thời kỳ công nghiệp phát triển công nghiệp theo chiều rộng với số vốn đầu tư khá lớn và cũng nhanh chóng phát huy tác dụng, mức huy động công suất máy móc, thiết bị khá cao. Với cơ cấu công nghiệp như vậy góp phần vào việc phát triển các ngành kinh tế khác, trước hết là nông nghiệp có tác động trực tiếp vào nâng cao mức sống toàn dân. Với chủ trương xây dựng kinh tế địa phương làm hậu cần tại chỗ nên công nghiệp địa phương thời kỳ phát triển mạnh nhất là ngành cơ khí địa phương. Tính đến năm 1975 miền Bắc có 1337 xí nghiệp quốc doanh và công tư hợp doanh với 35,5 vạn lao động, khu vực sản xuất tiểu thủ công nghiệp 309 hợp tác xã cùng hàng vạn tổ sản xuất với 60,4 vạn lao động. Giá trị tổng sản lượng đạt 4 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng thu nhập quốc dân (miền Bắc bằng 53,6% tổng sản lượng công nông nghiệp). Thời kỳ 1976 – 1985. Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp đã có thay đổi nhất định. Đây là thời kỳ cả nước có nhiều biến động. Vừa qua khỏi cuộc chiến tranh kéo dài mấy thập kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và phía Tây Nam của Tổ quốc. Nền kinh tế bị bao vây, Trung Quốc cắt viện trợ, các nước phương Tây tẩy chay chúng ta chỉ còn lại Liên Xô là đang giúp đỡ. Trong thời kỳ này nhiều dự án đầu tư với số vốn lớn đã không thực hiện được. Nhiều máy móc thiết bị toàn bộ nhập về không lắp ráp được hoặc xây dựng xong phải đóng cửa vì thiếu nguyên vật liệu v.v... Thành quả lớn nhất của thời kỳ này là đã cố gắng duy trì năng lực sản xuất của công nghiệp nhẹ và thực phẩm đồng thời xây dựng một số cơ sở như giấy Bãi Bằng, điện Phả Lại, điện Hòa Bình, Trị An, xi măng Bỉm Sơn và Hoàng Thạch v.v... Kết quả đã làm cho tài sản cố định tăng 2,5 lần số lượng xí nghiệp quốc doanh tăng 1,4 lần. Số lượng công nhân tăng 1,3 lần, khối lượng sản phẩm tăng gấp 2 lần so với trước năm 1975. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở sản xuất nhiều, lực lượng lao động đông đặc, song mất cân đối (thiếu điện, nguyên liệu, phụ tùng thay thế v.v...) nên không huy động được công suất vốn có, chậm đưa cơ sở mới đầu tư vào hoạt động. Sản phẩm thiếu thị trường tiêu thụ. Thời kỳ từ 1986 cho đến nay. Nét nổi bật là hầu hết các cơ sở công nghiệp cấp huyện và một số cấp tỉnh, thành quản lý đều đứng bên bờ vực của phá sản. Đối với ngành cơ khí chế tạo máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu, mặt hàng không thích hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Các cơ sở sửa chữa cơ khí hầu hết đều không có việc làm, rơi vào tình trạng bế tắc. Một số ít cơ sở công nghiệp tìm đường ra bằng cách đa dạng hóa sản phẩm, chuyển mạnh sang sản xuất
  12. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng theo đơn đặt hàng của các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, giao thông vận tải v.v… Ngành luyện kim cả kim loại màu và kim loại đen cũng gặp không ít khó khăn, sản xuất cầm chừng. Ngành dệt và may còn duy trì và phát triển được do nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Nhiều cơ sở đã mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị như dệt khổ rộng, nâng cấp sản phẩm, tạo nguyên liệu cho ngành may có điều kiện sản xuất những loại quần áo đáp ứng nhu cầu thị hiếu nước ngoài. Ngành năng lượng nhờ sự đầu tư tập trung của Nhà nước đã phát triển khá mạnh do đưa vào sử dụng những cơ sở năng lượng quy mô lớn. Bên cạnh đó là những thành tựu về khai thác dầu lửa ở thềm lục địa phía Nam góp một tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu của ngân sách Nhà nước. Qua nghiên cứu quá trình biến đổi cơ cấu ngành công nghiệp ta thấy được ta thấy được mới chỉ là những buổi ban đầu của công nghiệp, khó khăn vẫn còn lớn, nhiều xí nghiệp đang đứng trước quy mô phá sản, thua lỗ kéo dài, không có khả năng hoàn trả vốn. 2. Những nguyên nhân chủ yếu gây nên hạn chế về phát triển công nghiệp Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu thực trạng nền công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, ta đã thấy được những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của nền công nghiệp nước ta. Những thành tựu do công nghiệp đạt được thật vô cùng to lớn góp phần nâng cao TNQD, giúp cho các ngành khác phát triển, bản thân ngành công nghiệp cũng đạt được những thành quả lớn, đã từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, dần dần hình thành các khu công nghiệp hóa. Giá trị tổng sản lượng của công nghiệp trong nền KTQD ngày càng tăng. Bên cạnh đó những hạn chế về sự phát triển công nghiệp không nhỏ, trình độ kỹ thuật chưa cao, chưa phát huy hết vai trò chủ đạo của mình trong nền KTQD. Công nghiệp còn vấp phải nhiều khó khăn làm không phát huy hết vai trò của mình, mà một trong những nguyên nhân đó là : - Trong quá trình phát triển công nghiệp nước ta đã gặp phải một khó khăn lớn là phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến tranh đã gây nên nhiều thiệt hại cho nền kinh tế nước ta, trong đó công nghiệp chịu một phần không nhỏ. Nhiều nhà máy bị phá hủy gây nên tình trạng nền công nghiệp gặp nhiều khó khăn. - Quá trình quản lý kinh tế của Đảng đã mắc nhiều sai lầm , chủ quan duy ý trí , nóng vội trong chủ trương CNH-HĐH đất nước bằng con đường đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng. Do vậy làm cho công nghiệp khó phát huy được vì không thể một chốc một lát phát triển ngay công nghiệp nặng mà muốn phát triển công nghiệp phải qua phát triển công nghiệp nhẹ trước mới phù hợp vói điều kiện ở nước ta. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đã gây không ít khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
  13. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng - Chúng ta chưa xác định rõ ràng hướng đi của CNH cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của đất nước. Nhận thức về CNH còn đơn giản, phiến diện và đồng nhất cách đi rập khuôn máy móc lý luận và mô hình CNH ở Liên Xô. Do vậy quá trình CNH ở nước ta diễn ra chậm. Mà quá trình CNH có quan hệ đến quá trình phát triển công nghiệp làm cho quá trình phát triển công nghiệp cũng chậm lại. - Chiến lược phát triển kinh tế xã hội có ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành và phát triển công nghiệp nước ta. Từ chiến lược đề ra cơ cấu công nghiệp hợp lý nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng của đất nước về lao động, tài nguyên, tiền vốn, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội với hiệu quả cao. - Quá trình phân công lao động ở nước ta chưa thực sự phát huy tác dụng, việc chuyên môn hóa bước đầu được thực hiện nhưng chưa cao, các mối liên hệ giữa các ngành đã được hình thành nhưng chưa chặt chẽ. Việc đưa khoa học kỹ thuật vào nước ta còn ồ ạt, thiếu chọn lọc. Quá trình chuyển giao công nghệ không chọn được công nghệ phù hợp nhập vào trong nước những công nghệ quá lạc hậu hoặc quá hiện đại mà chúng ta không sử dụng được do yếu về trình độ. Có những công nghệ nhập về lại phải mời chuyên gia về gây tốn kém và không sử dụng hết công suất của máy. - Đối với những nước chậm phát triển như nước ta, tài nguyên thiên nhiên là nhân tố quan trọng trong việc phát triển công nghiệp. Với tiềm năng nguyên liệu hiện có chúng ta có điều kiện hình thành các ngành công nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến và thu hút được lực lượng lớn lao động. Tuy nhiên việc khai thác tài nguyên của nước ta chưa hợp lý, làm cạn kiệt những nguồn tài nguyên thiên nhiên quý và không chú trọng cải tạo khôi phục những nguồn tài nguyên hữu hạn. - Trong điều kiện hiện nay của nước ta, nền kinh tế là nền kinh tế mở do vậy thị trường không còn bó hẹp trong nước mà đã mở rộng ra khu vực và thế giới. Nhưng sản phẩm công nghiệp của nước ta không chinh phục được thị trường, chưa được thị trường chấp nhận, do vậy sản phẩm sản xuất không bán được ra thị trường thế giới. - Bên cạnh đó là những điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Mỗi giai đoạn lịch sử phát triển đều có một trình độ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất do vậy công nghiệp phải thường xuyên thay đổi và điều chỉnh cho phù hợp điều kiện lịch sử. Từ tất cả những nguyên nhân trên nên công nghiệp nước ta hiện nay chưa phát huy hết vai trò của mình. IV/ Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò công nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước 1. Phương hướng phát huy vai trò công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước. a- Một số quan điểm và định hướng về phát triển cơ cấu công nghiệp trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
  14. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản và quan trọng nhất, chi phối các tiêu chuẩn khác và chi phối quá trình CNH-HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Hiệu quả xã hội là mục tiêu còn hiệu quả kinh tế là phương tiện. Hiệu quả kinh tế xã hội có liên quan đến yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường văn minh gắn với hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ, gắn với cơ cấu kinh tế mở cửa và chiến lược thị trường hướng ngoại, gắn với mô hình phát triển chiều sâu, gắn với việc tạo công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời đại ngày nay công nghiệp hóa phải gắn với HĐH. Phải triệt để khai thác lợi thế phát triển, muốn phát triển công nghiệp, từ những yêu cầu vượt qua ranh giới nước nghèo, rút ngắn khoảng cách lạc hậu của nước ta so với các nước phát triển. Gắn một cách hữu cơ giữa việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa với phát triển mô hình kinh tế thị trường và theo sau đó là mô hình cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.Quan điểm này phản ánh mối quan hệ về sự phát triển giữa lực lượng sản xuất (gắn với khoa học công nghệ) với quan hệ sản xuất (gắn với quan hệ kinh tế hàng hoá - tiền tệ). Quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đặt trong sự gắn bó giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cùng với cơ cấu kinh tế mở cửa và theo đó là chiến lược thị trường hướng ngoại... Quan điểm này bắt nguồn từ sự phát triển không đều về lợi thế so sánh giữa các nước với nhau và xu hướng quốc tế hóa gắn với sự xuất hiện những gay cấn mang tính toàn cầu. b- Những bài học kinh nghiệm của quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nước ta. Từ thực trạng của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của công nghiệp đất nước và những kết quả bước đầu của quá trình đổi mới, từ việc xem xét và đánh giá một cách toàn diện hơn quá trình xây dựng cơ cấu công nghiệp trong mấy chục năm qua nhất là từ năm 1976 đến nay, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau: - Vốn đầu tư bỏ ra cho quá nhiều dự án, không ưu tiên và xem xét một cách toàn diện và khoa học, do đó thời gian xây dựng được kéo dài, nhiều công trình dở dang. Chưa dự tính một cách đúng đắn những hạn chế nguồn vốn, nguyên liệu (đặc biệt là nguyên liệu nhập khẩu) nên công suất thiết bị sử dụng và hiệu quả hoạt động thấp. - Một nền công nghiệp khép kín mang nặng tính tự cung tự cấp được hình thành, việc phát triển hướng nền xuất khẩu không được quan tâm đúng mức. - Các xí nghiệp không được chuyên môn hóa đầy đủ , thiết bị lạc hậu thiếu đồng bộ, thiếu sự hợp tác với nhau, đặc biêt thiếu sự liên kết ngang, ít có quan hệ giữa các đơn vị và với các ngành kinh tế khác . - Yếu tố thị trường bị xem nhẹ, vì vậy công tác cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm không được quan tâm đầy đủ.
  15. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng - Chưa có biện pháp và chính sách thỏa đáng đối với tiểu thủ công nghiệp và sử dụng các thành phần kinh tế khác để có thể khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng và các ngành nghề truyền thống cũng như thu hút lực lượng lao động vào sản xuất . Đúng như Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nhận định, chúng ta đã đề ra những chỉ tiêu quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng sự việc khôi phục sắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung giải quyết về vấn đề lương thực, thực phẩm , phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp. Trên những bài học kinh nghiệm trên ta rút ra phương hướng, biện pháp phát triển đối với quá trình CNH - HĐH và phát triển công nghiệp nước ta. c- Phương hướng CNH-HĐH các ngành KTQD nước ta trong những năm tới. - Phát triển các ngành KTQD dựa trên cơ sở và kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại nhằm thực hiện mục tiêu cuối cùng là " thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ", “…tạo điều kiện cho nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc " (Võ Văn Kiệt - báo Nhân dân 9/2/l993). - Phát triển đồng thời cả 3 lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong một hệ thống mở với cơ cấu năng động, có hiệu quả và chuyển dịch theo huớng CNH-HĐH. - Phát triển công nghiệp chế biến gắn bó các nông lâm ngư nghiệp để đáp ứng nhu cầu trong nước đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế sinh thái, bảo vệ môi trường và tài nguyên. - Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu các loại thông thường, tăng mức đáp ứng, nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của nhân dân và đẩy mạnh xuất khẩu tạo nhiều việc làm , tạo nguồn tích lũy ban đầu cho CNH. - Phát triển có sự lựa chọn các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, khai thác và chế biến khoáng sản. Ưu tiên phát triển các ngành xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (đường, cầu cống , điện , nước ...) phục vụ cho sản xuất và đời sống . - Phát triển mạnh các ngành và các hoạt động dịch vụ với một cơ cấu đa dạng, chất lượng ngày càng cao , trình độ ngày càng văn minh hiện đại để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực gắn liền với phục vụ tốt nhất các ngành sản xuất vật chất và các ngành này thực hiện tốt mục tiêu chung của chiến lượng phát triển kinh tế - xã hội . - Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải dựa trên cơ sở áp dụng nhanh chóng và có hiệu quả tiến bộ khoa học và công nghệ vào tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ ... Do vậy mục tiêu và phương hướng của quá trình này là: - Nâng cao trình độ trang bị kỹ thuật và đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ nhằm tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ có chất lượng tốt hơn chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và tạo ra nhiều việc làm hơn. - Kết hợp kỹ thuật và công nghiệp nhiều trình độ theo hướng sử dụng tốt kỹ thuật và công nghiệp hiện có chưa được khai thác và sử dụng tốt, hiện đại hóa kỹ thuật và công
  16. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng nghệ truyền thống đi thẳng vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại ở nơi có nhu cầu và có điều kiện. - Chú trọng áp dụng công nghệ vừa có hiệu quả về mặt kỹ thuật, vừa có hiệu quả cao về kinh tế xã hội và bảo vệ được môi trường . - Thực hiện phương pháp tổ chức sản xuất và tổ chức lao động khoa học trong tổ chức quản lý quá trình phát triển kinh tế xã hôi. - Công nghiệp hóa các ngành KTQD phải thúc đẩy phân công lao động xã hội theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình này cần có điều kiện và biện pháp thực hiện sau: Giải quyết vấn đề sở hữu, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, chú trọng phát triển các công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh đưa chúng trở thành loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu. Sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh theo hướng đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả và làm cho xí nghiệp quốc doanh có tác dụng như là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước . - Giải quyết tốt quan hệ phát triển với đầu tư tiết kiệm và tiêu dùng, tăng tỷ lệ đầu tư trong GDP lên trên 20% chủ yếu bằng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tăng nhanh và nhiều phần đầu tư từ tư nhân và doanh nghiệp. - Khôi phục mọi nguồn vốn trong nước đồng thời thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài: liên doanh hợp tác kinh doanh . - Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh . - Thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống. - Trên cơ sỏ quán triệt chiến lược con người cần có hệ thống biện pháp đồng bộ về phân bố, sử dụng đào tạo, bồi dưỡng người lao động. - Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của liên kết kinh tế giữa các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. - Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp CNH- HĐH nhanh và có hiệu quả ... 2. Phương hướng phát triển công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức và đánh giá đúng vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về mặt phương pháp luận và về tổ chức chỉ đạo thực tiễn. Từ kinh nghiệm của các nước có điểm suất phát giống như nước ta, từ điều kiện cụ thể về tài nguyên lao động và các nguồn lực khác cũng như những nguồn lực có thể thu hút từ bên ngoài, sự lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển những lĩnh vực kinh tế chủ yếu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện sự kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực này trong hệ thống kinh tế mở là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Vì vậy phải có ý thức phát triển nông -lâm ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiêm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế-xã hội, tăng tốc độ và tỷ trọng công nghiệp, mở
  17. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng rộng kinh tế dịch vụ, tăng cường cơ sở hạ tầng, bước đầu đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nông nghiệp đạt khoảng 4%-5%, của công nghiệp đạt khoảng 10%-l2% (trích: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000- nhà xuất bản sự thật - Hà nội - l990 ). Trên cơ sở đó tạo ra những tiền đề cần thiết để thực hiện thắng lợi chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội lần thứ V của Đảng đã đề ra, tạo điều kiện cho quá trình CNH-HĐH đất nước cho giai đoạn tiếp theo . Từ một nước nông nghiệp phổ biến là sản xuất nhỏ, trong điều kiện của nền kinh tế mở, sự lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế chủ yếu là một nhiệm vụ đặc biệt có ý nghĩa. Trong thập kỷ tới, nông nghiêp vẫn có vị trí quan trọng, giá trị sản lượng không ngừng tăng lên, song tỷ trọng của nó trong nền kinh tế sẽ giảm dần trong tổng sản phẩm quốc dân và cùng với quá trình ấy là sự tăng lên của các ngành sản xuất công nghiệp. Vì vậy cần khắc phục tình trạng thuế gắn bó giữa công nghiệp và nông nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) ở cả đầu vào và đầu ra. Theo hướng phát triển đó, quá trình phát triển công nghiệp của nước ta cần đảm bảo yêu cầu khách quan sau đây: -Thực hiện sự kết hợp giữa phát triển công nghiệp và nông nghiệp. - Xây dựng công nghiệp với nhiều loại hình công nghệ sử dụng nhiều lao động. - Xây dựng công nghiệp với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. - Xác định ngành công nghiệp mũi nhọn đã có chính sách đầu tư thoả đáng và tạo điều kiện thâm nhập thị trường thế giới . - Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác quốc tế thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nước ngoài tạo bước nhảy vọt trong kỹ thuật và công nghệ . Với những yêu cầu khách quan trên, phương hướng phát triển công nghiệp trong thời gian tới là: - Phương hướng chủ yếu và quan trọng nhất là xây dựng một cơ cấu kinh tế công nghiệp hợp lý. Cơ cấu công nghiệp là số lượng ngành công nghiệp chuyên môn hóa và mối liên hệ kinh tế sản xuất giữa các ngành đó biểu hiện quan hệ tỷ lệ về mặt lượng trong lĩnh vực sản xuất giữa các ngành đó với nhau. Cơ cấu ngành công nghiệp phản ánh những tác dụng chủ yếu sau: - Trình độ phát triển và mức độ hoàn chỉnh công nghiệp của đất nước: Công nghiệp càng phát triển và cơ cấu càng hoàn chỉnh thì càng phát huy vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân. Nó cho phép xác lập nên những cân đố mới mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn cho công nghiệp và cho nền KTQD. - Cho thấy mức độ tự chủ của nền kinh tế nước nhà. Sự xuất hiện ngày càng nhiều số lượng các ngành chuyên môn hóa và sự liên hệ giữa chúng với nhau bảo đảm cho việc sản xuất ngày càng nhiều với chất lượng cao, các mặt hàng về tư liệu sản xuất, và tư liệu tiêu dùng phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tăng cường tiềm lực kinh tế. - Cho thấy trình độ phát triển kỹ thuật và trình đô xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp cũng như các ngành khác của nền KTQD.
  18. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng - Cho thấy trình độ năng suất lao động xã hội và mức độ hiệu quả của sản xuất công nghiệp. Với cơ cấu công nghiẹp hoàn chỉnh cho ta thấy được năng suất lao động ngày càng tăng lên. Bởi vì trong quá trình sản xuất chúng ta đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, tận dụng hết công suất máy móc, làm cho tốc độ tăng sản lượng lớn hơn tốc độ tăng đầu tư, giá thành sản hàng năm hạ xuống, năng suất lao động tăng lên. - Việc xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp gắn với quá trình CNH là một nội dung quan trọng trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Nó thể hiện mức độ hoàn chỉnh hợp lý của sự phát triển của bản thân công nghiệp về mặt phân công lao đông thể hiện cách thức thực hiện mối quan hệ cân đối theo những tỷ lệ nhất định trong quá trình từng bước xây dựng một nền công nghiệp tương đối hoàn chỉnh trong khuôn khổ của một nền kinh tế độc lập, tự chủ . Để thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước chúng ta phải xây dựng một cơ cấu công nghiệp tương đối hoàn chỉnh, cân đối và hiện đại và phải phấn đấu tiến lên xây dựng một cơ cấu công nghiệp tiên tiến, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu của nền KTQD với chi phí lao động xã hội ít nhất và thời gian ngắn nhất đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế của toàn bộ sản xuất xã hội. Do đó phải kế hoạch hóa cơ cấu của công nghiệp, cần phải biết phân loại đúng đắn các ngành công nghiệp, phải xác định mối liên hệ sản xuất và vị trí của ngành đó cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến nó. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp nhưng có 6 nhân tố cơ bản là: tiến bộ khoa học - kỹ thuật, trình độ và tính chất phát triển công nghiệp, trình độ và tính chất phát triển nông nghiệp, tình hình tài nguyên thiên nhiên, điều kiện lịch sử kinh tế chính trị xã hội và trình độ phân công lao động quốc tế. Các nhân tố này tạo nên một hệ thống phức tạp có quan hệ mật thiết với nhau và đồng thời phát huy tác dụng ảnh hưởng đối với cơ cấu ngành công nghiệp. Qua việc xem xét phân tích các nhân tố cho ta thấy ý nghĩa to lớn của nó trong việc xây dựng một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hệu quả. Một cơ cấu công nghiệp hợp lý và có hiệu quả phải là: - Một cơ cấu có khả năng phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hóa cũng như các ngành tiểu thủ công nghiêp. - Một cơ cấu có khả năng sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động. - Một cơ cấu sử dụng hợp lý nguyên liệu của các ngành khai thác nông lâm, ngư nghiệp. - Một cơ cấu phải phát triển ngành đáp ứng nhu cầu thiết yếu hiện nay là sản xuất, tiêu dùng và phục vụ xuất khẩu . Như vậy cơ cấu ngành công nghiệp hơp lý và có hiệu quả phải là cơ cấu ngành đảm bảo cho năng suất lao đông xã hội tăng nhanh thỏa mãn mục đích của nhân dân mà quy luật kinh tế cơ bản yêu cầu. Một trong những hướng phát triển trong công nghiệp nước ta là phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp. Việc hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến không nên phân bố theo địa lý hình thành mà nên theo vùng lãnh thổ trên cơ sở tiềm năng và ưu thế của từng vùng.Như vậy sẽ hình thành các loại xí
  19. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, chế biến các sản phẩm nông nghiệp chế biến thủy sản. Cùng với quá trình hình thành hệ thống công nghiệp chế biến là quá trình phân công lại lao động trong công nghiệp. thu hút một bộ phận đáng kể lao động vào hoạt động chế biến, bảo quản và vận chuyển. Đồng thời từng bưóc hoàn thiện cơ sở hạ tầng để phục vụ cho hoạt động chế biến có hiệu quả hơn. Đối với những xí nghiệp chế biến sản phẩm xuất khẩu cần đầu tư thiết bị đông bộ và hiện đại để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, tạo lập uy tín dtrên thị trường thế giới giảm dần và tiến tới chấm dứt việc xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu. Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hợp tác gia công làm hàng xuất khẩu. Phương châm đúng là tận dụng khả năng của các thành phần kinh tế, sử dụng lao động, tạo ra sản phẩm tiêu dùng nội địa ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Mở rộng hình thức gia công, liên doanh hợp tác với nước ngoài để làm hàng xuất khẩu là biện pháp và sách lược quan trọng nhất để từng bước hiện đại hóa các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Chú trọng các ngành may mặc, dệt da cao su, chất dẻo, sứ thủy tinh, dược phẩm, mỹ phẩm, đồ điện tử và cơ khí nhỏ. Trong quá trình phát triển cần sử dụng nhiều loại hình công nghệ, nhiều loại quy mô khác nhau phát triển rộng khắp ở trong nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, hình thành một số khu chế xuất do nước ngoài đầu tư kinh doanh. Công nghiệp năng lượng nhiên liệu là ngành công nghiệp nước ta có nhiều tiềm năng. Nhà nước đã chú ý đầu tư cho ngành này, đặc biệt là năng lượng điện. Trong thời gian tới chúng ta vẫn phát triển mạnh nguồn điện, ưu tiên thủy điện, bảo đảm sự đồng bộ và chất lượng của hệ thống truyền tải phân phối và thiết bị bảo vệ để giảm bớt mức tổn hao điện, đáp ứng nhu cầu điện ở Miền trung và Miền Nam, phấn đấu tăng 2,5 đến 3 lần sản lượng điện trong 10 năm tới. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác liên doanh với nước ngoài trong việc thăm dò và khai thác, chế biến dầu khí. Xây dựng công nghiệp lọc dầu, sản xuất một số sản phẩm từ dầu khí. Mục tiêu sản lương dùng cho thời kỳ l99l-l995 là từ 2O-25 triệu tấn... Từng bước đưa ngành dầu khí thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước . Xây dựng và phát triển ngành khai thác than ( trữ lượng đã được xác định từ 3-3,3 tỷ tấn) chúng ta đã có tiềm năng để mở rộng ngành khai thác than đặc biệt là than gầy có chất lượng cao. Trong thời gian tới tăng sản lượng khai thác than từ 6-7 triệu tấn, hiện nay, lên khoảng 10 triệu tấn đến năm 2000. Để đạt chỉ tiêu sản lượng này cần có những thiết bị sử lý nguyên liệu, vận chuyển và phát triển cảng kể cả một số cầu tàu để vân chuyển than, sang từng bước hiện đại và hoàn thiện: phương tiện khai thác và vận chuyển chùng ta sẽ mở rộng sự hợp tác với nước ngoài để khai thác một số mỏ với kỹ thuật cao. Đối với công nghiệp cơ khí, trước hết cần sắp xếp lại các xí nghiệp hiện có. Những xí nghiệp làm ăn thua lỗ, chất lượng kém, cần được tổ chức lại một cách thích hợp, Trọng tâm của ngành là sản xuất các loại phụ tùng, linh kiện thaty thế nhập khẩu để trang bị và sửa chữa cho các ngành khác chế tạo các loại thiết bị canh tác nhỏ thích hợp với nhu cầu
  20. TiÓu luËn LÞch sö ®¶ng và quy mô sản xuất nông nghiệp hiện nay. Sản xuất các loại thiết bị chế biến nông lâm sản và các loại dịch vụ kỹ thuật khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác với nước ngoài sản xuất, lắp ráp một số máy móc và thiết bị hiện đại có nhu cầu lớn, hoặc để xuất khẩu, trong đó coi trọng ngành sửa chữa và đóng tàu thủy. Công nghiệp điện tử và tin học là một trong những ngành còn mới và non trẻ ở nước ta. Vì vậy cần có sự lựa chọn và phát huy năng lực và công nghệ trong nước. Tranh thủ hợp tác quốc tế để phát triển hướng vào đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc, phương tiện tính toàn đồ điện tử dân dụng. Phát triển công nghiệp nguyên liệu, vật liệu áp dụng công nghệ và quy mô thích hợp với điều kiện tài nguyên khoáng sản của ta, Trong thập kỷ tới phát triển sản xuất một số sản phẩm hóa chất cơ bản như xút, Sôda, axítsunphuric.... Mở rộng khai thác Apatit và tăng sản lưọng sản xuất phân lân, thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, một số kim loại chủ yếu. Hợp tác với nước ngoài khai thác chế biến đất hiếm, bôxit quặng sắt, vật liệu xây dựng cao cấp, dành phần thích đáng cho xuất khẩu. Trong quá trình xây dựng và phát triển, đảm bảo kết hợp giữa công nghiệp dân dụng và công nghiệp quốc phòng để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, vừa tăng cường tiềm lực phát triển đất nước. Việc xác định phương hướng và biện pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp theo hướng CNH-HĐH phải quán triệt một số quan điểm cơ bản là: quan điểm hiệu quả, quan điểm định hướng (nhất thiết phải theo định hướng CNH nền KTQD mà nội dung cơ bản của nó là chuyển từ trạng thái công nghiệp lạc hậu với năng suất lao động thấp lên công nghiệp tiên tiến với năng suất lao động cao trong tất cả các ngành KTQD. Quan điểm toàn diện cân đối, quan điểm mở cửa (lấy mô hình cơ cấu kinh tế hướng ngoại là chính và quan điểm năng động). Việc quán triệt các quan điểm đòi hỏi phải hình thành một cơ cấu công nghiệp có lựa chọn. Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH ở nước ta cơ cấu đó có thứ tự ưu tiên là ngành công nghiệp chủ yếu, ngành công nghiệp mũi nhọn và các ngành công nghiệp khác. Ngành công nghiệp chủ yếu là ngành có vị trí hàng đầu trong phát triển công nghiệp. - Ngành chế biến lương thực, thực phẩm là ngành công nghiệp chủ yếu trong giai đoạn này. Trong thời kỳ 1986-1991 ngành này vẫn giữ được tỷ trọng 22%-28% trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và cho đến nay vẫn là ngành quan trọng. - Ngành công nghiệp dệt may: chiếm khoảng 12%-15% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Dự kiến đến năm 2000 nhịp độ phát triển sẽ là 4%-5%. - Ngành công nghiệp năng lượng: trước đây là ngành không quan trọng nhưng những năm gần đây nó sẽ là ngành quan trọng. Năm 1991 chiếm khoảng 12,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong đó điện lực 2,37% và công nghiệp nhiên liệu 7,42%. Riêng ngành dầu khí, dự kiến tốc độ phát triển bình quân mỗi năm sẽ trên 20% và dự tính đến năm 2000 tăng lên 25%.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2