
1
PHẦN GIỚI THIỆU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Mô hình kinh tế chia sẻ (KTCS) là mô hình kinh tế được thúc đẩy bởi số hóa, bao gồm
trao đổi ngang hàng các tài nguyên hữu hình và vô hình (hoặc tiềm ẩn), bao gồm cả thông
tin, trong cả bối cảnh toàn cầu và địa phương. Mô hình KTCS là chủ đề thu hút sự quan tâm
đáng kể các nhà hoạch định chính sách, nhà thực thi chính sách, các học giả cũng như các cá
nhân trên toàn cầu do những cơ hội và thách thức của nó tới sự phát triển của nền kinh tế
toàn cầu (Felländer, A., Ingram, C., và Teigland, R., 2015). Đây là một trong những mô
hình kinh tế có quy mô phát triển nhanh nhất thế giới, với ước tính tăng trưởng từ 15 tỷ đô
la trong năm 2014 sẽ tăng lên 335 tỷ USD vào năm 2025 (Standing, C., Standing, S., &
Biermann, S., 2019)
Mô hình KTCS đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chia sẻ trong
lĩnh vực vận tải là một loại hình KTCS đặc biệt phổ biến và đã xuất hiện trên khắp thế giới
(Hossain, M., & Mozahem, N. A., 2022). Các nhà nghiên cứu tại PricewaterhouseCoopers
đã phân tích mười lĩnh vực công nghiệp khác nhau và ước tính rằng năm lĩnh vực chính của
nền kinh tế chia sẻ, bao gồm cho vay ngang hàng, nhân sự trực tuyến, chỗ ở, giải trí và vận
tải sẽ tạo ra hơn 50% tổng doanh thu toàn cầu, tăng chỉ từ năm phần trăm của họ cổ phần
hiện tại (Vaughan & Hawksworth, 2014).
Thị trường kinh tế chia sẻ trong lĩnh vực vận tải là thị trường phát triển rất mạnh tại
Việt Nam và là thị trường tính cạnh tranh cực kỳ cao trong nền kinh tế chia sẻ tại Việt Nam
(Nguyen, L. T. C., 2021). Số lượng các công ty trong nền kinh tế chia sẻ không ngừng gia
tăng cả về số lượng và chất lượng. Việt Nam cũng là một trong những nước đầu tiên của
ASEAN cho phép thí điểm mô hình kinh doanh ứng dụng dịch công nghệ kết nối vận tải
(như Uber, Grab) từ năm 2014. Báo cáo của Google và Temasek cho thấy, quy mô thị
trường ứng dụng gọi xe Việt Nam khoảng 500 triệu USD với tốc độ tăng bình quân hơn
40% mỗi năm. Mô hình kinh tế này giúp giải quyết nhiều vấn đề lớn của quốc gia như việc
tăng hiệu suất sử dụng các nguồn lực, giúp giảm lãng phí các nguồn lực trong thời kỳ kinh
tế khó khăn cũng như giúp giảm phần nào vấn đề thất nghiệp tại các quốc gia (Tabita Diela,
2016). Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu cho rằng mô hình kinh tế chia sẻ lĩnh vực vận tải có
khả năng giúp giảm ô nhiễm môi trường bằng cách tận dụng các tài sản ít được sử dụng vào
hoạt động kinh doanh, tránh lãng phí, tăng cường sự gắn kết xã hội bằng cách kết nối các cá
nhân thông qua công nghệ kỹ thuật số phổ biến và phát triển tinh thần kinh doanh ( Botsman
và Rogers, 2011 ; WEF, 2017 ). Những người ủng hộ mô hình kinh tế chia sẻ cho rằng nó
có thể giúp giảm thiểu suy thoái kinh tế cũng như giảm hậu quả từ chính sách thắt lưng buộc
bụng của chính phủ (Agyeman, 2013 ; Botsman & Rogers, 2011 ; Gansky, 2012 ).
Tuy có nhiều đóng góp vào sự phát triển quốc gia, mô hình kinh tế này cũng mang lại
nhiều thách thức cho các chính phủ. Một số nghiên cứu nhận định rằng mô hình kinh tế chia