Vai trò văn hóa kinh doanh
lượt xem 179
download
Văn hóa doanh nghiệp là phương thức phát triển kinh doanh bền vững Hoạt đông kinh doanh được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau, trong đó động cơ kiếm được nhiều
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vai trò văn hóa kinh doanh
- Vai trò văn hóa kinh doanh 1. Văn hóa doanh nghiệp là phương thức phát triển kinh doanh bền vững Hoạt đông kinh doanh được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau, trong đó động cơ kiếm được nhiều lợi nhuận là đông cơ quan trọng nhất Nhưng, đông cơ để các nhà kinh doanh kiếm lợi không chỉ vì nhu cầu sinh lý mà còn vì những nhu cầu cấp cao hơn đó là nhu cầu mong muốn được xa hôi tôn trọng, mong muốn đươc tự thể hiện và sáng tạo Kinh doanh phi văn hóa có thể đạt hiệu quả cao và khiến cho chủ thể kinh doanh giàu có hơn vì họ tìm mọi cách để trốn tráh pháp luật… Kiểu kinh doanh này không thể lâu bền, vì đó là lối kinh doanh chụp giật, ăn xổi nên nếu phát hiện ra sẽ bị khách hàng tẩy chay, bị cả xã hội lên án Kinh doanh có văn hóa không thê giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả ngay bởi vì nó chú trong tới việc đầu tư lâu dài, việc giu gìn chữ tín. Khi đã bước qua giai đoạn khó khăn thủe thách ban đầu thì các nguồn đầu tư lâu dài như nhân lực, công nghệ,.. phát huy tác dụngvà chủ thể kinh doanh sẽ có những bước phát triển lâu dài, bền vững 2. Văn hóa doanh nghiệp là nguồn lực phát triển kinh doanh - Trong tổ chức và quản lý kinh doanh: Vai trò văn hóa thể hiện ở sự lựa chọn phương hướng kinh doanh, sự hiểu biết về sản phẩm, dịch vụ, về những mối quan hệ giữa người và người trong tổ chức; về việc biết tuân theo các quy tắc và quy luật của thị trường; ở việc phát triển và bảo hộ những văn hóa có bản sắc dân tộc; Ngoài ra văn hóa kinh doanh còn được thể hiện thông qua việc hướng dẫn và định hướng tiêu dùng thông qua chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn một phong cách văn hóa trong kinh doanh… Khi tất cả những yếu tố văn hóa đó kết tinh vào hoạt động kinh doanh tạo thành phương thức kinh doanh có văn hóa_thì đây là một nguồn lực rất quan trọng để phát triển kinh doanh Nếu không có môi trường văn hóa trong sản xuất kinh doanh tức là không sử dụng các giá trị vật chất và giá trị tinh thần vào hoạt động kinh doanh thì không thể sử dụng các tri thức, kiến thức về kinh doanh và đương nhiên không thể tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ, không thể tạo ra hiệu quả và không thể phát triển sản xuất kinh doanh được - Trong giao lưu, giao tiếp kinh doanh: Đặc biệt là trong mối quan hệ giữa mua và bán, khi giao tiếp với khách hàng, văn hóa kinh doanh thực sự trở thành một nguồn lực vô cùng quan trọng đối với chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động Trong thái độ với đối tác kinh doanh, đối thủ cạnh tranh mà có văn hóa chúng ta sẽ tạo ra được một môi trường canh tranh lành mạnh, tạo ra các cơ hội cho sự tồn tại và phát triển lâu dài - Trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể kinh doanh Văn hóa kinh doanh là sự gánh vác tự nguyện những nghĩa vụ, trách nhiệm vượt lên trên những trách nhiệm về kinh tế và pháp lý thoảm mãn được những mong muốn của xã hội 3. Văn hóa kinh doanh là điều kiện đẩy mạnh kinh doanh quốc tế
- Khi trao đổi thương mại quốc tế sẽ tạo ra cơ hội tiếp xúc giữa các nền văn hóa khác nhau của các nước, và việc hiểu văn hóa của quốc gia đến kinh doanh là điều kiện quan trọng quyết định đến thành công hay thất bại của một doang nghiệp Thông qua việc tìm kiếm và cung cấp hàng hóa cho thị trường quốc tế, giới thiệu nhữnh nét đẹp những tinh hoa của dân tộc mình cho bạn bè thế giới Thực trạng văn hóa kinh doanh tại Việt Nam Tại sao với rừng vàng biển bạc,có nhân dân cần cù, lại được lãnh đạo bởi một Đảng vững mạnh, giàu kinh nghiệm và ý chí, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu có qúa nhiều lý do, cả chủ quan lẫn khách quan mà chúng tôi không định và cũng không thể đề cập hết tại đây. Nhưng có một lý do rất quan trọng, và ngày càng trở nên quan trọng hơn từ khi chúng ta tiến hành mở cửa, dồi mới và xây dựng một nền kinh tế thị trường - chúng tôi muốn nói đến một thực trạng là chúng ta chưa có một cộng đồng doanh nhân chuyên nghiệp cũng như một nền văn hóa kinh doanh. Chúng ta đặt câu hỏi tại sao có những thương hiệu, công ty lại trường tồn từ đời này qua đời khác. Công ty của họ có thể trường tồn vượt xa đời sống của những người sáng lập. Còn ở Việt Nam chúng ta thì sao? Hầu hết tất cả các chủ doanh nghiệp đều chưa dám giao hẳn lại cho người thừa kế. Phải chăng là do mỗi doanh nghiệp của chúng ta chưa xây dựng được văn hoá trong nghiệp. 1. Môi trường vĩ mô_sự quản lý của nhà nước Vấn đề đầu tiên cần đề cập trong văn hoá kinh doanh là bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Hiện nay vẫn còn một số quy định, tập quán, rào cản làm cho sân chơi bằng phẳng hơn với quốc doanh, lồi lõm hơn với tư nhân. Khi bước vào cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh được Nhà nước khuyến khích, một số thương nhân giàu lên nhanh chóng. Ngày càng có nhiều người trẻ tuổi thành công trên thương trường. Thực tế này đã làm đảo lộn những quan niệm truyền thống, tôn ti, trật tự cũng không còn được coi trọng như trước vì kinh nghiệm của lớp người đi trước bị cho là không còn phù hợp với hoàn cảnh mới. Sự khủng hoảng này là tất yếu khi chúng ta từ mô hình kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều đáng nói là, trong khi những giá trị tinh thần cũ bị chê bỏ, thì chưa có những giá trị tinh thần mới để lấp vào chỗ trống đó. Vì thế, trong xã hội, điều tốt và điều xấu nhiều khi lẫn lộn, con người Việt Nam bị chao đảo, thiếu chuẩn mực để hướng tới. Điều này cũng ảnh hưởng nhiều đến văn hoá kinh doanh Việt Nam. Xuất phát từ thực tế là nhiều doanh nghiệp thành công không phải bằng con đường làm ăn chân chính, đã làm một số doanh nhân mất lòng tin, mặt khác, môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa ổn định, chưa ủng hộ những doanh nhân làm ăn nghiêm chỉnh. Điều này nảy sinh tư tưởng làm ăn gian dối, đánh quả, chụp giật... trong các doanh nhân, thậm chí còn có quan niệm rằng, ở Việt Nam chỉ có làm ăn lắt léo mới có thể trụ được trên thương trường. Cách nghĩ như vậy, về lâu dài sẽ ảnh hưởng nguy hiểm đến nền tảng đạo đức xã hội và hình ảnh của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. 2. Doanh nghiệp:
- Các doanh nghiệp ở Việt Nam thường không coi trọng chữ tín trong làm ăn, cạnh tranh không lành mạnh với đối thủ, kinh doanh bất chấp tác động có hại tới môi trường xã hội, vì mục tiêu lợi nhuận mà có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng cung ứng cho thị trường người tiêu dùng hàng nhái, hàng kém chất lượng Các nhà kinh doanh thường mang nặng tư tưởng cầu toàn, ngại va chạm, Nhưng lại muốn giải quyết vấn đề nhanh nên nảy sinh nhiều tiêu cực, như: hối lộ cho cấp trên, cho các cơ quan nhà nước,… Tư tưởng thiển cận, chỉ biết cái lợi trước mắt mà không biết lấy ngắn nuôi dài. Không nhìn thấy được tác dụng lâu dài của văn hóa doanh nghiệp, nên không chú trọng tới việc xây dựng nó. Thường các nhà kinh doanh chỉ nêu ra các khẩu hiệu thể hiện ý muốn phát triển văn hóa của mình chứ không đề ra các phương pháp, các chuẩn mực buộc nhân viên phải làm theo. Điều này khiến cho nền văn hóa của doanh nghiệp trở nên tự phát, hỗn độn, manh mún Bên cạnh đó cũng có những thay đổi tích cực Trình độ chung của doanh nhân cũng được cải thiện đáng kể. Theo kết quả điều tra của đề tài KX.07.14 thì số giám đốc có trình độ đại học chiếm 77%. Không chỉ những người có học hành mới bắt tay vào kinh doanh, mà ngay cả những người đang là doanh nhân cũng mong muốn được học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Điều này chứng tỏ doanh nhân hiện nay đã ý thức được tầm quan trọng của kiến thức khi tiến hành kinh doanh, nhất là trong thời buổi mở cửa và hội nhập. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng được trẻ hoá, phần lớn đang ở độ tuổi sung sức. Theo kết quả điều tra của nhóm tác giả Trường Đại học Ngoại thương tiến hành trong hai năm 1999 và 2000, số người tiến hành đàm phán (bao gồm các giám đốc và trưởng phòng kinh doanh) ở độ tuổi 40-50 chiếm tới 63,06%; dưới 40 tuổi là 25,23% và chỉ có 11,71% ở độ tuổi trên 50. Động cơ kinh doanh và nhận thức của doanh nhân đã được cải thiện đáng kể. Kết quả nghiên cứu về tinh thần kinh doanh do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp với tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ dự án Ishikawa năm 2000 đã thể hiện rõ điều này. Khi được hỏi về động cơ kinh doanh, 41,4% số doanh nhân trả lời là "muốn làm gì có ích cho xã hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự quyết định công việc của mình"; 13,5% là do "muốn phát huy tối đa khả năng của mình"; 16,4% do "muốn tiếp tục công việc của gia đình hiện nay"; 9,7% do "muốn kiếm nhiều tiền hơn"; 5,1% do "công việc trước đây không thích hợp" và 1,3% do "không có việc làm". Những con số này cho thấy doanh nhân Việt Nam có trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao. Điều này khẳng định rằng, doanh nghiệp kinh doanh không chỉ vì mục đích cá nhân, mặc dù động cơ này hoàn toàn là chính đáng. 3. Người lao động: Tính tự chủ của người lao động ở Việt Nam rất cao, nhưng sự liên kết lại rất kém. Hai người nước ngoài kết hợp thì phạm vi kinh doanh lớn hơn một người làm. Ba người nước ngoài kết hợp thì càng lớn hơn. Nhưng hai người Việt Nam kết hợp thì kết quả giảm phân nửa, ba người kết hợp thì phá sản. Điều này phản ánh việc người lao động ở Việt Nam chưa quen hợp tác, làm ăn với nhau, chỉ quen nghĩ hạ đối thủ để vượt lên. Đó là thói quen làm ăn tiểu thương. Tác động tiêu cực lớn nhất của cơ chế thị trường đến văn hoá kinh doanh Việt Nam chính là sự chao đảo về các hệ thống giá trị trong mỗi con người Việt Nam nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung. Việt Nam vốn là một nước có nền văn hoá nông nghiệp, trọng tĩnh, với hệ thống các giá trị thiên về tinh thần hơn là vật chất, như thích hoà hiếu, trọng tình, ham danh hơn ham lợi, trọng thể diện… Những yếu tố này, một mặt cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước, mặt khác lại giúp cho tôn ti, trật tự trong xã hội được bảo đảm, các giá trị đạo đức ít bị xáo trộn.
- Các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, văn hoá Việt Nam khá ôn hoà. Chúng ta không quá khắt khe về tôn giáo như người Trung Đông, không có kỷ luật để khép mình vào tập thể như người Nhật Bản, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người Italia, không tự hào về chủng tộc như người Hoa… Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính khoan dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có điểm tựa vững chắc về tinh thần. Số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt Nam kinh doanh không bắt nguồn từ truyền thống gia đình, lại xuất thân từ những gia đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến thức và trình độ. Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã làm nhiều doanh nhân có tham vọng không giới hạn trong việc làm giàu và tích luỹ tư bản. Những vụ án kinh tế gần đây như Lã Thị Kim Oanh, vụ công ty Đông Nam Associates…, đã cho thấy khi quyền lực, cơ hội được đặt vào tay những con người hạn chế về trình độ và tư cách đạo đức, thì có thể làm nảy sinh những tham vọng tội lỗi vô hạn đến như thế nào. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính, nhưng việc mưu cầu lợi nhuận đến mức bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn như vậy quả là một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng văn hoá kinh doanh của Việt Nam. Xuất thân từ nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam thường có tầm nhìn thấp, ngắn hạn, hay thay đổi và muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi kết quả lâu dài. Người lao động ở Việt Nam còn mang nặng tư tưởng ỷ lại, chỉ muốn làm những việc được giao một cách nhanh nhất, có lợi cho bản thân nhất, ít quan tâm tới mục tiêu chung của toàn doanh nghiệp Một số người Việt Nam không có bản lĩnh "văn hoá" vững vàng, sa vào trạng thái choáng ngợp trước những thành tựu kinh tế của phương Tây, trở nên sùng ngoại, phủ nhận tất cả những giá trị cổ truyền của dân tộc. Những người này phần đông là giới thanh niên làm việc cho các công ty nước ngoài và những người kinh doanh bằng viện trợ của thân nhân từ nước ngoài gửi về. Việc đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc mình đã làm họ rập theo khuôn mẫu phương Tây trong mọi hành vi. Thật ra, văn hoá không phải là "đồ ăn nhanh", để có thể học theo trong một sớm một chiều, mà cần trải qua nhiều thế hệ. Văn hoá cũng giống như tảng băng trôi, mà một người từ nền văn hoá khác chỉ có thể nhận biết được phần nổi (phần nhỏ nhất), chứ chưa thể ý thức được phần chìm dưới nước (phần quyết định), được tích tụ qua nhiều thế hệ và đã ăn sâu vào ý thức hệ của mỗi thành viên trong nền văn hoá đó. Chính vì vậy, việc bắt chước thiếu chọn lọc của một nhóm doanh nhân Việt Nam chỉ làm nghèo đi đời sống tinh thần của họ và làm yếu đi bản sắc dân tộc trong văn hoá kinh doanh Việt Nam. Một số khác, trong đó có cả các nhà quản lý, vẫn giữ tư tưởng bảo thủ, hoặc vì không có điều kiện, hay vì không muốn thay đổi, nên đã trở thành lạc hậu với bên ngoài. Thiếu những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong thời kỳ đổi mới, họ dễ bị thua lỗ, bộc lộ nhiều sai sót trong kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Những người này, đã góp phần làm văn hoá kinh doanh Việt Nam kém năng động, chậm hoà đồng trong tiến trình hội nhập, ảnh hưởng đến hình ảnh Việt Nam trên thương trường quốc tế. Nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam mới chỉ bắt đầu, văn hoá kinh doanh Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như thử thách to lớn trên bước đường phát triển sắp tới. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những mặt mạnh và yếu trong văn hoá kinh doanh Việt Nam, từ đó phát huy những mặt tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực do tác động của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế với văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá kinh doanh nói riêng để có thể tích cực, chủ động trong hội nhập, đảm bảo xây dựng một nền văn hoá kinh doanh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI Trên đây vừa là thực trạng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, Vừa là những hạn chế rất lớn,
- là rào cản ngăn Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Văn hóa kinh doanh: Phần 1 - PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Loan (Chủ biên)
100 p | 42 | 26
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Vai trò văn hóa kinh doanh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
244 p | 63 | 21
-
Bài giảng Văn hóa doanh nghiệp - Chương 1: Tổng quan về văn hóa kinh doanh
10 p | 106 | 19
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh - Chương 1: Tổng quan về văn hóa kinh doanh
17 p | 46 | 12
-
Giáo trình Văn hóa kinh doanh: Phần 1 - Trường ĐH Công nghiệp Quảng Ninh
78 p | 27 | 11
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh - Bài 4: Văn hóa doanh nhân
26 p | 143 | 10
-
Bài giảng môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 3 - Đạo đức kinh doanh
34 p | 17 | 9
-
Bài giảng Văn hóa và đạo đức kinh doanh - Bài 1: Tổng quan về văn hóa kinh doanh
25 p | 81 | 9
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh - Chương 3: Văn hóa doanh nghiệp
11 p | 44 | 8
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 2 - TS.GVCC Vũ Quang và TS. Nguyễn Văn Lâm
38 p | 51 | 8
-
Xây dựng văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế
5 p | 97 | 8
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh - Bài 2: Triết lý kinh doanh
20 p | 127 | 6
-
Bài giảng môn Văn hóa kinh doanh & tinh thần khởi nghiệp: Chương 2 - Triết lý kinh doanh
25 p | 26 | 5
-
Bài giảng môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 1 - Tổng quan về văn hóa kinh doanh
10 p | 12 | 5
-
Bài giảng môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 2 - Triết lý kinh doanh
30 p | 12 | 5
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 3 - ThS. Phan Y Lan
15 p | 8 | 3
-
Bài giảng Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp: Chương 2 - ThS. Phan Y Lan
38 p | 9 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn