intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vị trí của các doanh nghiệp Nông - Lâm - Ngư trong hệ thống doanh nghiệp ở tỉnh Nghệ An nhìn từ góc độ nộp ngân sách

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

41
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thuế thu từ các doanh nghiệp không những là nguồn đóng góp vào ngân sách hết sức quan trọng, nó còn là thước đo trình độ phát triển của bản thân các doanh nghiệp của một ngành. Nếu sản xuất, kinh doanh lớn mạnh, mức nộp ngân sách sẽ lớn và ngược lại. Nghệ An là một tỉnh có hơn 60% dân số sống bằng nông nghiệp; ngành này cũng đóng góp hơn ¼ GDP của địa phương. Tuy vậy, hàng năm số thuế thu được từ các doanh nghiệp của ngành này chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn, khoảng từ 3 đến 4%. Kết quả đó là do số lượng các doanh nghiệp lớn trong ngành này không nhiều và thường chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế. Thực trạng này, đòi hỏi nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu, trong đó có thuế, để khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành phát triển.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vị trí của các doanh nghiệp Nông - Lâm - Ngư trong hệ thống doanh nghiệp ở tỉnh Nghệ An nhìn từ góc độ nộp ngân sách

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2017<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> VỊ TRÍ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÔNG - LÂM - NGƯ<br /> TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP Ở TỈNH NGHỆ AN<br /> NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NỘP NGÂN SÁCH<br /> THE ROLE OF AGRICULTURE–FORESTRY-FISHERY BUSINESSES IN THE SYSTEM<br /> OF ENTERPRISES IN NGHE AN PROVINCE FROM BUDGET CONTRIBUTION<br /> PERSPECTIVE<br /> Nguyễn Minh Sửu1, Trần Đình Chất2<br /> Ngày nhận bài: 08/12/2015; Ngày phản biện thông qua: 22/2/2016; Ngày duyệt đăng: 10/3/2017<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thuế thu từ các doanh nghiệp không những là nguồn đóng góp vào ngân sách hết sức quan trọng, nó<br /> còn là thước đo trình độ phát triển của bản thân các doanh nghiệp của một ngành. Nếu sản xuất, kinh doanh<br /> lớn mạnh, mức nộp ngân sách sẽ lớn và ngược lại. Nghệ An là một tỉnh có hơn 60% dân số sống bằng nông<br /> nghiệp; ngành này cũng đóng góp hơn ¼ GDP của địa phương. Tuy vậy, hàng năm số thuế thu được từ các<br /> doanh nghiệp của ngành này chiếm một tỷ lệ hết sức khiêm tốn, khoảng từ 3 đến 4%. Kết quả đó là do số lượng<br /> các doanh nghiệp lớn trong ngành này không nhiều và thường chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế. Thực trạng này,<br /> đòi hỏi nhà nước cần có những giải pháp hữu hiệu, trong đó có thuế, để khuyến khích các doanh nghiệp trong<br /> ngành phát triển.<br /> Từ khóa: Thuế, thước đo, nông - lâm - ngư, doanh nghiệp, khuyến khích<br /> ABSTRACT<br /> Tax collected from businesses is not only an important contribution to national budget but also a<br /> reflective indicator of businesses’ development level. If the activities of production and business develop,<br /> businesses’ contribution to national budget increases and vice versa. Over 60% of Nghe An province’s<br /> population live in agriculture, and this industry also contributes more than one forth to the local GDP.<br /> However, annual tax collected from agricultural businesses is only at modest level, about from 3 to 4% of<br /> the local budget. This result comes from the fact that the amount of big businesses is very small and their<br /> production is just at the preliminary level. This status requires the government to issue effective solutions<br /> including improving tax policies to encourage the development of businesses in this area.<br /> Keywords: Tax, businesse, indicator, development level, preliminary level, effective solutions, tax policies<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> “Thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ<br /> do luật qui định cho các tổ chức và cá nhân<br /> trong xã hội nộp cho nhà nước bằng một phần<br /> thu nhập của mình vào ngân sách để đáp ứng<br /> nhu cầu chi tiêu của nhà nước” [3]. Thông qua<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> Kiểm toán Nhà nước khu vực II, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An<br /> Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 106 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> số thuế nộp vào ngân sách, có thể thấy vị trí,<br /> vai trò của các ngành trong nền kinh tế.<br /> Nghệ An là một trong những tỉnh có diện<br /> tích và dân số lớn nhất nước; dân cư trên địa<br /> bàn chủ yếu sống bằng nghề nông; GDP của<br /> ngành này chiếm một tỷ trọng đáng kể trong<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2017<br /> <br /> tổng GDP của cả Tỉnh. Chính vì vậy, vấn đề đặt<br /> ra làm sao để phát triển các doanh nghiệp chế<br /> biến, dịch vụ, hậu cần nhằm tạo điều kiện cho<br /> ngành thay đổi diện mạo, thực hiện các mục<br /> tiêu kinh tế - xã hội, phục vụ quốc kế, dân sinh.<br /> Để làm rõ vị trí của các doanh nghiệp trong<br /> ngành, có thể xem xét, đánh giá thông qua<br /> số lượng doanh nghiệp hiện đang hoạt động,<br /> cũng như số thuế của nó hàng năm đóng<br /> góp vào ngân sách nhà nước.. Đây là những<br /> doanh nghiệp có vốn lớn, doanh thu cao, số<br /> nộp thuế nhiều, hoạt động trong lĩnh vực xuất<br /> nhập khẩu, do Cục thuế Nghệ An trực tiếp quản<br /> lý. Chính vì vậy, nếu làm rõ được vị trí của các<br /> doanh nghiệp này thông qua số lượng đơn vị<br /> tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, số<br /> thuế nộp vào ngân sách, có thể có những giải<br /> pháp hữu hiệu nhằm nâng cao vị trí của các<br /> doanh nghiệp trong khối này trong các doanh<br /> nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An.<br /> <br /> Phương pháp thống kê mô tả được thực hiện<br /> thông qua việc sử dụng số bình quân, tần số,<br /> số tối đa và tối thiểu. Phương pháp thống kê<br /> so sánh gồm cả so sánh số tuyệt đối và so<br /> sánh số tương đối để đánh giá động thái phát<br /> triển của hiện tượng, sự vật theo thời gian và<br /> không gian.<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> <br /> 1. Hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh<br /> Nghệ An<br /> Qua Bảng 1, ta thấy, tổng số lượng doanh<br /> nghiệp (DN) trên địa bàn tỉnh Nghệ An do Cục<br /> Thuế trực tiếp quản lý, có sự biến động mạnh<br /> trong kỳ nghiên cứu. Nếu như năm 2011, tổng<br /> số là 503 thì năm 2012 lên tới 679, tức tăng<br /> 176 DN hay tăng 35%. Sang năm 2013, số DN<br /> chỉ còn 474, giảm 205 tức giảm 30,2%. Như<br /> vậy, xét về tổng thể, trong năm 2012 các doanh<br /> nghiệp có tiến bộ vượt bậc, khi những doanh<br /> nghiệp này có sự phát triển về mặt quy mô.<br /> II. ĐỐI TƯỢNG, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ<br /> Tuy nhiên, qua năm 2013, tình hình lại trở nên<br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> xấu đi, khi một số lượng lớn doanh nghiệp lại<br /> Đối tượng nghiên cứu là vị trí của các<br /> sụt giảm về quy mô kinh doanh.<br /> doanh nghiệp Nông - Lâm - Ngư trong hệ<br /> Có thể nói, sự biến động này là quá lớn,<br /> thống doanh nghiệp của tỉnh Nghệ An. Cơ sở<br /> ngay cả trong trường hợp môi trường kinh tế<br /> lý thuyết mà bài báo này vận dụng là những<br /> toàn cầu cũng như trong nước có nhiều bất lợi,<br /> vấn đề lý luận liên quan đến thuế và kinh tế<br /> khi tình hình suy thoái chưa được hồi phục, và<br /> phát triển của các ngành trong nền kinh tế<br /> nói chung nền kinh tế đang trong thời kỳ bất ổn.<br /> quốc dân. Phương pháp thống kê bao gồm<br /> Từ đó ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh trên<br /> chủ yếu là thống kê mô tả và thống kê so sánh.<br /> địa bàn Tỉnh gặp rất nhiều khó khăn, bất lợi.<br /> Bảng 1. Cơ cấu các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An thời kỳ 2011 - 2013.<br /> STT<br /> <br /> Ngành nghề hoạt động<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> <br /> CN chế biến, chế tạo<br /> Xây dựng, lắp đặt<br /> Vận tải, kho bãi<br /> Thương mại<br /> Bán buôn<br /> Bán lẻ<br /> 5 Nông-Lâm-Thủy sản<br /> 6 Dịch vụ, lưu trú<br /> 7 Khai khoáng<br /> Tổng cộng<br /> <br /> Năm 2011<br /> <br /> Năm 2012<br /> <br /> Năm 2013<br /> <br /> Số lượng<br /> <br /> Tỉ trọng (%)<br /> <br /> Số lượng<br /> <br /> Tỉ trọng (%)<br /> <br /> Số lượng<br /> <br /> Tỉ trọng (%)<br /> <br /> 133<br /> 157<br /> 19<br /> 93<br /> 81<br /> 12<br /> 17<br /> 56<br /> 28<br /> 503<br /> <br /> 26,4<br /> 31,2<br /> 3,8<br /> 18,5<br /> 16,1<br /> 2,4<br /> 3,4<br /> 11,1<br /> 5,6<br /> 100<br /> <br /> 174<br /> 200<br /> 33<br /> 158<br /> 116<br /> 42<br /> 27<br /> 46<br /> 41<br /> 679<br /> <br /> 25,6<br /> 29,5<br /> 4,9<br /> 23,3<br /> 17,1<br /> 6,2<br /> 4,0<br /> 6,8<br /> 6,0<br /> 100<br /> <br /> 120<br /> 163<br /> 27<br /> 95<br /> 81<br /> 14<br /> 22<br /> 19<br /> 28<br /> 474<br /> <br /> 25,3<br /> 34,4<br /> 5,7<br /> 20,0<br /> 17,1<br /> 2,9<br /> 4,6<br /> 4,0<br /> 5,9<br /> 100<br /> <br /> Cục Thuế Nghệ An, 2014<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 107<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2017<br /> <br /> Xét về cơ cấu ngành nghề kinh doanh,<br /> <br /> trong đó có thuế có những chính sách phù hợp<br /> <br /> ngành xây dựng lắp đặt luôn chiếm tỷ trọng<br /> <br /> nhằm tạo điều kiện cho các DN tồn tại và phát<br /> <br /> lớn nhất trên, dưới 30% trong tổng số. Và bản<br /> <br /> triển được trong những thời điểm bất ổn và<br /> <br /> thân ngành này cũng có sự biến động lớn qua<br /> <br /> bất lợi.<br /> <br /> các năm, nếu như năm 2012 ghi nhận sự tăng<br /> <br /> 2. Tình hình nộp thuế theo ngành hoạt động<br /> <br /> trưởng so với năm trước (27,4%), thì năm 2013<br /> lại suy giảm (18,5%). Đây có thể là dấu hiệu của<br /> hiện tượng đóng băng của bất động sản ở nước<br /> ta nói chung và tại Nghệ An nói riêng.<br /> Khối ngành có số lượng DN lớn thứ hai là<br /> công nghiệp chế biến, chế tạo, với tỷ trọng trong<br /> tất cả các năm đều chiếm trên 25% và số lượng<br /> của nó cũng biến động thất thường, từ 133 năm<br /> 2011 lên 174 năm 2012 (tăng 30,8%) , lại giảm<br /> xuống còn 120 vào năm 2013 (giảm 31%).<br /> Khối ngành có số lượng DN lớn thứ ba<br /> là thương mại, với tỷ trọng qua các năm xấp<br /> xỉ 20% và nó cũng chịu sự biến động rất lớn<br /> trong vòng 3 năm. Cụ thể vào năm 2011 mới<br /> chỉ có 93 đơn vị, sang năm 2012 lên tới 158,<br /> tăng 67%; thế nhưng đến năm 2013 lại giảm<br /> xuống còn 95 DN tương ứng giảm 39,9%.<br /> <br /> đối với các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh<br /> Nghệ An<br /> Nhìn chung tình hình thực hiện nghĩa vụ<br /> thuế của các DN trên địa bàn tỉnh Nghệ An<br /> trong kỳ nghiên cứu không đạt so với dự toán<br /> (Bảng 2). Cụ thể, năm 2011 chỉ đạt 76,6%,<br /> năm 2012 đạt 81,9% và năm 2013 đạt mức<br /> thấp nhất so với dự toán là 74,7%. Ta thấy rằng<br /> chênh lệch giữa số thực hiện so với dự toán là<br /> khá lớn (trên dưới 20%); điều này có thể xuất<br /> phát từ hai phía, thứ nhất nhà nước đưa ra<br /> chỉ tiêu quá cao, thứ hai bản thân các DN gặp<br /> nhiều khó khăn, nên kết quả và hiệu quả sản<br /> xuất kinh doanh thấp, do đó số thuế dự kiến sẽ<br /> nộp cao hơn nhiều so với số thực tế.<br /> Trên góc độ đóng góp của các doanh<br /> nghiệp ở một tỉnh lớn như Nghệ An là rất<br /> <br /> Điều đáng lưu tâm là trong khối ngành sản<br /> <br /> khiêm tốn, khi hàng năm con số này chưa vượt<br /> <br /> xuất, khối Nông - Lâm - Ngư có số lượng DN<br /> <br /> mức 3 nghìn tỷ đồng. Điều này đặt ra cho các<br /> <br /> rất không đáng kể với tỷ trọng khiêm tốn 3 - 4%.<br /> <br /> nhà hoạch định chính sách làm sao tạo lập<br /> <br /> Là một tỉnh thuộc loại lớn nhất nước cả về diện<br /> <br /> được môi trường kinh doanh thuận lợi cho các<br /> <br /> tích lẫn dân số, khi phần lớn cư dân sống nhờ<br /> <br /> doanh nghiệp phát triển để từ đó có nguồn thu<br /> <br /> các ngành này, trong khi đó vị trí các DN của<br /> <br /> nhiều hơn, các ngành kinh tế của Tỉnh đóng<br /> <br /> nó khiêm nhường đến như vậy.Vấn đề đặt ra là<br /> <br /> góp xứng đáng hơn cho ngân sách Nhà nước.<br /> <br /> nhà nước phải có chính sách đồng bộ trong đó<br /> <br /> Tương xứng với số lượng doanh nghiệp<br /> <br /> có thuế để tạo điều kiện cho những ngành sản<br /> <br /> lớn nhất so với các ngành nghề kinh doanh,<br /> <br /> xuất quan trọng như vậy phát triển.<br /> <br /> ngành xây dựng, lắp đặt cũng đóng góp nhiều<br /> <br /> Nhìn chung trong tất cả các ngành khác<br /> <br /> nhất trong tổng số thuế mà doanh nghiệp các<br /> <br /> cũng tuân theo quy luật là tăng mạnh về số<br /> <br /> ngành đã nộp. Năm 2011, các DN của ngành<br /> <br /> lượng trong năm 2012 và giảm mạnh vào năm<br /> <br /> này đã nộp vào ngân sách 611.623,3 triệu<br /> <br /> kế tiếp. Ta chỉ có thể lý giải hiện tượng này là do<br /> <br /> đồng, chiếm 34% trong tổng số thuế đã nộp<br /> <br /> môi trường làm ăn, kinh doanh đầy biến động<br /> <br /> của các ngành sản xuất kinh doanh. Trong<br /> <br /> bất lợi cho các DN, chính vì vậy sự tồn vong<br /> <br /> các năm còn lại tỷ lệ này tương ứng là 32,4 và<br /> <br /> của chúng là khó lường. Và đây cũng là cơ sở<br /> <br /> 32,9%. Như vậy, riêng ngành này đã đóng gần<br /> <br /> quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước,<br /> <br /> 1/3 số thuế mà các doanh nghiệp đã nộp.<br /> <br /> 108 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 1/2017<br /> <br /> Bảng 2. Tình hình nộp thuế của các DN theo ngành hoạt động thời kỳ 2011 - 2013<br /> <br /> Đơn vị tính: Triệu đồng<br /> <br /> STT<br /> <br /> Ngành nghề<br /> hoạt động<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> 3<br /> 4<br /> <br /> Năm 2011<br /> Dự toán<br /> <br /> CN chế biến, chế tạo 621.000<br /> Xây dựng, lắp đặt<br /> 733.700<br /> Vận tải, kho bãi<br /> 88.000<br /> Thương mại<br /> 434.600<br /> Bán buôn<br /> 378.600<br /> Bán lẻ<br /> 56.000<br /> 5 Nông-Lâm-Thủy sản<br /> 74.800<br /> 6 Dịch vụ, lưu trú<br /> 266.000<br /> 7 Khai khoáng<br /> 131.900<br /> Tổng cộng<br /> 2350000<br /> <br /> Thực hiện<br /> <br /> Năm 2012<br /> Dự toán<br /> <br /> Thực hiện<br /> <br /> Năm 2013<br /> Dự toán<br /> <br /> Thực hiện<br /> <br /> 425.770,1 741.900 537.155,6 881.000 698.358,7<br /> 611.623,3 852.700 768.880,0 1.196.800 854.270,5<br /> 67.967,1 140.700 115.150,0 198.000 148.130,7<br /> 342.681,3 673.600 531.325,2 697.000 521.200,6<br /> 289.754,7 494.000 384.770,4 594.000 444.392,1<br /> 52.926,6 179.000 146.554,8 102.600<br /> 76.808,5<br /> 57.235,5 123.100 101.192,6 154.000 115.212,8<br /> 193.901,5 187.600 173.533,6 139.500 124.240,1<br /> 100.162,1 174.400 143.065,5 212.700 139.103,4<br /> 1799340,9 2894000 2369302,7 3479000 2600516,8<br /> <br /> Cục Thuế Nghệ An, 2014<br /> <br /> Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo<br /> chiếm vị trí thứ hai trong các ngành sản xuất,<br /> kinh doanh. Trong năm 2011, ngành này đóng<br /> góp 425.770,1 triệu đồng hay chiếm 23,7%<br /> tổng số thuế mà các doanh nghiệp đã nộp. Vào<br /> năm kế tiếp tỷ lệ này có giảm đi chút ít ở mức<br /> 22,7%. Và tỷ trọng lớn nhất mà ngành này có<br /> được là ở năm 2013, khi các doanh nghiệp<br /> của nó đóng góp tới 26,8% trong tổng số. Một<br /> điều cần phải ghi nhận là, số thuế tuyệt đối mà<br /> ngành này đã nộp tăng liên tục và đáng kể qua<br /> các năm, từ 425.770,1 triệu đồng năm 2011,<br /> lên 537.155,6 triệu đồng năm 2012 và đạt tới<br /> 698.358,7 triệu đồng vào năm 2013. Như vậy<br /> hàng năm ngành này tăng hơn 25%, một tỷ lệ<br /> tăng rất cao. Đây cũng là dấu hiệu đáng khích<br /> lệ vì đây được coi là ngành chủ đạo trong sự<br /> nghiệp công nghiệp hóa của nước ta nói chung<br /> và Nghệ An nói riêng.<br /> Đứng thứ ba về số thuế đã nộp là ngành<br /> thương mại, khi ngành này vào năm 2011 đóng<br /> góp vào ngân sách 342.681,3 triệu đồng, tức<br /> chiếm 19,0% trong tổng số thuế mà các doanh<br /> nghiệp trong Tỉnh mà Cục thuế đã thu. Những<br /> năm tiếp theo tỷ lệ này lần lượt là 22,4 và 20,0%.<br /> Những ngành còn lại như vận tải, kho bãi; Nông Lâm - Thủy sản; dịch vụ lưu trú; khai khoáng tỷ<br /> lệ này khiêm tốn hơn ở mức dưới 10%.<br /> Sự tăng trưởng liên tục còn được thể<br /> hiện ở ngành Nông - Lâm - Thủy sản, ngành<br /> <br /> được coi là hết sức quan trọng trong bước đầu<br /> phát triển của một nền kinh tế.<br /> <br /> Hình 1. Tỷ trọng nộp thuế vào ngân sách của các<br /> ngành tại Cục Thuế Nghệ An<br /> <br /> Cục Thuế Nghệ An, 2014<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 109<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Thuế nộp vào ngân sách của ngành Nông Lâm - Thủy sản, có tốc độ tăng trưởng rất cao<br /> trong kỳ nghiên cứu. Nếu như năm 2011, số<br /> thuế đã nộp mới chỉ đạt 57.235,5 triệu đồng,<br /> thì sang năm 2012 đã lên tới 101.192,6 triệu<br /> đồng hay tăng 43.957,1 triệu đồng tương ứng<br /> tăng 76,8%. Qua năm 2013, số thuế đóng<br /> góp cho ngân sách của khối ngành này là<br /> 115.212,8 triệu đồng, tăng 14.020,2 triệu đồng<br /> so với năm trước hay tăng 13,9%. Tuy nhiên, tỷ<br /> trọng số thuế thu được của khối Nông - Lâm Ngư trong tổng số thuế thu được của các<br /> doanh nghiệp do Cục Thuế Nghệ An trực tiếp<br /> quản lý, tăng không đáng kể và chiếm một tỷ<br /> trọng hết sức khiêm tốn (Hình 1). Cụ thể, trong<br /> năm 2011 tỷ lệ này là 3,2%, sang năm 2012 là<br /> 4,3% và năm 2013 là 4,4%.<br /> Có thể nói, mức đóng góp vào ngân sách<br /> của các doanh nghiệp của Nông - Lâm - Thủy<br /> sản là quá khiêm tốn, tại một tỉnh có tới 64%<br /> [5] dân cư sống bằng nông nghiệp; GDP của<br /> ngành này chiếm 26% [1] trong tổng GDP của<br /> Tỉnh Nghệ An. Điều này nói lên rằng, những<br /> doanh nghiệp có quy mô lớn sản xuất, kinh<br /> doanh trong ngành không nhiều. Mặt khác,<br /> cũng cho thấy tỷ lệ hàng hóa trong ngành có<br /> giá trị gia tăng không cao, chủ yếu được tiêu<br /> thụ dưới dạng nguyên liệu chưa qua chế biến,<br /> hoặc chỉ mới sơ chế. Theo Thông tư 156/2013/<br /> TT-BTC thì: doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo<br /> phương pháp khấu trừ bán sản phẩm trồng<br /> trọt, chăn nuôi, thủy sản, hải sản chưa chế<br /> biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua<br /> sơ chế thông thường thì không phải nộp hoặc<br /> nộp với thuế suất thấp là 5% [2].<br /> <br /> Số 1/2017<br /> IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> Nhìn chung qua phân tích ta có thể rút ra<br /> một số vấn đề cơ bản như:<br /> - Thứ nhất, những ngành vừa có mức<br /> đóng góp cao vào ngân sách, vừa đóng vai<br /> trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển của<br /> kinh tế của Tỉnh, như công nghiệp chế biến,<br /> chế tạo cần được Nhà nước, địa phương đặc<br /> biệt chú ý;<br /> - Thứ hai, những ngành tuy không thuộc<br /> diện ưu tiên cao về mặt chiến lược phát triển,<br /> nhưng lại có mức đóng góp thuế cao như xây<br /> dựng, lắp đặt; thương mại cần được coi trọng;<br /> - Thứ ba, những ngành tuy không có mức<br /> nộp thuế cao, nhưng lại có tầm quan trọng đặc<br /> biệt đối với quốc kế dân sinh như Nông – Lâm<br /> – Thủy sản cần được sự quan tâm đúng mức<br /> của Nhà nước, địa phương về các chính sách,<br /> trong đó có thuế.<br /> Xuất phát từ những quan điểm cơ bản trên,<br /> tỉnh Nghệ An cần có những chính sách khuyến<br /> khích nhằm phát triển các doanh nghiệp chế<br /> tạo, chế biến, sửa chữa, dịch vụ hậu cần, trồng<br /> rừng … trong khối Nông - Lâm - Ngư. Điều này<br /> không chỉ thuần túy xuất phát từ mục tiêu gia<br /> tăng sự đóng góp vào ngân sách của các doanh<br /> nghiệp này, mà còn tạo tiền đề phát triển cho<br /> toàn ngành. Về phía nhà nước cần có những<br /> chính sách ưu đãi hơn nữa về thuế, nhằm tạo<br /> điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành<br /> này phát triển, nhất là đối với những vùng<br /> đặc biệt khó khăn như ở các huyện miền núi<br /> của Tỉnh.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> 2.<br /> 3.<br /> 4.<br /> 5.<br /> 6.<br /> <br /> Nguyễn Đăng Bằng, 2014. Kinh tế Nghệ An năm 2013 - Thực trạng và khuyến nghị. Chuyên san Khoa học Xã<br /> hội và Nhân văn Nghệ An, Số 12/2013.<br /> Bộ Tài chính, 2013. Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013, Hà Nội.<br /> Phan Thị Cúc, Trần Phước, Nguyễn Thị Mỹ Linh, 2007. Giáo trình Thuế. NXB Thống kê.<br /> Cục Thuế Nghệ An, 2014. Báo cáo tổng kết hàng năm.<br /> Cục Xúc tiến Thương mại Việt Nam, 2013. Nghệ An xứng tầm với vai trò thủ phủ Bắc Trung Bộ.<br /> Thông tư 156/2013/TT-BTC ngày 06/11/2013 của Bộ Tài chính.<br /> <br /> 110 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2