intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

115
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành, quá trình biến đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm vừa bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống, vừa phát huy những giá trị tích cực của văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, góp phần giữ vững ổn định xã hội trên địa bàn tỉnh Lào Cai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Nhân học: Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ------------------- NGUYỄN QUỲNH TRÂM VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành : Nhân học Mã số : 62 31 03 02 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI- 2016
  2. Coâng trình ñöôïc hoaøn thaønh taïi: Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS Phạm Quang Hoan 2. TS. Đậu Tuấn Nam Phản biện 1: PGS.TS. Lê Ngọc Thắng Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Nga Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện tại …………………………………………………………………………….. vào ……..hồi………..….giờ………ngày………tháng…..….năm……… Coù theå tìm hieåu luaän aùn taïi thö vieän: - Học viện Khoa học xã hội - Thư viện Quốc gia
  3. CÁC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Nước Mỹ và đạo Tin lành, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 03/2011. 2. Tổng quan về một bộ phận đồng bào Mông theo đạo Tin Lành, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 6/ 2013. 3. Vấn đề người Mông theo Tin Lành ở huyện Sapa, Lào Cai, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 202/2013. 4. Giáo dục Phật giáo với phát triển bền vững, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10(136)/2014. 5. Bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 222/2014. 6. Các mối quan hệ xã hội của người Hômg theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9 (186)/2015. 7. Nhìn lại việc truyền đạo và theo đạo Tin lành trong đồng bào Hmông ở Tây Bắc, Tạp chí Công tác Tôn giáo, số 10/2015
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay, đặc biệt là dưới tác động của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đã ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hóa. Không nằm ngoài quy luật, văn hóa của các tộc người, trong đó có văn hóa của người Hmông đã, đang chịu sự tác động và có những biến đổi nhất định. Ngoài ra, văn hóa của người Hmông cũng chịu tác động bởi văn hóa tôn giáo, đó là đạo Tin lành. Đạo Tin lành thâm nhập vào đồng bào Hmông năm 1985 dưới tên gọi là Vàng Chứ, đến năm 2014 số người Hmông theo Tin lành đã tăng lên rất nhanh, với tổng số 210.000 người, chiến hơn 20% số người Hmông [7; tr. 5]. Dưới sự tác động của Tin lành, văn hóa truyền thống của người Hmông đã có sự chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Nó được thể hiện trên các mặt như mối quan hệ gia đình, dòng họ, xã hội; vai trò của những người có uy tín, niềm tin tôn giáo, lễ thức trong hôn nhân, hay tang ma, văn hóa, lối sống,... Vấn đề hiện nay là làm sao trong điều kiện truyền đạo và theo đạo Tin lành vẫn bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Hmông góp phần vào công cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và tiếp tục triển khai theo Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Lào Cai là địa phương có vị trí địa chính trị, địa văn hóa khá đặc trưng ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Ở Lào Cai, người Hmông có số lượng dân là 137.469 người, đứng thứ hai sau người Kinh. Người Hmông ở Lào Cai bắt đầu theo đạo Tin lành từ năm 1989. Sau 25 năm, tính đến năm 2015, trên địa bàn tỉnh Lào Cai có 25.830 người Hmông theo Tin lành [7; tr.5]. Người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai đã chịu tác động mạnh mẽ của đạo Tin lành làm cho văn hóa truyền thống đã có sự biến đổi quan trọng. Điều đó đã ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của địa phương và khu vực. Với mong muốn đóng góp thêm vào sự hiểu biết về văn hóa dân tộc Hmông đã thay đổi theo Tin lành tại Lào Cai, từ đó cung cấp những tư liệu khoa học giúp Đảng và Nhà nước ta có những chính sách phù hợp trong việc phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Hmông trong điều kiện theo Tin lành và hạn chế những yếu tố tiêu cực nảy sinh góp phần phát triển bền vững tỉnh Lào Cai.Vì vậy, tác giả đã chọn vấn đề: Văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai làm nội dung đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Nhân học. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành, quá trình biển đổi văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm vừa bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống, vừa phát huy những giá trị tích cực của văn hóa, lối sống của đạo Tin lành, góp phần giữ vững ổn định xã hội trên địa bàn tỉnh Lào Cai. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu quá trình truyền bá đạo Tin lành trong vùng đồng bào Hmông ở Lào Cai, cùng những nguyên nhân của việc một bộ phận người Hmông theo đạo Tin lành. 1
  5. - Nghiên cứu quá trình chuyển đổi từ văn hóa tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những tác động tích cực và tiêu cực của việc người Hmông theo Tin lành đối với văn hóa, xã hội. - Nghiên cứu những vấn đề đặt ra và xu hướng vận động của việc theo đạo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những đề xuất, kiến nghị. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1 Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa truyền thống của người Hmông, văn hóa của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai. 3.2 Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các thành tố của văn hóa của cộng đồng người Hmông tỉnh Lào Cai theo đạo Tin lành, như:văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, niềm tin tôn giáo, văn hóa lối sống. Luận án xác định mốc thời gian nghiên cứu từ khi triển khai thực hiện Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng về một số công tác đối với đạo Tin lành, đánh dấu việc công nhận hoạt động của đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai. 3.3 Địa bàn nghiên cứu: Lựa chọn nghiên cứu một số cơ sở ở tỉnh Lào Cai đáp ứng các tiêu chí là điểm có đa số đồng bào Hmông đã theo Tin lành; một số điểm người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống để tiến hành nghiên cứu, so sánh, khai thác thu thập thông tin tư liệu. 4. Nguồn tư liệu, tài liệu - Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, các đề án và đề tài nghiên cứu khoa học, các sách, bài viết liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước đã được công bố. - Các văn bản của Đảng và Nhà nước về dân tộc, tôn giáo. Các báo cáo về tình hình và công tác dân tộc, tôn giáo của cơ quan chức năng ở địa bàn nghiên cứu. - Tư liệu điền dã của tác giả. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án - Nghiên cứu một cách có hệ thống quá trình truyền bá đạo Tin lành trong người Hmông ở tỉnh Lào Cai; làm rõ quá trình chuyển đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai. - Cung cấp thêm nguồn tư liệu làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của tộc người Hmông trước bối cảnh mới; đồng thời góp phần thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo đối với cộng đồng người Hmông theo Tin lành. - Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề dân tộc học, tôn giáo học. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nghiên cứu về người Hmông và văn hóa Hmông. Trong các tài liệu khoa học viết về người Hmông và văn hóa Hmông có những cuốn sách có giá trị trực tiếp và tiêu biểu là Dân tộc Mông ở Việt Nam của hai tác giả Cư Hoà Vần và Hoàng Nam [106], Văn hoá Hmông của Tiến sĩ Trần Hữu Sơn [78], Người Hmông của Chu Thái Sơn [81], Văn hóa người Mông ở Nghệ An của Hoàng Xuân Lương [52],... Các tác giả cũng đã đề cập đến hiện tượng người Hmông từ bỏ văn hóa tín ngưỡng truyền thống tạo nên sự biến đổi văn hóa với yếu tố văn hoá ngoại lai là Tin lành hay Công giáo. 2
  6. 1.1.2. Nghiên cứu về người Hmông theo Tin lành. Trong những năm trở lại đây, vấn đề Tin lành và truyền đạo Tin lành vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng người Hmông đang nổi lên.Với các tác phẩm tiêu biểu như: Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam - truyền thống và hiện đại xuất bản năm 2005 của Vương Duy Quang [71]; Giữ “lý cũ” hay theo “lý mới”, bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Hmông ở Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành xuất bản năm 2009 của Nguyễn Văn Thắng [93]; Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay do Thào Xuân Sùng chủ biên, xuất bản năm 2009, Vài nét về phương thức truyền giáo của đạo Tin lành vào vùng dân tộc Mông ở Lào Cai [51] Nguyễn Đình Lợi, Biến đổi tín ngưỡng Mông - thực tế và trăn trở của Kiều Trung Sơn đăng trên Tạp chí Văn hóa dân gian, năm 2013,... Các tác phẩm tập trung vào nhóm vấn đề như sau:Về nguyên nhân theo đạo Tin lành; Về những ảnh hưởng của sự phát triển Tin lành ở Tây Bắc, chủ yếu là những tác động tiêu cực trên lĩnh vực phát triển kinh tế đến sự ảnh hưởng trong đời sống xã hội, văn hóa; Về phương thức truyền đạo; Về sự biến đổi tín ngưỡng của người Hmông. 1.1.3. Nghiên cứu về đạo Tin lành và văn hóa lối sống Tin lành. Đạo Tin lành là tôn giáo truyền vào Việt Nam muộn hơn cả, số lượng tín đồ không nhiều nên việc nghiên cứu về đạo Tin lành không được đặt ra. Trong giai đoạn này, ở miền Nam chỉ có một số ấn phẩm, như: Bốn mươi sáu năm chức vụ của Mục sư Lê Văn Thái do Nhà in Tin lành xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn, Lịch sử Hội thánh Tin lành Việt Nam (1911-1965)- Luận án tiến sỹ của Mục sư Lê Hoàng Phu viết 1972. Gần đây, Nguyễn Thanh Xuân với Bước đầu tìm hiểu đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam xuất bản năm 2002; Nguyễn Xuân Hùng với các bài Tìm hiểu những hệ quả của việc truyền giáo Tin lành đối với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam- Tạp chí Ngiên cứu Tôn giáo số 1/2000, năm 2010, NXB Trí Thức cho xuất bản sách Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản của Max Weber,... 1.1.4. Nghiên cứu của các tác giả ngoài nước. Các tác giả nước ngoài nghiên cứu về người Hmông phải kể đến Savina với tác phẩm Lịch sử người Mèo [75]; Những đặc điểm chủ yến của thuật saman của người Mèo Trắng ở Đông Dương [28], Thuật Saman của người Hmông [29] của Guy Morechand là những công trình nghiên cứu đầu tiên về đời sống văn hóa của tộc người Hmông. Các công trình này có đề cập đến quá trình truyền bá và phát triển của Tin lành vào dân tộc Hmông, đưa ra những điểm xung đột xảy ra trong cộng đồng dân tộc Hmông do sự phát triển của Tin lành. 1.2. Một số khái niệm, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Các khái niệm cơ bản - Văn hóa: văn hóa là những truyền thống và lối sống mà một con người có được thông qua quá trình học hỏi và giao tiếp xã hội với tư cách là một thành viên trong cộng đồng. Văn hóa cũng chính là một cột mốc để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tạo nên nét riêng có của mỗi tộc người. Với việc xác định nội hàm của khái niệm Văn hóa, luận án áp dụng để phân tích các thành tố văn hóa của người Hmông theo đạo Tin lành như ăn, mặc, ở; các mối quan hệ xã hội; văn hóa tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo; văn hóa lối sống. - Văn hóa tộc người: Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, tâm lý, tình cảm, phong tục tập quán,… để người ta phân biệt tộc người này với tộc người khác. 3
  7. - Biến đổi văn hóa tộc người: Các quan hệ trao đổi , tiếp xúc về vật chất, phương tiện sinh hoạt, tư tưởng, tình cảm,... cùng với đó là những ảnh hưởng qua lại ở các mức độ đậm nhạt khác nhau tạo nên sự biến đổi văn hóa. Việc người Hmông giao lưu tiếp xúc với đạo Tin lành dẫn đến những biến đổi trong văn hóa. Điều này đã tạo cho văn hóa dân tộc của người Hmông có nhiều nét đặc sắc, chuyển biến mới. - Tín ngưỡng, tôn giáo: Theo quan điểm Mác-xít, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có quan hệ với các hình thái ý thức xã hội khác, đặc thù của ý thức tôn giáo là niềm tin vào cái siêu nhiên thần thánh - hay niềm tin hoang đường với chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo. - Tin lành: Tin lành là tên gọi của tôn giáo tách ra từ Công giáo qua cuộc cải tôn giáo đầu thế kỷ XVI ở châu Âu. Tên gọi Tin lành chỉ dùng ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX, do việc các giáo sỹ Mỹ, Canada khi dịch Kinh Thánh. - Đạo Tin Lành: Đạo Tin lành ra đời ở châu Âu vào đầu thế kỷ XVI với những đặc điểm cơ bản như sau [90]: (1). Đạo Tin lành đơn giản về luật lệ, lễ nghi, đề cao đức tin và vai trò cá nhân trong đời sống tôn giáo, đồng thời xây dựng về tổ chức theo hướng dân chủ. (2). Tin lành là một tôn giáo có đường hướng và phương thức hoạt động linh hoạt, năng động, luôn nhập thế, điều chỉnh về nội dung và hình thức hoạt động để phù hợp với thực tiễn thời đại. (3). Đạo Tin lành lấy việc truyền giáo làm nội dung của mọi hoạt động, lấy các hoạt động xã hội làm phương thức và điều kiện để truyền giáo. (4). Đạo Tin lành là tôn giáo có tư duy kinh tế và khuyến khích làm giàu, đồng thời đạo Tin lành có những mặt tiến bộ về xã hội, như tuân thủ luật pháp, sống tiết kiệm, bỏ các thói quen xấu như uống rượu, hút thuốc,… (5). Tuy nhiên, đạo Tin lành là tôn giáo đề cao đức tin nên thường xẩy ra việc ứng xử cực đoan trong mối quan hệ với tín ngưỡng truyền thống nơi đạo Tin lành truyền đến. - Vàng Chứ hay Vàng Trứ: (1)Vàng Chứ không phải chữ Hmông, mà là thuật ngữ Hán Việt: Miêu Vương xuất thế, phiên âm tiếng Hán là Miao Wang shu shi, tức là Vua Mèo xuất thế, là xưng Vua hay Vua ra; (2) là Vè Chứ (Véx Chúx ntủx) có nghĩa là Chúa Trời hay Đức Chúa Trời; (3) là Vương Chủ. Luận án sử dụng Vàng Chứ là Vương chủ. 1.2.2. Cơ sở lý thuyết Để nghiên cứu sự tác động của đạo Tin lành đến văn hóa Hmông tạo nên những biến đổi trong văn hóa, và ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa của người Hmông theo Tin lành với văn hóa truyền thống của họ; luận án sử dụng những lý thuyết tiếp cận là: lý thuyết chức năng cấu trúc; lý thuyết giao lưu, tiếp biến văn hóa; lý thuyết về xung đột. 1.2.3. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận án, tác giả sử dụng linh hoạt, có lựa chọn hệ thống phương pháp nghiên cứu Nhân học, trong đó phương pháp chủ đạo được dùng là điền dã dân tộc học, tiếp đến là phương pháp chuyên gia và ứng dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành để xử lý số liệu. Về điều tra bảng hỏi: Với 120 phiếu chia làm ba nội dung: (1). Nguyên nhân theo đạo Tin lành; (2). Quan hệ xã hội cộng đồng; (3). Tiếp biến văn hóa (thể hiện ở trang phục, nhà cửa, hôn nhân, tang ma.); mỗi một nội dung có 40 phiếu thu về. 4
  8. 1.3. Địa bàn và đối tượng nghiên cứu 1.3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu Ngày 01/10/1976, Lào Cai sáp nhập với hai tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đến ngày 01/10/1991, tỉnh Lào Cai được tái lập với diện tích tự nhiên 6.357km2 và đến nay gồm 9 huyện. Lào Cai có một vị trí địa chính trị, địa văn hóa đặc trưng, có đường biên giới với Trung Quốc, tập trung nhiều dân tộc thiểu số, có ý nghĩa quan trọng trong an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế - xã hội. Việc các tôn giáo du nhập vào các tộc người thiểu số ở Lào Cai, nhất là người Hmông theo đạo Tin lành có tác động đến nhiều mặt của xã hội, văn hóa, an ninh. 1.3.2. Người Hmông ở Lào Cai Theo Tổng điều tra dân số năm 2009 [3], người Hmông ở Lào Cai có 137.649 người, trong đó có 69.212 nam và 68.436 nữ; đứng thứ hai sau người Kinh. Người Hmông cư trú ở 606 làng, 109 xã của 8 huyện và thành phố Lào Cai; trong đó có 433 làng người Hmông cư trú độc lập và 173 làng cộng cư với các dân tộc anh em. Người Hmông ở Lào Cai có bốn nhóm chính, được phân bố ở các địa phương như sau: (1). Người Hmông Hoa (Mông Lênhx) có dân số đông nhất, chiếm 70% số người Hmông toàn tỉnh, cư trú ở tám huyện, tập trung đông nhất ở các huyện Bắc Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng và Bảo Yên. (2). Người Hmông Đen (Mông Đuz) cư trú ở các huyện Bát Xát, Sa Pa. (3). Người Hmông Xanh (Mông Njuôz) sống chủ yếu ở huyện Văn Bàn. (4). Người Hmông Trắng (Mông Đơưz) cư trú ở các huyện Bắc Hà, Bát Xát, Sa Pa và Si Ma Cai. Tiểu kết chương 1 Người Hmông nói chung, người Hmông ở Lào Cai nói riêng là một trong những dân tộc có nhiều nét đặc trưng về tộc người, từ nguồn gốc, địa bàn cư trú, đến văn hóa, lối sống, tín ngưỡng, phong tục tập quán,… Gần đây, một bộ phận người Hmông, người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành đã dẫn đến việc thay đổi về văn hóa, từ văn hóa, tín ngưỡng truyền thống sang văn hóa, lối sống Tin lành. Điều này làm thay đổi về văn hóa, bên cạnh mặt tích cực là những tiêu cực ảnh hưởng đến các mặt đời sống của người Hmông và của xã hội. Đến nay có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về người Hmông dưới các góc độ khác nhau, với nhiều công trình được công bố,… Thời gian gần đây, việc nghiên cứu về đạo Tin lành, người Hmông theo đạo Tin lành cũng đã thu hút được các học giả trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, đa số công trình nghiên cứu có phạm vi rộng, tầm vĩ mô, thiên về chính trị học, triết học; hoặc khi đánh giá về đạo Tin lành và chuyển đổi sang văn hóa Tin lành, chỉ nhấn mạnh mặt tiêu cực; chưa có nhiều nghiên cứu ở góc độ Nhân học, chưa tập trung vào nghiên cứu điểm cụ thể. Để Nghiên cứu luận giải sự chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa Tin lành của một bộ phận người Hmông ở một địa phương cụ thể, tức là phải tiếp cận nghiên cứu ba vấn đề lớn: tộc người, tôn giáo, văn hóa nên luận án đã làm rõ những khái niệm công cụ. Luận án sử dụng ý thuyết về chức năng cấu trúc, giao lưu tiếp biến văn hóa và xung đột được sử dụng để phục vụ nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm Điền dã dân tộc học, chuyên gia, so sánh, liên ngành,... để thu thập thông tin, tư liệu phục vụ nội dung nghiên cứu. 5
  9. CHƯƠNG 2 QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO TIN LÀNH TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HMÔNG Ở TỈNH LÀO CAI 2.1 Đạo Tin lành ở Việt Nam và quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông tại Lào Cai 2.1.1 Khái quát về đạo Tin lành ở Việt Nam Đạo Tin lành có mặt ở Việt Nam từ cuối thế kỷ thế kỷ XIX, cùng với binh lính và nhân viên quân đội viễn chinh Pháp. Các mục sư Tin lành người Pháp cố gắng rao giảng Tin lành cho người Việt nhưng không thành công. Cuối cùng Tin lành Pháp đành phải rút khỏi địa bàn mới mẻ và hấp dẫn để nhường chỗ cho tổ chức Hội Liên hiệp Cơ đốc và truyền giáo- CMA được thành lập ở Mỹ năm 1897, còn gọi là Hội Truyền giáo CMA. Như vậy, chỉ trong 30 năm (1985-2015), dân tộc Hmông ở Việt Nam đã có hơn 210 ngàn người theo đạo Tin lành, chiếm hơn 20% tổng số người Hmông- tương đương với tỷ lệ dân số Việt Nam theo tôn giáo (25%). Và theo thống kê nói trên, tỉnh Lào Cai cũng là một trong những trọng điểm của việc truyền đạo và theo đạo Tin lành. 2.1.2. Quá trình theo đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai Quá trình truyền bá đạo Tin lành vào địa bàn tỉnh Lào Cai có thể chia thành các giai đoạn sau: (1). Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1989 đến 1993 là thời kỳ mở đầu của việc tiếp cận đạo qua sự kiện “Vàng Chứ” sẽ xuất hiện, mọi người chuẩn bị đón và theo “Vàng Chứ”. Giai đoạn này tuyên truyền “Vàng Chứ” gắn với Giê-su là một, dẫn đến sự mập mờ giữa đạo Công giáo và Tin lành. (2). Giai đoạn thứ hai: từ năm 1993 đến 2005 là giai đoạn đạo Tin lành phát triển nhanh trong đồng bào Hmông ở các tỉnh miền núi phía Bắc và ở Lào Cai. Giai đoạn này, lực lượng hỗ trợ cho việc truyền bá đạo Tin lành vào vùng đồng bào Hmông ở Lào Cai chủ yếu vẫn là Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) là chính. (3). Giai đoạn ba: Từ năm 2005 đến nay, được đánh dấu từ Chỉ thị 01/CT-TTg, năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với đạo Tin lành. Các hoạt động của đạo Tin lành ở Lào Cai từng bước được hợp thức bằng việc mọi người được sinh hoạt tôn giáo tại gia đình, nếu ổn định thì làm thủ tục đăng ký điểm nhóm với chính quyền cơ sở. Năm 2014, có 24.166 người Hmông theo đạo Tin Lành, ở 8 huyện, thành phố; 64 xã, thị trấn [7; tr.5]. 2.2. Tình hình hoạt động của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai 2.2.1. Số lượng và sự phân bố Trong Báo cáo thống kê năm 2012 ở Lào Cai, toàn tỉnh có 3.620 hộ/19.824 người Hmông theo đạo Tin lành, ở 8 huyện, thành phố; 64 xã, thị trấn; 226 bản/thôn; sinh hoạt tôn giáo tại 168 điểm nhóm [5]. Cho đến hết năm 2012, tại Lào Cai có 48 điểm nhóm Tin lành thuộc Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Giáo hội Liên hữu Cơ đốc Việt Nam ở 26 xã được đăng ký sinh hoạt. Còn 120 điểm nhóm của 6 hệ phái chưa được chính quyền cơ sở cho đăng ký sinh hoạt [5].Tin lành ở Lào Cai có ở 6 hệ phái1, bao gồm: Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc); Liên hữu Cơ đốc Việt Nam; Hội thánh Phúc âm Ngũ tuần Việt Nam; Tin lành Trưởng lão Việt Nam; Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm; Tin lành truyền giảng Phúc âm Việt Nam. 6
  10. 2.2.2. Sinh hoạt tôn giáo Người Hmông theo đạo Tin lành ở Lào Cai, dù thuộc tổ chức, hệ phái Tin lành nào cũng thực hiện các sinh hoạt tôn giáo chính. Đó là việc cầu nguyện các ngày trong tuần; việc cầu nguyện của người Hmông đều được thực hiện tại nhà trước khi đi ngủ vào buổi tối, khi ngủ dậy vào buổi sáng và trước các bữa ăn, mỗi lần khoảng 5 phút. Vào các ngày Chủ nhật, việc cầu nguyện được tiến hành tập trung tại địa điểm sinh hoạt điểm nhóm (khi đã được công nhận) hoặc tại một nhà được lựa chọn trong thôn/bản. Họ đọc Kinh thánh, cầu nguyện mong Thiên Chúa ban phước lành cho gia đình và mọi người. Ngoài lễ cầu nguyện chính vào ngày Chủ nhật, tín đồ còn tổ chức cầu nguyện tập trung vào chiều hoặc tối thứ Năm. Một nghi lễ trong đạo Tin lành được người Hmông thực hiện đầy đủ và có ý nghĩa trong việc gắn kết giữa con người và Thiên Chúa đó là Lễ dâng con trẻ cho Thiên Chúa. Người Hmông theo đạo Tin lành ở Tỉnh Lào Cai cũng thực hiện và tham dự những ngày lễ trọng của tôn giáo như Lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh. 2.3. Nguyên nhân người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành 2.3.1. Sự bất cập của một số tập tục trước bối cảnh hội nhập Xét ở góc độ văn hóa, tác giả nhấn mạnh việc giảm tình cảm của bộ phận người Hmông đối vớí văn hóa truyền thống. Văn hóa truyền thống của dân tộc Hmông nhìn chung là tín ngưỡng đa thần nhưng một số phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng lại quá nhiều, quá rườm rà, khắt khe, có mặt trở thành hủ tục, lạc hậu, tốn kém. Đến một lúc nào đó, nhất là khi cuộc sống gặp khó khăn thì những phong tục tập quán gắn với tín ngưỡng truyền thống trở thành gánh nặng cho cuộc sống, cản trở sự tiến bộ, phát triển. Từ đó tạo ra sự khoảng trống về chỗ dựa về đời sống tâm linh trong cộng đồng người Hmông, dẫn đến việc họ tìm đến chỗ dựa tinh thần, tâm linh mới. 2.3.2. Những khó khăn trong đời sống vật chất và bất cập trong quản lý xã hội ở cơ sở Từ lâu, đời sống dân sinh, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc Hmông ở nhiều nơi nhìn chung là thấp so với mặt bằng chung, thậm chí một số nơi đời sống kinh tế- xã hội còn rất khó khăn. Trình độ thấp kém về kinh tế và những khó khăn trong đời sống là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho người Hmông nói chung và người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành. Ngoài ra, khi vấn đề Tin lành ở các vùng dân tộc thiểu số mà cụ thể ở dân tộc Hmông phát triển và diễn biến phức tạp, các địa phương đã chậm thống nhất chủ trương xử lý nên lúng túng, đôi khi giải quyết bằng biện pháp hành chính đã tạo ra tâm lý phản cảm, càng lôi kéo thêm nhiều người Hmông theo đạo hoặc dẫn đến sự cố kết bền vững của những người đã theo đạo Tin lành. 2.3.3 Sự hấp dẫn của giáo lý và nhạy bén trong truyền giáo của đạo Tin lành Trên thực tế, đạo Tin lành đã khai thác lợi thế của một tôn giáo cải cách, có những điểm tiến bộ về lối sống gắn với xã hội, tạo ra sự thu hút đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo, trong đó có người Hmông ở Lào Cai. Đạo Tin lành còn khai thác thành tựu của khoa học công nghệ thông tin để truyền giáo. Ngoài những nguyên nhân nói trên còn chú ý đến yếu tố tâm lý tộc người Hmông. Đạo Tin lành lần đầu tiên xâm nhập vào dân tộc Hmông dưới tên gọi là Vàng Chứ. Đây vừa là một hiện tượng tôn giáo, vừa là ý thức tộc người sâu sắc. Nó không chỉ phản ánh tồn tại xã hội hiện thời mà còn thừa kế ý thức xã hội quá khứ, là sự đan xen, tác động phức tạp của nhiều hình thái ý thức xã hội. 7
  11. Ở đây cũng có một vấn đề nữa cần nói thêm là sự biến đổi tín ngưỡng tôn giáo, từ đa thần sang nhất thần, từ tín ngưỡng đến tôn giáo, không chỉ ở dân tộc Hmông mà ở nhiều dân tộc khác, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, không phải bây giờ mà đã từ lâu. Khi kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống tâm linh của con người cũng không thể giữ mãi như cũ mà cũng phải biến đổi theo. Tuy nhiên, sự biến đổi diễn ra nhanh hay chậm và theo xu hướng nào lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tác động của bên trong và từ bên ngoài. Việc đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có người Hmông ở Việt Nam, người Hmông ở Lào Cai tin theo Tin lành là nằm trong tiến trình phát triển của tâm linh tôn giáo, đi từ tôn giáo đa thần (tín ngưỡng truyền thống) đến tôn giáo nhất thần- Tin lành. Như vậy, có nhiều nguyên nhân người Hmông nói chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng theo đạo Tin lành. Từ giữa những năm 1980, nhất là đầu những năm 1990 trở đi, các nguyên nhân nói trên đều xuất hiện tạo ra môi trường thuận lợi để người Hmông nói chung và người Hmông ở Lào Cai nói riêng theo Tin lành. Trong các nguyên nhân người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai, thì nguyên nhân về văn hóa là quan trọng và nguyên nhân về tâm lý tộc người là then chốt. Tiểu kết chương 2 Tỉnh Lào Cai có vị trí trọng yếu trong việc phát triển kinh tế vùng, đảm bảo an ninh, quốc phòng; Đây cũng là tỉnh có đông đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có người Hmông sinh sống. Vì vậy, việc đạo Tin lành du nhập vào người Hmông đã và đang có ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội của họ. Quá trình du nhập của đạo Tin lành vào người Hmông ở tỉnh Lào Cai thực sự bắt đầu từ năm 1989 cho đến nay được chia làm ba giai đoạn liên biến động về kinh tế - xã hội, văn hóa của người Hmông ở đây. Việc truyền đạo Tin lành vào người Hmông ở Việt Nam cũng như người Hmông ở Lào Cai chủ yếu bằng gián tiếp qua các phương tiện truyền thông, sau này khi đã hình thành cộng đồng theo Tin lành mới có sự tác động trực tiếp của các tổ chức Tin lành ở Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc người Hmông ở Lào Cai theo đạo Tin lành như nguyên nhân về kinh tế, về tâm lý, về quản lý của chính quyền,... nhưng nguyên nhân then chốt chính là sự mất niềm tin vào văn hóa truyền thống với những yếu tố “lạc hậu”, không còn phù hợp cùng với những lợi thế của đạo Tin lành. Với việc xác định đúng các nguyên nhân theo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai sẽ có đánh giá đúng về hiện tượng tôn giáo đặc thù này, cũng như những cách nhìn nhận và xây dựng chính sách dân tộc, tôn giáo một cách đúng đắn, phù hợp và hiệu quả. Cùng với thời gian, đạo Tin lành đã trở thành một thực thể trong người Hmông ở Việt Nam, trong đó có người Hmông ở tỉnh Lào Cai, đặt ra cho các cấp chính quyền phải quan tâm giải quyết. Đặc biệt, việc truyền đạo Tin lành của người Hmông đã tạo ra sự thay đổi về văn hóa của một bộ phận người Hmông, hình thành một không gian văn hóa mới- văn hóa Tin lành, góp phần đa dạng văn hóa của tộc người Hmông ở Việt Nam. CHƯƠNG 3 : THỰC TRẠNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI HMÔNG THEO ĐẠO TIN LÀNH Ở TỈNH LÀO CAI 3.1. Văn hóa vật chất 3.1.1. Văn hóa ẩm thực Văn hóa ẩm thực là một trong ba thành tố của văn hóa vật chất (ăn - mặc - ở). Ẩm thực không chỉ đơn giản là ăn cho no mà đi cùng với nó là cả một nền văn hóa 8
  12. đặc trưng của tộc người, đó là sự ứng xử với tự nhiên, là cách thức ứng xử với xã hội, là yếu tố của cố kết cộng đồng. Món ăn đặc trưng của người Hmông là Tháng cố, tiết canh, đặc biệt là tiết canh gà. Người Hmông rất thích uống rượu ngô do mình tự nấu, chén rượu đối với người Hmông như là miếng trầu của người Kinh. Chén rượu còn là tình cảm chân thành và đằm thắm của người mới đối với người được mời. Người được mời uống chén rượu là trân trọng tình cảm của người mời [106,tr.85]. Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, trong bữa ăn hàng ngày cũng không có nhiều thay đổi về nguồn nguyên liệu, cách thức chế biến đồ ăn. Bữa ăn vẫn là thời điểm các thành viên trong gia đình gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện với nhau về công việc trong ngày, nhắc nhở con cái. Tuy nhiên, có một điểm riêng rất dễ nhận thấy trong bữa ăn của gia đình người Hmông theo đạo Tin lành đó là, trước khi ăn có cầu nguyện, nói những lời ngợi ca Thiên Chúa, cảm ơn Thiên Chúa đã cho bữa cơm đầy đủ (Nguồn điền dã của tác giả). Tuy nhiên trong bữa ăn của người Hmông theo Tin lành, kể cả ngững ngày vui (lễ tết, hay cưới xin, tang ma,…) hầu như không sử dụng rượu, nếu có chỉ dành cho khách là người Hmông không theo đạo, vẫn giữ văn hóa truyền thống. Việc không ăn thịt chó và ăn tiết canh thì người Hmông theo đạo Tin lành tại điểm nghiên cứu thực hiện khá tốt. Với việc hạn chế uống rượu, ăn tiết canh đã dần tách cộng đồng người Hmông theo đạo Tin lành với cộng đồng chung của người Hmông. Người Hmông lấy rượu làm đầu câu chuyện, làm sợi dây kết nối các thành viên với nhau, nhận mặt khách thành người nhà. Uống rượu chính là nét văn hóa của người Hmông. Vậy mà, khi theo đạo Tin lành, người Hmông không uống hoặc giảm dần uống rượu. Do đó, không uống rượu đã tạo nên ranh giới của sự khác biệt đối với người Hmông truyền thống. Ngoài ra, khi theo Tin lành, họ không ăn tiết canh và ăn thịt chó nữa, điều này cũng tạo nên sự phân định giữa hai cộng đồng theo đạo và không theo đạo. Không uống rượu, không ăn tiết canh, người Hmông theo đạo Tin lành cũng hạn chế tham dự các ngày lễ tết, dịp cưới xin, tang ma,… nếu có chăng thì cũng chỉ ngồi với nhau ở một chỗ, chứ không thực sự tham gia theo đúng nghĩa. 3.1.2 Văn hóa trang phục Sự thay đổi trong trang phục của người Hmông không phải đợi đến khi Tin Lành du nhập vào, mà từ rất lâu, mấy thập kỷ trước- khi người Kinh di cư lên miền núi. Trong tư tưởng của những người Hmông theo Tin Lành vẫn có sự tự hào và ý thức gìn giữ trang phục truyền thống của dân tộc mình. Bằng chứng là khi đưa ra lý do vì sao lựa chọn kiểu trang phục truyền thống trong việc tham dự nghi lễ tôn giáo cũng như các dịp quan trọng thì có 57,5% đưa ra lý do là vì đó là trang phục của dân tộc mình. 3.1.3 Nhà ở Đối với người Hmông theo Tin lành tại Lào Cai, khi tách hộ và xây dựng mới thì vẫn có trường hợp kết hợp xây dựng với kiểu nhà của người Kinh, tức là có xây gạch xi măng, lợp mái ngói. Cũng giống như người Hmông giữa văn hóa truyền thống, cách bố trí các gian trong ngôi nhà của người Hmông theo Tin Lành vẫn giữ mô hình cũ, khác biệt duy nhất đó là gian giữa của người Hmông theo đạo không có bàn thờ cúng tổ tiên. Việc xây dựng nhà kiên cố với những vật liệu hiện đại thường được những hộ người Hmông theo đạo áp dụng nhiều hơn so với người Hmông vẫn giữ văn hóa truyền thống. Tỷ lệ nhà xây dựng theo kiểu kết hợp giữa truyền thống và cách thức xây dựng của người Kinh ở người Hmông theo Tin Lành là 62,5%; và đây 9
  13. cũng là kiểu nhà mà người Hmông theo Tin Lành thích ở. Còn nếu xét về tổng thể khuôn viên thì nhà ở của người Hmông theo đạo sạch sẽ, vệ sinh. 3.2. Văn hóa xã hội 3.2.1. Mối quan hệ truyền thống của người Hmông ở Lào Cai * Đặc điểm của các mối quan hệ truyền thống Yếu tố làm nên sức mạnh của tộc người Hmông chính là tâm thức - ý thức tộc người, mà một phần được thể hiện trong thiết chế xã hội truyền thống với sự liên kết của các mối quan hệ điển hình như: quan hệ gia đình, quan hệ dòng họ, quan hệ cộng đồng với đặc trưng là mối quan hệ gia đình chi phối bởi yếu tố phụ quyền; dòng họ là nền tảng của xã hội Hmông truyền thống và hiện nay; mối quan hệ giữa các dòng họ tạo nên ý thức cố kết cộng đồng của tộc người Hmông. Như vậy, với mối quan hệ cộng đồng được thể hiện trong tổ chức bản tại một vùng hay giữa các vùng với nhau của người Hmông là yếu tố gắn kết ý thức tộc người. Điều này tạo nên sức mạnh cộng đồng, ý chí của người Hmông để đến tận ngày nay tộc người Hmông vẫn tồn tại và phát triển cùng với những bản sắc vốn có của mình. * Vai trò của các mối quan hệ truyền thống Mối quan hệ gia đình giữa vợ - chồng, anh - em, cha - con tạo nên một mối liên kết chặt chẽ, góp phần tạo dựng nền tảng cho sự cố kết cộng đồng từ trong huyết thống đến mối quan hệ dòng họ. Có thể nói, trong cấu trúc xã hội của người Hmông bao gồm gia đình, dòng họ và cộng đồng làng bản. Trong đó, gia đình là đơn vị hạt nhân cùng với tổ chức dòng họ đóng vai trò trong việc tăng cường cố kết cấu trúc xã hội của người Hmông tại một địa vực cư trú nhất định, nhưng cũng mang tính hướng ngoại, mở rộng giao lưu với các thành viên của các vùng khác. Các dòng họ là những sợi dây liên hệ vượt ra khỏi phạm vi của bản để liên kết thắt chặt quan hệ đồng tộc, tạo nên sự cố kết tộc người xuyên vùng, xuyên quốc gia, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Chính những ứng xử trong dòng họ, gia đình và cộng đồng làng bản của người Hmông gắn với những nghi thức, phong tục tập quán đã tạo nên một nét văn hóa riêng đặc trưng của người Hmông ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Lào Cai nói riêng. 3.2.2. Mối quan hệ gia đình của người Hmông theo Tin Lành ở Lào Cai 3.2.2.1. Mối quan hệ giữa người vợ và người chồng Mối quan hệ vợ chồng được thiết lập trên nền tảng của một cuộc hôn nhân, khi người đàn ông và người phụ nữ cam kết sống chung với nhau, có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau và với con cái. So sánh hôn nhân của người Hmông theo Tin lành tại các điểm nghiên cứu cho thấy những khác biệt, chuyển biến cơ bản. - Trường hợp thứ nhất, cả người trai và người gái đều theo Tin lành và cùng đi đến hôn nhân. Để tiến tới hôn nhân, đôi trai gái đã có sự tìm hiểu, thể hiện tình cảm xuất phát từ hai phía. Theo Tin lành, khi hai người muốn tiến tới hôn nhân thì phải tự nguyện đến với nhau, không bị ai ép buộc, dựa trên tinh thần tự nguyện như vậy thì hai bên phải có trách nhiệm với nhau. Như vậy, có thể thấy rằng, với sự tự nguyện, xuất phát từ tình cảm của đôi trai gái đã thể hiện rõ nét sự bình đẳng trong hôn nhân, trong quan hệ vợ chồng, người phụ nữ được chủ động trong việc quyết định số phận của mình. Ngoài ra, trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân, đôi trai gái được học lư lẽ, được sự răn dạy theo Kinh thánh và phải hứa trước Thiên Chúa là yêu thương, gắn bó, cùng nhau lao động sản xuất, nuôi dạy con cái. Trong quan hệ vợ chồng, Kinh thánh cũng chỉ rõ, người chồng là người chủ mẫu mực, yêu thương và trung thành; 10
  14. người vợ phải có nghĩa vụ đáp lại tình cảm đó. Quan niệm trong hôn nhân của Tin lành là hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Điều này cũng tương tự như trong văn hóa truyền thống của người Hmông khi mong muốn cuộc sống gia đình của đôi trai gái được hòa thuận. Có khác chăng là một bên phải có sự chứng nhận của Thiên Chúa, phải sống theo lời dạy của Kinh thánh; còn một bên là sự chứng kiến của tổ tiên, dòng họ. Văn hóa Hmông truyền thống hay văn hóa Tin lành có các cách thực hiện nghi lễ riêng của mình và tạo ra sự khác biệt, được thể hiện rất rõ trong việc tổ chức đám cưới (phần này sẽ được phân tích ở nghi lễ hôn nhân của người Hmông theo Tin lành). Một điểm tích cực nữa của Tin lành trong quan hệ hôn nhân của người Hmông là yêu cầu các cặp vợ chồng mới cưới phải có sự chứng nhận của pháp luật, tức là phải có đăng ký kết hôn. Đây là một ưu điểm của Tin lành vì đạo này luôn đưa yêu cầu đối với tín đồ của mình là sống và làm việc đúng pháp luật, coi trọng việc tuân thủ luật pháp. Đây cũng là một điểm để bảo đảm cho quyền hợp pháp của người phụ nữ khi có vấn đề xảy ra trong hôn nhân, và cũng là để khẳng định vị thế của người phụ nữ Hmông trong xã hội. - Trường hợp thứ hai, vợ hoặc chồng theo Tin lành. Với tình huống này, cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng đã có độ chênh khá lớn, đặc biệt xuất hiện xung đột lớn về vị thế. Để tiến tới sự dân chủ và bình đẳng, đạo Tin lành đã có những quy định trong quan hệ vợ chồng, làm giảm đi quyền của người đàn ông trong gia đình (điều trái ngược hoàn toàn trong văn hóa truyền thống của người Hmông) như không được đánh chửi vợ, không rượu chè hút sách, phải chí thú làm ăn,... Những quy định này đem lại nhiều lợi ích cho người phụ nữ, giải tỏa tư tưởng và cuộc sống thực tế của phụ nữ Hmông. Với việc theo Tin lành, người phụ nữ Hmông tự tin trong việc đấu tranh bình quyền, phản kháng lại những cưỡng ép của các chế định cổ hủ, lạc hậu, trọng nam khinh nữ. Nhưng cũng chính vì vậy, nếu trong gia đình chỉ có vợ theo Tin lành, chồng không theo đạo thường dẫn đến xung đột, xích mích trong quan hệ vợ chồng. Quả thực, mối quan hệ vợ chồng của người Hmông theo Tin lành ở Lào Cai, một mặt đem lại nhiều chuyển biến tích cực trong bình đẳng giới, vợ chồng thương yêu, tôn trọng nhau và cùng sản xuất cải thiện kinh tế, góp phần ổn định xã hội. Bên cạnh đó, việc một trong hai người, vợ hoặc chồng theo Tin lành cũng ít nhiều gây ra những mâu thuẫn nhất định. 3.2.2.2. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình Quan hệ gia đình người Hmông hiện nay ít nhiều đã có sự thay đổi, những quy định và kiêng kỵ khắt khe trong gia đình dần được xóa bỏ. Trước đây, trong gia đình người Hmông, con dâu không được ngồi ăn chung với bố chồng, nhất là khi có khách, nhưng bây giờ khi theo Tin lành, con dâu đã có thể ngồi ăn chung mâm với bố chồng và khách. Trong quan hệ gia đình, người Hmông theo đạo Tin lành có những thay đổi nhất định. Quan hệ ứng xử trong gia đình, các thứ bậc trên dưới vẫn được duy trì theo truyền thống. Tuy nhiên, trong gia đình, người Hmông theo Tin lành, sự bình đẳng giữa các thành viên được tôn trọng, giảm dần sự áp đặt. Đặc biệt, người Hmông theo Tin lành có tính tự lập, được giáo dục và đề cao. Bởi theo họ, Kinh thánh dạy mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa. 11
  15. Tuy nhiên, mối quan hệ gia đình của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống cũng đã có thay đổi so với gia đình truyền thống trước đây do tác động của sự vận động phát triển của xã hội. Những chuyển biến, đổi thay trong mối quan hệ này, trước tiên là việc giảm đi những điều cấm kỵ mang tính khắt khe trong mối quan hệ giữa bố mẹ chồng và con dâu, giữa chị em dâu với anh em trai bên nhà chồng; tính bền vững trong gia đình vẫn luôn được khẳng định. Ở Lào Cai, gần như 100% tất cả các thành viên trong gia đình Hmông theo Tin lành và chỉ có rất ít trường hợp bố mẹ không theo đạo Tin lành trong khi các con theo đạo. Cả gia đình cùng theo Tin lành đã góp phần làm cho các mối quan hệ trong gia đình mang tính hiện đại, văn minh hơn. Các thành viên trong gia đình bình đẳng, tôn trọng tự do riêng của mỗi người, và đề cao vai trò tự quyết của mỗi cá nhân. Trong mối quan hệ này cần phải nhắc đến sự góp mặt của người thứ ba, đó là Thiên Chúa. Ngoài việc các thành viên có trách nhiệm, tôn trọng các mối quan hệ thứ bậc trong gia đình thì họ sẽ dành một phần tình cảm, một phần chia sẻ với Thiên Chúa. Và Thiên Chúa luôn theo sát để điều chỉnh cách ứng xử của họ. Trường hợp trong gia đình có người theo và người không theo Tin lành. Thông thường trong những gia đình này có thế hệ thứ hai là con trai và con dâu theo Tin lành, còn thế hệ thứ nhất là người cha và mẹ không theo đạo. Ở trường hợp này rất hay xảy ra mâu thuẫn trong gia đình, bất đồng quan điểm từ cách suy nghĩ làm ăn, đối xử với vợ con, đến việc thực hiện các nghi thức liên quan đến chu kỳ vòng đời. Tuy nhiên, trường hợp này không nhiều, vì nếu vợ chồng người con theo đạo mà cha mẹ không theo thì thường có xu hướng tách hộ. 3.2.3. Quan hệ dòng họ Khi theo đạo Tin lành, quan hệ giữa các thành viên của dòng họ cùng huyết thống có những thay đổi rõ rệt. Cụ thể: Thứ nhất, vị trí vai trò của dòng họ giảm đi đáng kể, nhất là vai trò của ông trưởng họ. Tầm ảnh hưởng và quyền lực của ông trưởng họ bị phai nhạt dần, không còn chi phối đời sống cộng đồng dòng họ. Vị trí người trưởng họ được thay thế bằng Thiên Chúa, và người Mục sư, trưởng nhóm. Những người theo đạo trong dòng họ không nghe theo chỉ dẫn, yêu cầu của trưởng họ trong các cách thức tổ chức nghi lễ truyền thống. Thứ hai, sự phân hóa giữa người theo Tin lành và người không theo Tin lành trong cùng một dòng họ rất lớn. Các thành viên trong cùng dòng họ có sự cố kết chặt chẽ, có các quy tắc ứng xử giữa các thành viên; nhưng khi theo Tin lành sẽ dẫn đến phá vỡ các quy tắc ứng xử, gây nên các mâu thuẫn với các thành viên khác trong dòng họ. Những người theo Tin lành sẽ bị tách ra khỏi dòng họ vì họ không còn tuân theo những chuẩn mực đạo đức, ứng xử của dòng họ; họ phai nhạt dần ý thức về nguồn gốc, tổ tiên, lịch sử dòng họ, phong tục tín ngưỡng dòng họ; và cuối cùng… là đứng ngoài các sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng truyền thống của dòng họ. 3.2.4. Mối quan hệ xã hội của cộng đồng người Hmông theo Tin lành Việc theo đạo Tin lành cũng giúp tạo ra mối quan hệ cố kết và sự giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần của cộng đồng, rộng hơn của dòng họ. Từ đây hình thành nên một cộng đồng mới, đó là cộng đồng người Hmông cùng theo Tin lành. Cộng đồng này liên kết với nhau vượt ra khỏi dòng họ, thôn bản; dần tạo nên một cố kết cộng đồng mới mà sức mạnh đoàn kết không thua kém gì so với sự cố kết dòng 12
  16. họ truyền thống của người Hmông. Đặc biệt, với những người Hmông di cư tự do đã sử dụng Tin lành như một phương tiện để gắn kết lại với nhau và trợ giúp lẫn nhau khi mà sự giúp đỡ của người cùng họ, cùng ma không thể phát huy tác dụng. Họ giúp đỡ nhau trong sản xuất, chia sẻ khó khăn, động viên hỗ trợ về cả vật chất và tinh thần. Các tín đồ Tin lành người Hmông thường nói “đạo” quan trọng hơn “họ”. Bởi vì, nếu theo quan hệ dòng họ thì chỉ có những người cùng họ, cùng ma mới có thể giúp đỡ nhau hết mình và có thể chết trong nhà của nhau. Nhưng nếu theo “đạo”, tất cả người Hmông bất kể thuộc họ nào đều là anh em, đều phải có trách nhiệm quan tâm giúp đỡ nhau và đều có thể chết trong nhà của nhau. Những người theo đạo ở thôn bản đều có trách nhiệm giúp đỡ lẫn nhau, nhất là vào những dịp đặc biệt như làm nhà mới, cưới xin, ma chay,… Ngoài ra, trong những trường hợp gặp phải rủi ro như bị cháy nhà, bị tai nạn,… thì người theo đạo Tin lành bị nạn cũng nhận được sự giúp đỡ của các đồng đạo ở các thôn bản lân cận. Trên thực tế, sâu xa trong bản chất thì sự tiếp thu ảnh hýởng của ðạo Tin lành hay sự cải đạo theo Tin lành đã dẫn tới sự phân chia người Hmông trong cùng một chi họ, ngành họ và dòng họ thành hai nhóm khác biệt nhau: nhóm theo Tin lành và nhóm vẫn giữ tín ngưỡng truyền thống. Những người Hmông theo Tin lành thường ít giao tiếp với những người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống. Họ cũng ít tham dự, nhất là tham dự ăn uống, các nghi lễ tổ chức theo tín ngưỡng truyền thống. Mức độ quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau cả về vật chất và tinh thần giữa những người theo và không theo Tin lành trong cùng dòng họ, nhất là vào các dịp đặc biệt như hiếu hỉ cũng trở nên ít hơn so với người cùng tín ngưỡng. Đặc biệt, cũng có không ít trường hợp mối quan hệ thân tộc của những người theo và không theo Tin lành trở nên lỏng lẻo bởi những người theo Tin lành chỉ còn nhận ra mình có mối quan hệ họ hàng với những người khác thông qua tên họ mà thôi. 3.2.5 Vai trò của người phụ nữ Hmông Sự tiếp nhận đạo Tin lành cũng gây ra sự biến đổi trong mối quan hệ giới. Cụ thể, khi theo Tin lành thì đàn ông phải bỏ rượu, bỏ thuốc lá, không được đánh chửi vợ con, phải để cho vợ con nghỉ ngơi đi cầu nguyện tập trung vào ngày chủ nhật,… Trong các gia đình theo đạo Tin lành, địa vị của người phụ nữ được đề cao sánh ngang với người đàn ông. Họ không phải làm quần quật mà không được hưởng thụ, không phải lo toan mọi việc, nhất là không phải lo thu vén để trả các món nợ do chi phí quá lớn trong các cuộc tế lễ hay làm ma khô cho bố mẹ. Theo đạo Tin lành, người phụ nữ Hmông được khẳng định vị trí của mình trong xã hội, được tham gia quyết định các công việc của cộng đồng - điều mà trước đây họ ít được tham dự. Người phụ nữ có cơ hội để giao tiếp, thể hiện mình trước cộng đồng, từ đó người phụ nữ có cơ hội để thể hiện vẻ đẹp, sự duyên dáng của mình. Họ cũng chăm chú hơn trong cách ứng xử và càng chăm chỉ, khéo léo trong chức năng phụ nữ. Mặc dù vậy, người phụ nữ Hmông vẫn luôn thể hiện sự khiêm nhường, kính trọng người đàn ông và các thành viên khác trong gia đình bởi đó cũng là một phần bản sắc của người phụ nữ Hmông. 3.2.6. Vai trò của người có uy tín Trong xã hội của người Hmông, có những người giữ vai trò quan trọng đó là những người có uy tín trong cộng đồng như trưởng họ, người cầm quyền ma, quyền khách, bà cô, thầy ma, ông cậu. Sự du nhập của Tin lành gây ra những xung đột giữa các thế hệ, cụ thể là giữa thế hệ trẻ và thế hệ già. Những xung đột này thể hiện qua 13
  17. nghi lễ mà người Hmông gọi là “pe tsiab”. Cụ thể, theo phong tục của người Hmông, vào ngày đầu Năm mới hay vào ngày Tết cổ truyền của người Hmông, những người trẻ phải đi thăm và cúi lạy những người già trong thôn bản. Nhưng sau khi theo Tin lành, những người trẻ không cúi lạy bất cứ ai ngoài Chúa.Với sự du nhập của đạo Tin lành, vai trò của già làng, trưởng bản bị giảm sút, thậm chí mất đi, nhường chỗ cho “một tầng lớp mới” - người đứng đầu các điểm nhóm Tin lành theo bản, hoặc là Mục sư, Truyền đạo; những người tích cực truyền đạo, mà tuổi đời hầu hết là thanh niên, trung niên và tầng lớp thanh niên chịu ảnh hưởng của Tin lành. Những người này đã coi nhẹ ý thức tiếp nhận thuần phong mỹ tục truyền thống mà cha ông muốn truyền lại. Lớp người cao tuổi, già làng, trưởng bản, trưởng họ không thể bảo ban, lưu truyền lại những giá trị văn hoá dân tộc cho thế hệ sau. 3.3. Văn hóa tâm linh và tôn giáo của người Hmông theo Tin lành 3.3.1. Tín ngưỡng truyền thống trong đời sống người Hmông ở Lào Cai Do đặc điểm lịch sử, văn hóa và tộc người, người Hmông sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung, ở Lào Cai nói riêng đều có đời sống tín ngưỡng rất phong phú với nhiều loại hình thờ cúng của tín ngưỡng đa thần mang tính nguyên thủy, đã được hình thành và lưu giữ từ rất lâu. Tâm linh và tín ngưỡng truyền thống của người Hmông bao gồm những quan niệm về vũ trụ, quan niệm về linh hồn, quan niệm về các loại ma, các hình thức thờ cúng và các nghi lễ nông nghiệp. Việc thờ cúng tổ tiên dưới góc độ văn hóa, đạo lý vẫn còn ý nghĩa duy trì, gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc Hmông, củng cố ý thức cộng đồng. Tuy nhiên, ở các nghi lễ của người Hmông truyền thống có thể thấy nhiều thủ tục rườm rà, thậm chí tốn kém, nhiều bài cúng khó, nhiều nghi lễ còn mang nặng tính hủ tục không còn phù hợp với nếp sống mới, trong đó đáng kể nhất là sự rườm rà đến tốn kém về sức lực, thì giờ và tiền của. Dưới tác động của nhiều yếu tố, từ yếu tố nội sinh như tâm lý tộc người, sự mất dần uy tín của tín ngưỡng truyền thống đến yếu tố khách quan như toàn cầu hóa, sự phát triển của khoa học, tiếp xúc các luồng tư tưởng mới, trong đó có Tin Lành thì tín ngưỡng truyền thống của người Hmông đã có sự chuyển biến, thay đổi nhất định. 3.3.2. Sự biến đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông theo Tin lành ở tỉnh Lào Cai Việc chuyển sang đạo Tin lành của người Hmông ở Lào Cai vừa có thể hiểu là Biến đổi tín ngưỡng tôn giáo hay thay đổi tín ngưỡng. Giữa biến đổi và thay đổi có sự phân biệt về mức độ, một bên là sự chuyển dần dần, trong cái mới ta vẫn nhận thấy bóng dáng của cái cũ - đó là biến đổi; còn việc cái cũ bị thay thế hoàn toàn trở thành một cái mới - đó là thay đổi. Do vậy, trong việc nghiên cứu về văn hóa tín ngưỡng việc sử dụng cố định thuật ngữ biến đổi hay thay đổi cần có sự linh hoạt tùy vào mỗi thành tố. Với các nghi lễ cầu cúng trong đám cưới, đám ma, nhà mới,… những gì liên quan đến tín ngưỡng thì sự thay đổi là rõ ràng. Đối với các thiết chế xã hội truyền thống thì là biến đổi dần dần, ở đó vẫn có thể nhìn thấy những điểm chung của văn hóa truyền thống với văn hóa Tin lành, khi cả hai luôn hướng con người tới những giá trị tốt đẹp, cuộc sống hài hòa. Cụ thể: Thứ nhất, chuyển từ thờ đa thần sang thờ nhất thần: Một đặc điểm chung nhất của các tôn giáo hiện đại để phân biệt rõ nhất với tôn giáo nguyên thủy - tín ngưỡng dân gian chính là thờ nhất thần, còn gọi là tôn giáo độc thần. Đây chính là điểm nhận thấy đầu tiên trong sự biển đổi tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông từ việc tin, việc 14
  18. thờ nhiều Ma đến việc chỉ tin, chỉ thờ một con Ma là Chúa – Giê-su. Từ đây hình thành nên một tiểu văn hóa (subcultures) đó là văn hóa Hmông Tin Lành.Văn hóa Hmông theo Tin lành có sự đối lập với văn hóa Hmông truyền thống, vì một bên là có niềm tin vào Chúa, một bên là niềm tin vào Ma. Với việc đặt niềm tin vào Chúa hay Ma, sẽ tác động đến cách thực hành nghi lễ, cách thức ứng xử khác nhau. Nếu miền tin vào Chúa sẽ thực hành nghi lễ thờ phượng Chúa theo cách riêng, khác với việc cúng ma theo tín ngưỡng truyền thống, mà điều này liên quan đến bản sắc văn hóa của tộc người Hmông được hình thành và lưu giữ từ nhiều đời nay. Khi theo Tin lành, quan niệm về linh hồn đã khác, linh hồn khi chết đi là về với Chúa, được Chúa che chở, chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên đã bị xóa bỏ, thay vào đó là việc cầu nguyện theo nghi thức Tin lành. Cùng với đó, quan niệm về các loại ma và các hình thức cúng ma của người Hmông theo Tin lành đã không còn. Như vậy, khi theo đạo Tin lành đã làm thay đổi từ tín ngưỡng vật linh giáo, đa thần nguyên thủy sang tôn giáo nhất thần, kéo theo đó là sự chuyển đổi từ chỗ thực hành đức tin không thường xuyên, không có quy tắc sang thực hành thường xuyên, có quy tắc. Các nghi thức trong sinh hoạt tâm linh cũng biến đổi sang nghi lễ tôn giáo. Các nghi lễ liên quan tới chu kỳ đời người đểu cắt bỏ, hoặc được tổ chức đơn giản bằng việc cầu nguyện với sự chứng giám của Chúa và có sự giúp đỡ của Mục sư hay Trưởng nhóm. Người theo đạo Tin lành không lập bàn thờ, không thực hiện các ngày giỗ. Thứ hai, những lễ hội truyền thống được thay thế bằng các buổi cầu nguyện tập thể tại một địa điểm (nhà Trưởng nhóm, nhà nguyện hay nhà người dân) và các ngày lễ trọng của tôn giáo - sinh hoạt tôn giáo: Sau những công việc của cuộc sống thường nhật, tham gia lễ hội đã tạo điều kiện cho người Hmông giao lưu, giải trí, sáng tạo, học hỏi lẫn nhau. Không những thế, các lễ hội này còn lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình, dòng họ, cộng đồng và tăng cường sự cố kết cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, các lễ hội của người Hmông được tổ chức khá tốn kém về kinh tế, để tham gia các lễ hội nhiều người phải đi vay mượn, phải tuân theo những quy tắc lễ nghi rườm rà nên đã có nhiều người Hmông tham dự miễn cưỡng. Đối với người Hmông theo đạo Tin lành, 70% số người được hỏi đã trả lời là không tham gia bất kỳ tổ chức lễ, lễ hội truyền thống, bỏ sinh hoạt văn hóa truyền thống của gia đình, dòng họ, cộng đồng. Theo Tin lành tức là theo Chúa, tin vào Chúa; không tin vào Ma nhà, chính vì vậy đây cũng là lý do mà người Hmông ít hoặc không tham dự các lễ hội truyền thống. Đây cũng là lý do tạo ra khoảng cách giữa những người theo đạo và người không theo đạo, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa họ. Đối với những người Hmông không theo đạo Tin lành cho rằng, như thế sẽ làm phai nhạt đi bản sắc văn hóa của dân tộc, không tôn trọng văn hóa truyền thống. Thứ ba, những quy định của dòng họ, làng bản được thay thế bởi luật lệ tôn giáo: Xã hội truyền thống của người Hmông có các quy ước (txux tenhv chei), khoản ước (ntu xăngr txăngr), luật tục rất cụ thể, nghiêm ngặt và bắt buộc mọi người phải thực hiện. Quy ước, khoản ước, luật tục trong xã hội truyền thống của người Hmông đã góp phần tạo dựng nên một thiết chế bền vững, phát huy tính cố kết cộng đồng. Tuy nhiên, với sự vận động và phát triển của xã hội hiện tại, việc mở rộng giao lưu với thế giới mới, khoa học công nghệ,... nhất là một lượng người Hmông tiếp xúc và theo đạo Tin lành đã tuân thủ luật lệ tôn giáo thay cho quy ước, khoản ước, luật tục truyền thống. Một trong những điều kiện để xác định tôn giáo là có luật lệ, mỗi một tôn giáo đều xây dựng cho mình một hệ thống giáo luật chặt chẽ, quy định được làm 15
  19. hay không được làm của tín đồ và đã là tín đồ tôn giáo thì tự nguyện chấp hành. Ý thức trong thực hiện nghiêm túc các luật lệ của đạo Tin lành xuất phát từ niềm tin của tín đồ, người Hmông theo đạo Tin lành tin rằng, làm theo gương của Chúa, yêu Chúa, làm việc thiện tránh việc ác sẽ được ân sủng của Chúa và khi chết sẽ được lên Thiên đường với Chúa. Chính niềm tin tôn giáo này đã điều chỉnh hành vi của tín đồ và hướng họ đến những điều được quy định trong tôn giáo một cách tự thân nhất. Thứ tư, các nghi thức trong chu kỳ vòng đời (sinh đẻ, cưới xin, ma chay), làm nhà,... mang đặc sắc riêng của từng dòng họ, địa phương của người Hmông thay thế bằng nghi thức tôn giáo mang tính thống nhất: Cưới xin và tang ma là hai hình thái thể hiện rõ nhất sự thay đổi trong tín ngưỡng truyền thống sang tôn giáo mới, vì vậy tác giả luận án tập trung phân tích hai hoạt động này để làm rõ vấn đề. * Thay đổi trong thủ tục, nghi thức cưới xin Điều chung hết, khi theo đạo Tin lành, người Hmông tiếp cận quan niệm hôn nhân theo lối hiện đại của đạo Tin lành, tổ chức đơn giản, không tốn kém. Đặc biệt, người Hmông theo Tin Lành đã bỏ việc tảo hôn, thực hiện nghiêm túc chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Nghi lễ hôn nhân, ngoài việc đăng ký kết hôn được chính quyền chấp nhận, còn có thêm nghi lễ tôn giáo. Nghi lễ tôn giáo được thực hiện ở nhà thờ, nếu không có nhà thờ thì thực hiện ở nhà nhóm hay điểm nhóm- ở một gia đình trong bản được mượn để nhóm làm lễ. Thực hiện nghi lễ hôn nhân theo quan niệm của Tin lành là có sự chuẩn nhận của Thiên Chúa. Bảng So sánh đám cưới của người Hmông theo Tin Lành và người Hmông truyền thống Truyền thống Tin Lành - Có tục Kéo vợ - Không có Kéo vợ - Có sự tham gia sắp đặt của bố mẹ, gia - Dựa trên sự tự nguyện của người đình con trai và người con gái - Làm lễ, làm lý cúng - Cầu nguyện - Múa khèn - Hát Thánh ca - Người chủ lễ là trưởng họ - Người chủ lễ là mục sư hoặc trưởng nhóm - Tiền thách cưới là 30 – 45 triệu đồng - Tiền thách cưới 10 triệu đồng - Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: - Tổng tiền để tổ chức đám cưới là: 70 triệu đồng 20 triệu đồng - Sử dụng rượu trong đám cưới: khoảng - Không uống rượu bia, chỉ uống 100 lít nước ngọt (Nguồn tư liệu điền dã của tác giả, năm 2014). Như vậy, việc cưới xin của người Hmông theo tín ngưỡng truyền thống và người Hmông theo Tin lành có sự khác nhau căn bản, một bên rườm rà và tốn kém, một bên đơn giản gọn nhẹ, ít tốn kém. Điều quan trọng của sự khác biệt đó là liên quan đến tín ngưỡng và tôn giáo. Tuy nhiên, vẫn có điều tương đồng cần lưu ý và phát huy là hai bên đều giáo dục việc xây dựng một gia đình hạnh phúc bền vững, có cuộc sống no đủ, nuôi dậy con cái trưởng thành. * Thay đổi trong thủ tục, nghi thức tang ma Khi gia đình có người chết thì báo cho Trưởng nhóm và thông báo cho anh em, dân bản biết và đến để thống nhất bầu ra các ban như: Ban lễ tang, Ban thực phẩm, 16
  20. Ban thư ký để lo liệu quán xuyến. Ban tang lễ gồm Mục sư hoặc Trưởng nhóm và đoàn để hát Thánh ca, đồng thời giúp đỡ gia đình và thực hiện nghi lễ cầu nguyện. Tổ chức thực hiện tang lễ cho người mất trong vòng 2 ngày (chết hôm nay, ngày mai đưa) trừ khi gia đình có người ở xa đang về chưa tới nơi mới để lùi lại ngày hôm sau. Chôn cất không cần chọn ngày và chọn giờ mà có thể chôn người chết vào bất kỳ lúc nào để đảm bảo vệ sinh; không cần thực hiện các nghi lễ chỉ đường, thổi kèn, đuổi ma người Hán; không còn phải đưa quan tài người chết từ trong nhà ra ngoài làm ma; không cần các nghi lễ cúng ba ngày, cúng ma tươi, ma khô, ma bò,... Còn khi ốm đau, người truyền đạo khuyên hãy cầu nguyện Thiên Chúa và quan trọng hơn là phải đến cơ sở y tế để khám chữa bệnh, không mời thầy cúng đến cúng ma; phải ăn ở hợp vệ sinh để phòng ngừa bệnh tật. Không còn trình tự như phong tục truyền thống, không tổ chức ăn uống ngoài bãi và kéo dài ngày, tổ chức đưa ra đồng chôn cất xong là ra về, thực hiện theo Kinh thánh. 3.4. Văn hóa lối sống của người Hmông theo Tin lành Khi đã là tín đồ của một tôn giáo nào thì người đó sẽ chịu sự chi phối của các quy định trong giáo luật và những luật lệ này ảnh hưởng tới cuộc sống thường nhật của họ. Người Hmông theo Tin lành cũng đồng nghĩa với việc đạo đức, lối sống mới chịu ảnh hưởng của tôn giáo, đạo đức là một phần trong giáo lý tôn giáo dạy con người phải ăn ở ứng xử như thế nào [104 ]. Có thể ghi nhận những đóng góp từ những giá trị nhân bản của đạo Tin lành khi thâm nhập vào văn hóa tộc người, văn hóa Hmông, đó là lòng bác ái thương người, sự chính trực, tính hướng thiện, sự bền vững của hôn nhân gia ðình, tôn trọng sự sống, thanh lọc một số phong tục, giảm bớt mê tín dị đoan. Việc theo đạo Tin lành đã làm thay đổi nếp sống của người theo đạo; đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ, ước mơ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những điều răn dạy mà đạo Tin lành nêu ra phù hợp với nhu cầu của đồng bào, giúp hoàn thiện đạo đức cá nhân, giúp đồng bào giảm bớt gánh nặng vì những phong tục tập quán lạc hậu trong tổ chức ma chay, cưới xin, chữa bệnh. Sinh hoạt tôn giáo cộng đồng hấp dẫn quần chúng, đặc biệt là lớp trẻ và phụ nữ. Những gia đình theo Tin lành đều có con cái đi học hành; từ bỏ việc trồng và hút thuốc phiện; thanh niên không c ̣n nghiện rượu, yêu thương vợ hơn thay vì đánh vợ như trước kia,… [114, tr. 79]. Chính những điều đó mà Tin lành đã thu hút một bộ phận người Hmông tin theo và cũng chính điều đó Tin lành tồn tại được trong đồng bào Hmông. Tiểu kết chương 3 Khi đã là nhu cầu tôn giáo chính đáng của một bộ phận người Hmông, Tin lành cũng có những đóng góp đối với đời sống văn hóa; hình thành nên một nền văn hóa mới của người Hmông. Dưới sự tác động của đạo Tin lành, văn hóa truyền thống của người Hmông đã có sự biến đổi, thậm chí có những yếu tố thay đổi căn bản. Nó được thể hiện trên các mặt như thiết chế xã hội truyền thống với vai trò của gia đình, dòng họ, cộng đồng; các lễ thức dân gian trong chu kỳ đời người; chuyển đổi trong niềm tin tôn giáo, phong tục tập quán… Tất nhiên bên cạnh đó vẫn có những yếu tố cực đoan khi người Hmông theo đạo Tin lành. Đó là, những giá trị của tín ngưỡng truyền thống bị gạt bỏ. Những yếu tố văn hóa tinh thần, nhất là những yếu tố liên quan đến tâm linh tín ngưỡng thì có sự thay đổi nhanh chóng, tạo sự khác biệt căn bản so với truyền thống. Những biến đổi văn hóa của người Hmông theo Tin lành, bên cạnh những mặt tích 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1