intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế: Cơ hội và thách thức

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

46
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này sẽ điểm lại quá trình hình thành và phát triển IFRS, xu hướng phát triển của IFRS và những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng IFRS tại Việt Nam. Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã được Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành và nhiều lần điều chỉnh, cập nhập và thay thế. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế: Cơ hội và thách thức

  1. ÁP DỤNG CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀO VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP KẾ TOÁN QUỐC TẾ: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC APPLICATION OF INTERNATIONAL STANDARD FINANCIAL REPORTS TO VIETNAM IN THE INTERNATIONAL TRADING OF INTERNATIONAL ACCOUNTING: OPPORTUNITIES AND CHALLENGES TS. Hà Thị Thúy Vân Trường Đại học thương mại Tóm tắt Hiện nay, Bộ tài chính đang triển khai thực hiện Quyết định 480/QĐ-TTg ngày 18/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Kế toán – Kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16/5/2016 của Chính phủ, về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Theo đó việc phát triển và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chuẩn mực Báo cáo tài chính tại Việt Nam là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách cần phải được triển khai để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập. Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế bao gồm các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã được Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế ban hành và nhiều lần điều chỉnh, cập nhập và thay thế. Chuẩn mực kế toán quốc tế là điều kiện quan trọng đảm bảo cho các doanh nghiệp, tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán thống nhất trong công tác lập và trình bày báo cáo tài chính. Hiện nay nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương đang tiến dần đến xu hướng hội tụ IFRS. Trong xu thế toàn cầu hoá về kế toán, Việt Nam cũng không thể nằm ngoài tiến trình hội nhập với hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế. Bài viết này sẽ điểm lại quá trình hình thành và phát triển IFRS, xu hướng phát triển của IFRS và những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng IFRS tại Việt Nam. Từ khóa: Báo cáo tài chính, hội nhập, cơ hội, thách thức Abstract Currently, the Ministry of Finance is implementing Decision 480 / QD-TTg dated 03/18/2013 of The Prime Minister on approving the Accounting - Audit Strategies until 2020, Vision 2030 and the Resolution 35/NQ-CP of the Government dated 16.05.2016 related to supporting and development of enterprises by 2020. Accordingly, the developing and improving the legal framework of Financial Reporting standards in Vietnam is one of the key and urgent tasks needs to be developed to meet the economy’s requirements in the integration process. The system of international accounting standards includes the International Accounting Standards (IAS) and the international financial reporting system (IFRS) was issued, adjusted, updated and replaced by The International Accounting Standards Board. International accounting standards is an important condition ensuring companies and organizations around the world apply uniform accounting principles in preparing and 322
  2. presenting financial statements. Today, many countries around the world such as USA, Japan and European countries, Asia-Pacific are approaching IFRS convergence trend. In the trend of globalization of accounting, Vietnam will not be outside of the integration process with the International financial reporting standards system. This article will review the process of formation and development of IFRS, the IFRS trends and the advantages and disadvantages when applying IFRS in Vietnam. Keywords: financial statements, integration, opportunity, challenge 1. Đặt vấn đề Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng ngôn ngữ kế toán chung nhằm đảm bảo thông tin có thể so sánh trên phạm vi quốc tế. Đó cũng là quá trình hội nhập kế toán quốc tế đang diễn ra hiện nay cùng với sự phát triển của hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế để thay thế dần cho các chuẩn mực kế toán quốc tế. Đặc biệt xu thế hội nhập kế toán diễn ra mạnh mẽ sau khi thỏa thuận Norwalk giữa Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế và Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính Hoa Kỳ bắt đầu triển khai cho thấy có những thay đổi lớn của chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế trong thời gian gần đây. Đây là vấn đề mang tính toàn cầu và ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia nên nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Theo khảo sát của Baker & Barbu (2007) giai đoạn từ những năm 1960 đến 2004 có 214 bài báo đề cập đến quá trình hòa hợp kế toán quốc tế của 66 tạp chí. Các bài báo này tập trung vào những nội dung cơ bản như tranh luận về sự thống nhất trong kế toán, những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường kế toán, so sánh chuẩn mực kế toán quốc gia với nhau và với chuẩn mực kế toán quốc tế, quá trình hòa hợp kế toán quốc tế... Trong đó, các nghiên cứu về hòa hợp kế toán bắt đầu phát triển từ năm 1973 sau khi Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế được thành lập. Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ 20, những nghiên cứu về việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế tại các quốc gia cụ thể mới được công bố nhiều, mặc dù tập trung vào một số quốc gia được quan tâm như Đức, Trung quốc, Nhật…Ngày nay, nhiều báo cáo và các nghiên cứu học thuật đã ủng hộ IFRS, cụ thể Daske và cộng sự (2013) chỉ ra rằng IFRS phù hợp với các quốc gia có thị trường vốn phát triển vì vậy nó phù hợp với các nhà đầu tư và giúp công khai tài chính được toàn diện và rõ ràng hơn so với chuẩn mực quốc gia. Tại Việt Nam, để đáp ứng xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam đã và đang thiết lập hành lang pháp lý về kế toán, kiểm toán theo thông lệ các nước nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính, trong đó một bộ phận quan trọng là hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam. Trong giai đoạn 2001 - 2006, Việt Nam đã ban hành được 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam dựa trên chuẩn mực kế toán quốc tế và điều kiện thực tế Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống kế toán Việt Nam vẫn còn những khoảng cách, đặc biệt là đối với khu vực dịch vụ tài chính, các vấn đề về đánh giá và thuyết minh (World Bank, 2006b). Bên cạnh đó, sự tồn tại song song hệ thống chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán dẫn đến những cản trở cho quá trình hội tụ kế toán (Nguyen Cong Phuong & Tran Dinh Khoi Nguyen, 2012). Ngoài ra, qui trình soạn thảo và ban hành chuẩn mực kế toán chưa chuyên nghiệp (Adam và Đỗ Thùy Linh, 2005). 323
  3. Trên phương diện lý thuyết, những kết quả của dự án hội nhập giữa IASB và FASB về việc xây dựng một khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính là sản phẩm của một vấn đề được tranh luận tích cực, từ việc xác định cách tiếp cận, mục đích, đặc điểm chất lượng, cho đến các nguyên tắc chi phối việc soạn thảo và trình bày báo cáo tài chính. Trên phương diện thực tiễn, các chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đang trong quá trình đổi mới để hướng đến một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu, chất lượng cao, phục vụ cho thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế Ở Việt Nam, sau hơn 35 năm kể từ khi thống nhất đất nước, hệ thống kế toán và báo cáo tài chính doanh nghiệp hiện nay về cơ bản đã được xây dựng theo hướng tiếp cận với thông lệ quốc tế trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam, có sự cải cách, khá đầy đủ và có tính hệ thống. Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán mạnh mẽ như hiện nay, tính hữu ích của thông tin kế toán không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, các tiêu chuẩn chất lượng và công bố thông tin về báo cáo tài chính phải được tiếp cận theo thông lệ quốc tế, hệ thống báo cáo tài chính hiện nay đã bộc lộ những tồn tại chưa được giải quyết, từ những vấn đề cụ thể như đo lường, ghi nhận, đến việc củng cố các luận cứ khoa học, làm cơ sở vững chắc, ổn định cho việc ban hành các chuẩn mực kế toán, đánh giá chất lượng báo cáo tài chính. Cơ sở định giá, đặc điểm chất lượng của báo cáo tài chính chưa được quy định đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, hệ thống báo cáo tài chính mang tính khuôn mẫu, thiếu sự linh hoạt, hệ thống báo cáo, một số nội dung, khoản mục trên báo cáo tài chính chưa đầy đủ, hoặc chưa phù hợp với chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế, chưa đề cập hoặc quy định việc ghi nhận và báo cáo về nguồn lực tri thức, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp...Vì vậy quá trình áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong xu thế hội nhập kế toán quốc tế cũng có nhiều cơ hội và thách thức 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi chất lượng thông tin có thể so sánh ở phạm vi quốc tế, một ngôn ngữ kinh doanh cần được thiết lập bằng việc xây dựng hệ thống chuẩn mực toàn cầu chất lượng cao đáp ứng thị trường vốn quốc tế. Quá trình hội nhập này đã đạt được những thành công đáng kể như sự chấp thuận áp dụng các chuẩn mực quốc tế của Liên minh châu Âu từ năm 2005. Mặc dù vậy, quá trình này cũng gây nhiều tranh luận và vì vậy việc nghiên cứu đã được mở rộng sang nhiều quốc gia bằng việc so sánh giữa các quốc gia hay tập trung vào một quốc gia qua những mốc thời gian khác nhau để đánh giá mức độ cũng như cách thức hội nhập của các quốc gia. Những quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, các thị trường mới nổi như Trung quốc, Ấn độ… tiếp tục được quan sát tỉ mỉ bởi các nghiên cứu trong giai đoạn này (Peng et al, 2008; Verriest et al, 2011; Ramanna, 2011). Bên cạnh đó, nhiều quốc gia châu Á khác cũng được xem xét về mức độ và cách thức hội nhập như Malaysia (Laili, 2008), Indonesia (Lasmin, 2011a), Singapore (Carlin et al, 2010) Bộ chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) được Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) xây dựng và phát triển từ những năm đầu của thập kỷ 70 cho đến năm 2000. Năm 324
  4. 2001, Ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) được thành lập dựa trên nền tảng của Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế IASC nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn. Mục tiêu của IASB là hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung chất lượng báo cáo tài chính, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới; và yêu cầu thông tin trên báo cáo tài chính phải rõ ràng, có thể so sánh nhằm giúp những người tham gia và các thị trường vốn khác nhau trên thế giới cũng như các đối tượng sử dụng thông tin khác ra quyết định kinh tế. Với mục tiêu đó IASB đã xây dựng bộ chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) với mục đích là để từng bước thay thế các IAS cho phù hợp với những thay đổi mới, theo kịp với tình hình mới khi môi trường kinh tế tài chính, cũng như hoạt động của doanh nghiệp có những biến đổi và phát sinh nhiều hoạt động mới. Bộ chuẩn mực mới được hoàn thiện dần dần cho đến năm 2005 khi Nghị viện khối Liên minh Châu Âu chỉ định IFRS là tiêu chuẩn kế toán cho các doanh nghiệp cổ phẩn hữu hạn trong các nước khối Liên minh Châu Âu và đã được chấp nhận trên toàn thế giới. Tính đến thời điểm cuối năm 2016 có 43 IAS và 16 IFRS đã được ban hành. Trên thế giới, hệ thống báo cáo tài chính cũng nhận được sự quan tâm của cả giới nghiên cứu và những nhà thực hành kế toán. Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hệ thống báo cáo tài chính như: Nghiên cứu của Prather Kinsey (2006) cho rằng IAS/IFRS về cơ bản được xây dựng theo mô hình Anglo-America, vì vậy có thể không phù hợp với các nước đang phát triển vốn có sự khác biệt về văn hóa và môi trường kinh tế với các nước phát triển. Theo Jones and Belkaoui (2010) cho rằng việc sử dụng IAS/IFRS có thể giúp cải thiện tính so sánh của thông tin báo cáo tài chính và do đó giảm chi phí và rủi ro sử dụng thông tin của các nhà đầu tư Francis et al (2012) thì cho rằng sự hòa hợp kế toán tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động mua bán và sáp nhập tại các quốc gia, đặc biệt là sau quá trình áp dụng IAS/IFRS tại liên minh châu âu từ năm 2005 Merve Kilic và cộng sự (2016) về các yếu tố tác động đến sự chuẩn bị cho IFRS của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Thổ Nhĩ Kỳ thì một vài đặc điểm của công ty như quy mô, kiểm toán độc lập, tính quốc tế thì có tác động đến sự chuẩn bị của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Viniscius Simmer de Lima và cộng sự (2015) cho rằng, hiệu quả kinh tế trong hội tụ kế toán trong nền kinh tế mới nổi, kết quả chỉ ra rằng, việc khuyến khích cấp độ công ty là động lực quan trọng của việc tuân thủ thực hành hội tự IFRS. Mahesh Joshi và Prem Yapa (2016) chỉ ra rằng, kế toán chuyên nghiệp, tổ chức chính phủ, phương tiện truyền thông và Chính phủ tại Singapore, Malaysia, Indonesia ủng hộ mạnh mẽ việc áp dụng IFRS vì nước của họ có lợi ích kinh tế từ sự hài hòa với chuẩn mực kế toán quốc tế Abdulaziz Alzeban (2016) nghiên cứu thách thức của đào tạo kế toán trong nỗ lực giảng dạy IFRS và khám phá tác động của những yếu tố khác nhau (thái độ của giảng viên, quy mô bộ phận kế toán, trách nhiệm giảng dạy, phương pháp giảng dạy, kinh nghiệm giảng dạy và tài liệu giảng dạy) lên thời gian để giảng dạy về tài liệu IFRS trong chương 325
  5. trình kế toán đại học. Kết quả chỉ ra rằng, thái độ của giảng viên và tài liệu sẵn có về IFRS ảnh hưởng nhiều nhất đến thời gian của giảng viên dành cho IFRS. Ngoài ra, sự thông thạo về IFRS, kinh nghiệm đào tạo của giảng viên dành cho IFRS cũng tác động tích cực với thời gian giảng dạy IFRS Nghiên cứu hệ thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp Việt Nam là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm đông đảo của các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia, nhà khoa học, người hành nghề kế toán kiểm toán, nghiên cứu sinh cũng như các doanh nghiệp quan tâm nghiên cứu và sản phẩm đã được công bố trên tạp chí, nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ Mỗi nghiên cứu đề cập đến một hay một số góc độ tiếp cận khác nhau nhưng thường chỉ đặt trọng tâm cho việc nghiên cứu lập và trình bày thông tin trên báo cáo tài chính; chưa chú trọng đến việc xây dựng các chỉ tiêu phản ánh trên hệ thống báo cáo tài chính. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến hệ thống báo cáo tài chính như: Các nghiên cứu thực nghiệm bước đầu đánh giá hệ thống kế toán Việt Nam cũng như mức độ hội nhập của các chuẩn mực kế toán Việt Nam. R. Micheline & Cong Phuong Nguyen (2007) và Lisa Nguyen et al (2012) nghiên cứu nhận định của các đối tượng khác nhau về hệ thống kế toán Việt Nam sau khi có một số chuẩn mực kế toán Việt Nam ra đời. Phạm Hoài Hương (2010), Hoai Huong Pham et al (2011) đo lường mức độ hài hòa của chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Các nghiên cứu khác tập trung vào xem xét mối quan hệ giữa quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam và cải cách kế toán Việt Nam để nhận định các kết quả đạt được cũng như trở ngại của quá trình hòa hợp kế toán (Nguyen Cong Phuong & Tran Dinh Khoi Nguyen, 2012, Nguyen Cong Phuong & Jacques Richard, 2011). Một số nghiên cứu xem xét thực trạng và đưa ra các giải pháp cho quá trình hòa hợp/hội tụ kế toán Việt Nam (Vũ Hữu Đức & Trình Quốc Việt, 2008; Đào Xuân Tiên, 2008; Đặng Thái Hùng, 2008). Bên cạnh đó, một số nghiên cứu trong các luận án, luận văn cũng đã đề cập đến các giải pháp và một số đề xuất định hướng hội tụ cho Việt Nam. Nghiên cứu của Nguyễn Phúc Sinh (2008) đã tiếp cận với các luận điểm về hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp của IASB, FASB nhằm đưa ra giải pháp nâng cao tính hữu ích của hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Cúc (2009) đã nhận định lại về khung pháp lý cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính doanh nghiệp, tương thích với quy mô và cơ cấu tổ chức của các loại hình doanh nghiệp Nguyễn Đình Hùng (2010) đề cập đến việc kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính công bố của các công ty niêm yết tại Việt Nam Hội thảo “Kinh nghiệm triển khai IFRS tại các nước đang phát triển” tổ chức ngày 08/3/2016 tại Hà Nội cho thấy, hiện nay ở Việt Nam đa phần các doanh nghiệp đang áp dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) trong việc lập báo cáo tài chính theo luật định, chỉ có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc tế 326
  6. lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (B.M. Duc Hong Thi Phan, 2014), (B.M Duc Hong Thi Phan, Meropy Barut, 2014) Hội thảo “IFRS - cơ hội và thách thức khi áp dụng tại Việt Nam” tổ chức ngày 23/12/2016 tại Hà Nội và TP Hồ Chính Minh cho thấy, việc áp dụng IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các chỉ tiêu và khoản mục trên báo cáo tài chính, tăng khả năng so sánh của các thông tin tài chính và tăng chất lượng thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư, giảm bất định trong đầu tư, giảm rủi ro đầu tư, tăng hiệu quả của thị trường và giảm thiểu chi phí vốn. Vì vậy, để triển khai rộng rãi IFRS ở Việt Nam có nhiều việc phải làm, rất cần một chiến lược, một quyết tâm, cần trí tuệ và bản lĩnh của những người hoạch định chính sách và đội ngũ các nhà quản lý, các nhà kế toán Việt Nam Các nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng và đề xuất vấn đề các giải pháp nhằm nâng cao tính hữu ích của hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và hòa hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa làm rõ hạn chế trong luận cứ khoa học và kinh nghiệm cho việc ban hành các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, quy định nội dung và đánh giá chất lượng báo cáo tài chính trên cơ sở vận dụng chuẩn mực kế toán và thông lệ quốc tế. 3. Xu hướng áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế trên thế giới, những cơ hội, thách thức và thực trạng khi áp dụng IFRS tại Việt Nam 3.1 Những cơ hội khi áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam Trong hội thảo “Kinh nghiệm triển khai IFRS tại các nước đang phát triển”, theo ông PGS.TS Đặng Thái Hùng, Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, Bộ Tài chính cho biết: Báo cáo tài chính doanh nghiệp vốn được xem là nguồn tin chủ đạo đáng tin cậy mà nhà đầu tư dựa vào trong quá trình ra quyết định đầu tư. Do đó, khi đầu tư vào Việt Nam dần trở nên hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài, IFRS - được ví như “ngôn ngữ tài chính toàn cầu” giúp đảm bảo tính so sánh, thống nhất và minh bạch - sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội tiếp cận nguồn vốn quốc tế, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung. Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì rõ ràng việc áp dụng IFRS sẽ hạn chế được những mâu thuẫn trong báo cáo tài chính vì tiêu chuẩn của những nguyên tắc kế toán được chấp nhận thay đổi ở từng quốc gia. Trên khía cạnh của các doanh nghiệp việc áp dụng IFRS sẽ mang lại nhiều lợi ích. IFRS giúp người dùng so sánh các kết quả tài chính của các đơn vị báo cáo từ các quốc gia khác nhau một cách dễ dàng hơn nếu báo cáo tài chính của các công ty được lập dựa trên cùng một tiêu chuẩn. IFRS giúp các tập đoàn lớn với hệ thống các công ty con với hệ thống tài khoản và sổ kế toán trên nhiều quốc gia khác nhau có thể sử dụng và trình bày báo cáo tài chính trên cùng một ngôn ngữ. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, việc áp dụng IFRS mang lại một lợi ích khác rằng trong nền kinh tế toàn cầu, các chuyên gia tài chính, bao gồm các kế toán viên, sẽ trở nên linh động hơn, và doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc đáp ứng nhu cầu nhân lực của các công ty con trên khắp thế giới. Chính vì những lợi ích to lớn mà IFRS mang lại mà trên thế 327
  7. giới hiện nay có khoảng hơn 100 quốc gia cho phép hoặc yêu cầu áp dụng IFRS đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, 27 quốc gia đã áp dụng toàn bộ IFRS và chấm dứt việc sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế quốc gia của họ; nhiều quốc gia trong đó có cả Hoa Kỳ đang có kế hoạch áp dụng toàn bộ IFRS để thay thế các chuẩn mực kế toán quốc gia. Tại khu vực Đông Nam Á, nhiều nước đã và đang áp dụng IFRS hoặc có kế hoạch chuyển đổi sang IFRS. Singapore đã áp dụng gần như toàn bộ IFRS; Malaysia đã áp dụng IFRS cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài; Philipines IFRS có điều chỉnh cho phù hợp; Thái Lan chuyển đổi sang IFRS giai đoạn 2011 và 2013; Campuchia áp dụng IFRS từ 2012, Indonesia chuyển đổi sang IFRS từ năm 2012. Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới; đầu tư nước ngoài tăng mạnh; thị trường tài chính đặc biệt là thị trường vốn đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, việc áp dụng IFRS càng trở nên quan trọng và cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của các bên có lợi ích liên quan. Có thể thấy rằng việc sử dụng IFRS mang lại nhiều lợi ích. Cụ thể: Thứ nhất, Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế đóng góp giá trị cho bền vững kinh tế. Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) trước đây và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày nay là hệ thống các Chuẩn mực quốc tế phục vụ công tác lập báo cáo tài chính tại các doanh nghiệp. Theo thông lệ nhiều nước trên thế giới, chỉ những doanh nghiệp tương đối lớn, có lợi ích công chúng mới là đối tượng bắt buộc áp dụng các chuẩn mực này. Các doanh nghiệp khác là đối tượng được khuyến khích áp dụng nếu đủ khả năng chứ không bắt buộc. Hiện nay IASB đang trong quá trình chuyển đổi từ IAS sang IFRS, dự kiến sẽ có khoảng hơn 43 IFRS được ban hành, kèm theo là các diễn giải áp dụng Chuẩn mực và diễn giải cho một số tình huống. Ngoài ra, các IFRS cũng không phải là bất biến mà hàng năm IASB đều xem xét lại các IAS/IFRS và có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế thế giới. Có thể nói IFRS đóng góp giá trị to lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế toàn cầu: IFRS tạo sự minh bạch, đồng thời, giúp nâng cao trách nhiệm giải trình bằng cách giảm bớt lỗ hổng thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Ngoài ra, IFRS giúp các doanh nghiệp và thị trường hoạt động hiệu quả hơn nhờ có một chuẩn mực có phạm vi toàn cầu và đáng tin cậy, áp dụng cho cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi. IFRS cũng hỗ trợ giảm thiểu chi phí về vốn và chi phí báo cáo. Theo khảo sát của IASB đánh giá toàn diện của hơn 100 nghiên cứu chuyên ngành về lợi ích của IFRS cho thấy: Hầu hết các nghiên cứu đều đưa ra các bằng chứng là “IFRS đã giúp tăng cường hiệu quả hoạt động thị trường vốn và thúc đẩy các khoản đầu tư xuyên biên giới”. Ngoài ra, đánh giá của cộng đồng châu Âu (EU) sau 10 năm áp dụng IFRS cũng khẳng định “IFRS đã thành công trong việc tạo ra một ngôn ngữ kế toán chung cho thị trường vốn. Chính các nhà đầu tư và các doanh nghiệp đã hỗ trợ IFRS trong việc cải thiện tính minh bạch và tính so sánh của báo cáo tài chính”. Về vấn đề này, ông Trịnh Đức Vinh, Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và kiểm toán thuộc Bộ Tài chính đã trình bày trong hội thảo “IFRS - cơ hội và thách thức khi áp 328
  8. dụng tại Việt Nam”, việc chuyển từ thuật ngữ Chuẩn mực kế toán quốc tế - IAS sang thuật ngữ Chuẩn mực BCTC quốc tế - IFRS là có lý do về quan điểm đối với công tác kế toán. Trước đây, quan niệm cho rằng kế toán là công việc ghi chép trên sổ sách của đơn vị. Tuy nhiên, thông tin công bố ra công chúng lại nằm ở báo cáo tài chính, sổ kế toán chỉ là phương tiện tập hợp dữ liệu để lập báo cáo tài chính và báo cáo tài chính mới là sản phẩm cuối cùng của công tác kế toán. Vì vậy, những thuật ngữ như ghi nhận, dừng ghi nhận, xác định giá trị… đều được hiểu theo cách mới là cho báo cáo tài chính chứ không phải chỉ là công việc ghi chép đơn thuần trên sổ kế toán. Ông Trịnh Đức Vinh Phó Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và kiểm toán thuộc Bộ Tài chính cũng chia sẻ, khi doanh nghiệp Việt Nam được phép áp dụng IFRS thì báo cáo tài chính của doanh nghiệp đó sẽ được đảm bảo theo tiêu chuẩn quốc tế và được các nhà đầu tư nước ngoài công nhận, điều đó cũng đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp có tấm vé thông hành để tiếp cận với dòng vốn trên thị trường quốc tế. Nhưng quan trọng nhất đó là bản thân báo cáo tài chính minh bạch và trung thực thì “cơ thể” của doanh nghiệp đó sẽ lành mạnh vì báo cáo tài chính như là “mạch máu” của doanh nghiệp, khi người quản lý biết rõ được “bệnh” của doanh nghiệp thì họ sẽ có các “bài thuốc” phù hợp cho căn bệnh đó thay vì giấu giếm rồi đến một lúc nào đó như một ung nhọt vỡ ra và không thể cứu được. Ngoài ra, các báo cáo tài chính có liên quan, có thể so sánh và phản ánh trung thực tình hình tài chính của tổ chức là điều mà các nhà đầu tư đang tìm kiếm trong việc đưa ra quyết định đầu tư của mình. Khi doanh nghiệp thể hiện được tất cả những yếu kém của mình thông qua một bản báo cáo tài chính minh bạch, trung thực thì các nhà đầu tư sẽ nắm được và do vậy làm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, rộng hơn là giảm thiểu rủi ro đối với xã hội, với ngân hàng và với người cho vay Thứ hai, sử dụng IFRS có thể tiết kiệm chi phí soạn thảo, ban hành chuẩn mực và giúp nước ta nhanh chóng hoà nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận. Đồng thời, IFRS yêu cầu các giao dịch phải được phản ánh theo bản chất, phù hợp với cách vận hành hơn là tên gọi hay hình thức pháp lý của chúng, điều này sẽ giúp cho kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được phản ánh khách quan, trung thực. Thứ ba, việc sử dụng hệ thống chuẩn mực được quốc tế chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới là rất cần thiết cho sự hội nhập của nền kinh tế nói chung và kế toán nói riêng. Nó còn làm tăng tính rõ ràng của thông tin trên báo cáo tài chính, qua đó giúp cho các công ty có thể huy động được vốn trên thị trường quốc tế. Mặt khác, áp dụng IFRS còn giúp cung cấp cho người sử dụng báo cáo tài chính nhiều thông tin hữu ích cho việc ra quyết định quản lý, điều hành, quản trị và kiểm soát rủi ro. Thứ tư, Khi áp dụng IFRS, doanh nghiệp phải công bố chi tiết các căn cứ cho việc ghi nhận và trình bày báo cáo tài chính, giải trình nguyên nhân cụ thể trong những trường hợp không thể tuân thủ chuẩn mực, thuyết minh rõ những rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong quá trình hoạt động. Đồng thời, việc lập báo cáo tài chính theo IFRS giúp doanh nghiệp quản trị, trình bày tình hình tài chính theo đúng chuẩn mực quốc tế, đặc biệt các lĩnh vực mà chuẩn mực Việt Nam chưa có hoặc không có hướng dẫn, đồng thời việc 329
  9. lập báo cáo tài chính theo IFRS cũng giúp nâng cấp uy tín, tên tuổi cũng như từng bước đi theo chuẩn quốc tế, giúp doanh nghiệp hội nhập sâu rộng hơn vào nền tài chính toàn cầu Ngoài những cơ hội đạt được khi áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam thì còn có một số lợi ích nhất định trong việc áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam như sau: Một là, Tăng cường trách nhiệm giải trình, nâng cao tính minh bạch của báo cáo tài chính và khả năng so sánh giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như trong các giai đoạn khác nhau trong cùng một doanh nghiệp. IFRS yêu cầu thuyết minh toàn diện về các chính sách kế toán, các giả định, xét đoán và ước tính kế toán quan trọng được áp dụng trong việc lập các báo cáo tài chính. Điều này mang lại một mức độ minh bạch cao cho báo cáo tài chính, do người đọc báo cáo có được những thông tin nằm bên dưới những số liệu khô cứng Hai là, IFRS cung cấp những thông tin quản lý hữu hiệu. IFRS được xây dựng nhằm cho phép lập báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin mà báo cáo tài chính lập theo IFRS không chỉ để phục vụ các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp mà còn rất hữu ích đối với người quản lý doanh nghiệp trong việc ra các quyết định kinh tế ở các khía cạnh khác nhau Ba là, Áp dụng IFRS là một yếu tố để quốc tế công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường đầy đủ, từ đó khơi thông dòng vốn FDI, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc bảo vệ các nhà đầu tư và tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh phục vụ mục tiêu phát triển bền vững 3.2 Những thách thức đặt ra trong quá trình hội nhập chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế vào Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế Theo ông Ged Allen, chuyên gia tư vấn cấp cao của PWC nói: “Việc Việt Nam đưa ra lộ trình áp dụng IFRS cho thấy Việt Nam đã hòa nhập rất tốt và đang có hướng đi phù hợp với thị trường khu vực Đông Nam Á nói riêng cũng như thị trường quốc tế nói chung. Tuy nhiên, điều đó cũng đặt ra những thách thức và rất nhiều việc cần phải làm để có thể đạt được những lợi ích đầy đủ từ IFRS”. Cụ thể, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc áp dụng IFRS ở Việt Nam gặp phải không ít khó khăn và những thách thức nhất định. Thứ nhất, Có thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi nhiều yếu tố tụ hội từ môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian, mức độ chi phối, ảnh hưởng của các yếu tố đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt Nam mang bản sắc riêng. Xét ở môi trường kinh doanh, Việt Nam là quốc gia đang phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây có những biến chuyển tích cực, đặc biệt là thị trường chứng khoán đã có những tiến triển nhất định. Mức độ lạm phát trong nền kinh tế được kiểm soát, ổn định không ảnh hưởng đến biến động của nền kinh tế. Đối với môi trường pháp lý, Nhà nước giữ vai trò quyết định trong hệ thống kế toán quốc gia, cụ thể Luật kế toán được Quốc hội ban hành, các chế độ tài chính được ban hành bởi Thủ tướng chính phủ, hệ thống chuẩn mực kế toán 330
  10. và các thông tư hướng dẫn được Bộ tài chính ban hành. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán bị chi phối bởi các qui định của thuế. Trước đây lợi nhuận kế toán gần giống lợi nhuận của thuế như các qui định trích lập khấu hao TSCĐ, doanh thu nội bộ... Tuy nhiên từ những năm 2001, những quan điểm đã dần có những thay đổi, cụ thể các đạo luật đã giảm bớt mức độ chi phối cho hoạt động kế toán bằng việc cho phép trích lập các khoản dự phòng, hình thành các khoản thuế hoãn lại… Hơn nữa, Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) mặc dù thời gian hình thành và hoạt động đã lâu từ những năm 1994, nhưng không có vai trò lập qui cũng như mức độ ảnh hưởng và chi phối còn hạn chế. Riêng về môi trường văn hóa, sự tác động của văn hóa đến hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những nghiên cứu chính thống. Tuy nhiên về cơ bản, Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều theo văn hóa Á Đông, bản chất thận trọng được đề cao, nhấn mạnh đến sự tuân thủ các qui định, hạn chế những vấn đề mang tính xét đoán. Đồng thời, mức độ phát triển kinh tế cũng như thị trường tài chính Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với các nước triển như Mỹ và Tây Âu. Trong khi đó nền tảng cơ bản và chủ đạo chi phối IFRS là nguyên tắc giá trị hợp lý. Do vậy để áp dụng được IFRS đòi hỏi phải có một thị trường cung cấp đủ các dữ liệu cơ sở để có thể đánh giá, ghi nhận theo quy định, hướng dẫn của IFRS. Thứ hai, Việc áp dụng IFRS đòi hỏi các nhà quản lý, nhân viên kế toán và cả người sử dụng cần được đào tạo và có trình độ thích hợp. IFRS được cho là rất phức tạp, thậm chí phức tạp đối với các chuyên gia về tài chính kế toán và đội ngũ kiểm toán viên. Thêm vào đó, đối với hầu hết những người sử dụng báo cáo tài chính, không đơn giản và dễ dàng để hiểu được thấu đáo các thông tin kế toán và chính sách kế toán trên báo cáo tài chính được trình bày và áp dụng IFRS. Nhìn chung thực trạng kiến thức và kinh nghiệm của phần lớn những người làm kế toán ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Điều này có nguyên nhân do hệ thống đào tạo của Việt Nam còn lỗi thời và chưa theo kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, ở Việt Nam vẫn tồn tại một thế hệ kế toán và đội ngũ cán bộ quản lý trưởng thành và được đào tạo trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Họ quá quen thuộc với hệ thống kế toán cũ và chịu ảnh hưởng rất lớn vào những nguyên tắc và hướng dẫn vốn dĩ rất thận trọng, bảo thủ và hạn chế nhiều tính chủ động trong việc đưa ra các quyết định liên quan. Do đó họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận và thực hành với phương pháp mới của kế toán trong nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, khi áp dụng IFRS thì sự không chắc chắn là rất cao bởi nó sử dụng nhiều ước tính kế toán và đòi hỏi sự linh hoạt cùng với những phán xét nghề nghiệp cần thiết. Ví dụ như các khái niệm về giá trị hợp lý và công cụ tài chính… trong khi đó người làm kế toán Việt Nam lại bị ảnh hưởng bởi văn bản hoá khuôn mẫu và luôn luôn hạn chế sự không chắc chắn và rủi ro… Điều này dẫn tới khả năng nghề nghiệp của người Việt Nam trong đó có nghề kế toán thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Thứ ba, Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - Xu hướng tất yếu của các tập đoàn, công ty đại chúng khi các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế Trong 10 năm gần đây, việc áp dụng Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) đã phát triển nhanh chóng và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. 331
  11. Qua khảo sát của Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), 116/140 quốc gia được khảo sát đã yêu cầu các công ty niêm yết áp dụng IFRS. Hầu hết các nước còn lại đã cho phép áp dụng IFRS. Tất cả các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới như G20, Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Hội đồng Ổn định Tài chính Quốc tế (FSB) và Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) đều ủng hộ và hỗ trợ việc áp dụng IFRS trên toàn cầu. Còn tại Việt Nam hiện nay, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp đang được áp dụng theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ Tài chính ban hành thành 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005 với 26 chuẩn mực. VAS được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế IAS/IFRS theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực. Về cơ bản, không thể phủ nhận tác dụng tích cực của VAS trong giai đoạn trước đây. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi về thể chế kinh tế trong nước cũng như thay đổi trong hệ thống IFRS trong giai đoạn hiện nay, VAS đã bộc lộ nhiều tồn tại, đặc biệt là những giao dịch của nền kinh tế thị trường mới phát sinh chưa được VAS giải quyết thấu đáo, như việc ghi nhận và đánh giá tài sản, nợ phải trả theo giá trị hợp lý, ghi nhận tổn thất tài sản, việc kế toán các công cụ tài chính phái sinh cho mục đích kinh doanh và phòng ngừa rủi ro… chưa có hướng dẫn cụ thể. Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với khu vực và thế giới, để cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển bền vững, hỗ trợ thị trường chứng khoán, bảo vệ nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài, Chính phủ đã yêu cầu phải nâng cao tính minh bạch của thông tin tài chính. Mặt khác, để có thể tiếp cận các dòng vốn trên thị trường quốc tế, niêm yết tại thị trường nước ngoài, yêu cầu lập BCTC theo IFRS đang trở thành nhu cầu ngày càng bức thiết và là xu hướng tất yếu của các tập đoàn, các công ty đại chúng. Thứ tư, Doanh nghiệp phải chuẩn bị nhiều để triển khai áp dụng. Thông qua áp dụng IFRS, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thể được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế như tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững. Tuy nhiên, thách thức, khó khăn khi áp dụng IFRS cũng không nhỏ. Mặc dù có rất nhiều lợi ích trong việc áp dụng IFRS, nhưng để áp dụng được IFRS, các doanh nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị rất nhiều thứ từ nhân lực đến vật lực, cụ thể như: - Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được nhân sự có trình độ cao để có thể hiểu và áp dụng IFRS ngay lập tức. - Hệ thống kết nối thông tin trong nội bộ và phần mềm kế toán của doanh nghiệp chưa đủ mạnh để có thể cập nhật các thông tin tài chính kịp thời và đầy đủ. - Cơ chế, chính sách cho việc áp dụng IFRS ở Việt Nam hiện vẫn chưa hoàn thiện, do vậy một số kỹ thuật đặc biệt của IFRS chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, ví dụ như việc ghi nhận tổn thất tài sản, việc kế toán các công cụ phái sinh cho mục đích phòng ngừa rủi ro, việc ghi nhận giá trị hợp lý của một số tài sản tài chính, bất động sản đầu tư hoặc tài sản sinh học… đều chưa được hướng dẫn. Mặt khác, kỹ thuật để thực hiện một số đánh giá 332
  12. là tương đối phức tạp như việc xác định tổn thất lợi thế thương mại, đánh giá giá trị thu hồi của tài sản, giá trị nội tại, lãi suất hiệu lực… còn rất nhiều khó khăn. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo (các trường đại học, Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) và các đơn vị đào tạo trong nước) tại Việt Nam hiện chưa có chương trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống. Hiện mới chỉ có một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp hội Kế toán Anh quốc (ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) có chương trình đào tạo IFRS cho một số ít học viên. Một số công ty kiểm toán như các công ty trong nhóm Big 4 cũng mới chỉ đào tạo IFRS chủ yếu cho nhân viên trong công ty. Tuy nhiên, đại bộ phận kế toán viên tại các doanh nghiệp Việt Nam là những người trực tiếp lập BCTC đều chưa được đào tạo và tiếp cận IFRS. Hầu như các trường đại học chưa triển khai việc đào tạo IFRS cho sinh viên dẫn đến tình trạng sinh viên khi ra trường chưa biết gì về IFRS. Ngoài ra, bản thân cơ quan thuế cũng như các cán bộ thuế cũng chưa nắm rõ về các chuẩn mực của IFRS nên khi làm theo IFRS thì chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận kế toán sẽ ngày càng khác biệt. Do vậy, vẫn còn xảy ra những tranh luận giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp khi các cơ quan này nhận được bộ BCTC theo IFRS từ phía các doanh nghiệp. Ngoài những khó khăn kể trên còn có những khó khăn từ thông số của thị trường. Khi đánh giá giá trị hợp lý thì phải có thị trường thích hợp để đánh giá. Ví dụ khi muốn đánh giá giá trị hợp lý của một sản phẩm loại A thì chúng ta phải có thị trường để xác định giá trị của sản phẩm đó trong khi đó trên thực tế, chúng ta vẫn chưa có đủ thị trường để xác định giá trị. Ngoài ra, hệ thống đánh giá tín nhiệm, xếp hạng doanh nghiệp của Việt Nam cũng chưa mạnh vì khi áp dụng IFRS thì phải xác định các yếu tố như là lãi suất hiệu lực. Muốn xác định lãi suất hiệu lực thì phụ thuộc nhiều vào yếu tố xác định rủi ro, hệ thống quản trị cũng như xếp hạng doanh nghiệp để xác định lãi suất hiệu lực đối với từng doanh nghiệp. Còn với thị trường vốn, vì quy mô doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ nên thị trường trái phiếu chuyển đổi chưa phát triển dẫn đến công cụ vốn và công cụ nợ nếu muốn tính theo chuẩn mực quốc tế còn gặp khó khăn do chưa có đầy đủ các thị trường để chúng ta đo lường và xác định giá trị. Thứ năm, Áp dụng IFRS tại Việt Nam - Cần lộ trình phù hợp. Theo IASB, IFRS phù hợp với toàn bộ các công ty có trách nhiệm giải trình đại chúng. Điều này bao gồm các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán và theo đó có trách nhiệm báo cáo tới các cổ đông. Các công ty này cũng bao gồm các ngân hàng, công ty bảo hiểm, các tổ chức tương hỗ và các tổ chức tương tự có nhận vốn từ công chúng. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) không có trách nhiệm BCTC ra công chúng, họ thấy chi phí để hiểu và áp dụng IFRS cao hơn lợi ích thu được, do vậy IASB có các IFRS riêng cho SMEs. Một trong những câu hỏi lớn dành cho Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào đang cần cập nhật các chuẩn mực kế toán, là liệu có nên áp dụng IFRS hay điều chỉnh để phù hợp với những yêu cầu trong nước? Hầu hết các quốc gia đều cân nhắc trước vấn đề này, và đại đa số chọn áp dụng IFRS và không điều chỉnh gì. 333
  13. Tại một hội thảo về chia sẻ kinh nghiệm triển khai IFRS tại các nước đang phát triển diễn ra ngày 8/3/2016 tại Bộ Tài chính, ông Hans Hoogervorst, Chủ tịch IASB cho biết IASB rất khuyến khích Việt Nam tham gia cộng đồng các quốc gia áp dụng IFRS bằng việc áp dụng nguyên vẹn bộ Chuẩn mực IFRS bởi những lợi ích mà IFRS đem lại cho nền kinh tế quốc gia và cam kết hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong từng giai đoạn triển khai áp dụng IFRS. Cũng tại Hội thảo này, ông Đặng Thái Hùng, Vụ trưởng Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, Bộ Tài chính, cho rằng cần có lộ trình phù hợp để từng bước tiến tới áp dụng hoàn toàn IFRS, bên cạnh đó cần có sự tư vấn, hỗ trợ của IASB và chuyên gia của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế. Với kinh nghiệm dày dặn trong việc tư vấn áp dụng IFRS trên toàn cầu, một số tổ chức nghề nghiệp quốc tế và các công ty kiểm toán cam kết hỗ trợ Bộ Tài chính, thông qua Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán, gây dựng lộ trình và triển khai áp dụng IFRS tại Việt Nam, đồng thời sẽ tư vấn, trợ giúp các doanh nghiệp có nhu cầu lập BCTC theo IFRS. Về vấn đề này, theo ông Đặng Thái Hùng, cần có sự hợp tác hiệu quả, bài bản và sâu rộng hơn nữa giữa các bên để việc áp dụng IFRS được hiệu quả hơn. Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đã nhận được một số bản diễn giải chuẩn mực quốc tế và sự hợp tác của các chuyên gia quốc tế trong việc tư vấn doanh nghiệp áp dụng IFRS. Việc áp dụng hoàn toàn IFRS kỳ vọng sẽ mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt trong chuẩn mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình bày BCTC. Việc thực hiện theo IFRS thực sự là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực của kiểm toán viên, kế toán viên và cả các nhà đầu tư trên thị trường. Đối với TTCK, việc lập và trình bày BCTC theo IFRS sẽ hỗ trợ nâng cao tính công khai, minh bạch và bền vững của thị trường. Tuy nhiên, việc chuyển đổi BCTC được lập theo VAS sang IFRS đòi hỏi nỗ lực không nhỏ từ các doanh nghiệp và những người làm công tác tài chính kế toán. Thứ sáu, Việc áp dụng và thực hiện IFRS đòi hỏi phải bỏ ra các khoản chi phí đầu tư và duy trì khá lớn. Với sức ép và sự giám sát ngày càng cao của các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý, trong khi việc chuyển đổi sang IFRS cần nhiều thời gian, doanh nghiệp không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường cạnh tranh. Việc lập lộ trình để áp dụng IFRS, bao gồm nâng cao nhận thức, đào tạo và xây dựng hệ thống là cấp bách và bắt buộc. Đó là việc xây dựng lại hệ thống các quy trình thu thập, xử lý và cung cấp thông tin, số liệu kế toán, tài chính; thay đổi hệ thống phần mềm và đào tạo lại cho nhân viên để chuyển đổi lại hệ thống báo cáo. Các chuyên gia ước tính chi phí bỏ ra để thực hiện những thay đổi trên, đặc biệt là sự thay đổi phần mềm kế toán là không hề nhỏ nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty lớn. Chi phí này có thể lên tới hàng triệu đô la Mỹ. 3.3 Thực trạng áp dụng IFRS vào Việt Nam Hiện nay, ở Việt Nam, IFRS được yêu cầu cho các ngân hàng Nhà nước và cho phép các ngân hàng thương mại. Tất cả các công ty của Việt Nam, niêm yết hoặc không 334
  14. niêm yết phải lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, chỉ một số doanh nghiệp lập báo cáo tài chính theo IFRS nếu có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc tế. Trên thực tế hiện nay, có nhiều doanh nghiệp Việt Nam muốn niêm yết cổ phiếu, phát hành trái phiếu tại thị trường chứng khoán nước ngoài và các doanh nghiệp này thường gặp phải yêu cầu bắt buộc là có báo cáo tài chính theo IFRS. Bảng: Khảo sát tình hình áp dụng IFRS trong các doanh nghiệp Việt Nam Số lượng công ty Áp dụng IFRS Tỷ lệ % Không áp dụng Tỷ lệ % Tổng cộng Tổ chức tín dụng 4 6.9 54 93.1 58 Tổ chức phi tín dụng 1 1.09 91 98.91 92 Tổng cộng 5 3.33 145 96.67 150 (Nguồn: Tác giả tổng hợp) Qua khảo sát thực tế từ 150 doanh nghiệp thì có 4 ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, ngân hàng ngoại thương Việt Nam, tập đoàn Bảo Việt là áp dụng IFRS trong việc lập báo cáo tài chính chiếm 6.9%. Duy nhất có một tổ chức phi tín dụng là Vingroup Joint Stock Company công bố thông tin báo cáo tài chính theo cả chuẩn mực kế toán Việt Nam và IFRS chiếm 1.09%. Còn 145 doanh nghiệp không áp dụng IFRS mà tuân thủ theo chuẩn mực kế toán Việt Nam. Do đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế, năm 2014, Bộ Tài chính đã ban hành Chế độ kế toán doanh nghiệp theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC (thay thế Quyết định số 15/2006 ngày 20/03/2006) và Thông tư số 202/2014/TT-BTC về hướng dẫn lập báo cáo tài chính hợp nhất. Các Thông tư mới này đã góp phần nâng cao chất lượng của báo cáo tài chính, cung cấp các thông tin đáng tin cậy phục vụ việc ra quyết định kinh tế và thu hẹp khoảng cách giữa chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam với IAS/IFRS. Vào tháng 2/2016, trong Báo cáo Việt Nam 2035 “Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và WB đã đưa ra đề xuất rằng VAS cần thống nhất với IFRS, nhằm phát triển các thị trường vốn theo chiều sâu và thu hút hơn nữa nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam 2035, các chính sách của ASEAN cũng như theo kịp đà phát triển của những nền kinh tế thành công khác trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng trong bối cảnh thị trường “phẳng” toàn cầu với việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)... 5. Kết luận Áp dụng IFRS ở Việt Nam thực sự là một thách thức đối với các doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách. Việc thực hiện theo IFRS được ví như một cuộc cách mạng 335
  15. trong công tác kế toán và lập báo cáo tài chính đòi hỏi phải nỗ lực rất lớn của tất cả các bên liên quan để vượt qua các thách thức và trở ngại. Theo các chuyên gia thì mô hình hợp lý cho việc áp dụng IFRS ở Việt Nam là vận dụng có chọn lọc IFRS trong giai đoạn đầu tiên. Trong tương lai, để có thể áp dụng rộng rãi và phổ biến IFRS nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và kế toán, Việt Nam cần tiến hành nhiều giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài, bao gồm cả giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải pháp thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật. Các biện pháp cơ bản trong thời gian tới nên là: Một là, Tăng cường đào tạo, tập huấn, cập nhật kiến thức về các Chuẩn mực quốc tế dưới nhiều hình thức thông qua các tổ chức quốc tế (ACCA, ICAEW...), Hiệp hội nghề nghiệp trong nước (VACPA, VAA), Phòng thương mại công nghiệp Việt nam (VCCI), các Công ty tư vấn, dịch vụ kế toán – kiểm toán, các cơ sở đào tạo là các trường Đại học, Cao đẳng có chuyên ngành kế toán – kiểm toán Hai là, Tổ chức dịch thuật các Chuẩn mực quốc tế sang tiếng Việt trên nguyên tắc đảm bảo sát với nguyên gốc và đồng thời Chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kế toán trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và thành thạo ngoại ngữ để có thể chủ động tham gia vào thị trường kế toán – kiểm toán sôi động trong khu vực, nắm bắt kịp thời các cơ hội khi hội nhập thế giới Ba là, Nâng cao nhận thức cho các nhà quản lý DN về vai trò của Chuẩn mực kế toán quốc tế trong quá trình hội nhập, các đòi hỏi của Chuẩn mực kế toán quốc tế đối với sự thay đổi trong quản trị cho phù hợp với chuẩn quốc tế Bên cạnh việc thực hiện tốt các biện pháp ngắn hạn trên, trong dài hạn nên chuyển giao chức năng soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán – kiểm toán Việt nam sang cho Hội nghề nghiệp (VAA, VACPA) hoặc thành lập và giao cho Hội đồng Chuẩn mực kế toán – kiểm toán (độc lập với cơ quan quản lý Nhà nước) như hầu hết các nước để đảm bảo sự độc lập chuyên môn, cập nhật kịp thời các yêu cầu của thị trường trong các Chuẩn mực kế toán – kiểm toán; thúc đẩy nhanh chóng hơn nữa quá trình hội nhập với IFRS/IAS bắt kịp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng của Việt nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Bộ Tài chính, 2005b. Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt nam. Nhà xuất bản Tài chính, Hà nội. 2. A. Adam và Đỗ Thùy Linh, 2005. Hội nhập các nguyên tắc kế toán và kiểm toán quốc tế. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 3. Đặng Thái Hùng, 2008. Hệ thống CMKT Việt nam: sự cần thiết, nội dung và lộ trình của việc cập nhật và ban hành mới. Tạp chí Kế toán. . [ngày truy cập: 19 tháng 11 năm 2011]. 4. Đoàn Xuân Tiên, 2008. Hệ thống CMKT Việt nam: Những vấn đề cần tiếp tục hoàn 336
  16. thiện. Tạp chí Kiểm toán. Số 6 (91), tháng 6. 5. Nguyễn Phúc Sinh, 2008. Nâng cao tính hữu ích của BCTC doanh nghiệp Việt nam trong giai đoạn hiện nay. Luận án tiến sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 6. Nguyễn Thị Kim Cúc, 2009. Hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính doanh nghiệp nhằm phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế của Việt nam. Luận án tiến sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 7. Phạm Thị Thanh Hà, 2009. Một số định hướng cho kế toán Việt Nam trong tiến trình hội nhập kế toán quốc tế. Luận văn thạc sỹ. Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh 8. Phạm Hoài Hương, 2010. Mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5(40). 9. Vũ Hữu Đức và Trình Quốc Việt, 2008. Tìm kiếm một chiến lược cho quá trình hội nhập quốc tế về kế toán tại Việt Nam. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 218. 10. Trần Quốc Thịnh, 2012, Thách thức của quá trình hội tụ kế toán quốc tế và những kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí kiểm toán số 3/2012 11. Baker, C.R. & Barbu, E.M., 2007. Trends in research on international accounting harmonization. The International Journal of Accounting, 42(3). [on line] Available at:[Accessed August 12, 2011] 12. Nguyen Cong Phuong & Jacques Richard, 2011. Economic Transition and Accounting System Reform in Vietnam. European Accounting Review. 13. Nguyen Cong Phuong & Tran dinh Khoi Nguyen, 2012. International harmonization and national particularities of accounting - Recent accounting development in Vietnam. Journal of Accounting & Organizational Change, Vol. 8 No. 3, pp. 431-451 14. Lasmin, D., 2011a. Empirical Evidence on Formal and Material Harmonization of National Accounting Standards. Journal of International Business Review, Forthcoming. [on line] Available at: http://papers.ssrn.com/sol3/papers,cfm?abstract_id=1893645 [Accessed Oct 2, 2011] 15. Laili, N., 2008. IFRS Adoption and Organisational Change-Evidence from Malaysia. Journal of Law and Financial Management, 7(2). [on line] Available at: [Accessed Sep 12, 2012] 16. Cairns, D. et al., 2011, IFRS fairvalue measurement and accounting policy choice in the United Kingdom and Australia, The British Accounting Review, 43(1). [on line] Available at: [Accessed August 12, 2012] 17. World Bank, 2006. Report On The Observance Of Standards And Codes – 337
  17. Accounting and Auditing Update -The Philippines. . [Accessed October 24, 2012]. 18. IFRS, 2012a. Access the unaccompanied standards and their technical summaries.[online] Available at: http://www.ifrs.org/IFRSs/Pages/IFRS.aspx [Accessed Oct 2, 2012] 19. IFRS, 2012b. The IFRS Foundation and its translation policies. [on line] Available at: [Accessed Oct 2, 2012], IFRS, 2012c. The move towards global standards. [on line] Available at: http://www.ifrs.org/Use-around-the-world/Pages/Use- around-the-world.aspx [Accessed Oct 2, 2012] 20. IFRS Foundation, 2012a. Due Process Handbook for the IASB, IFRS Foundation, 2012b. Report to the Trustees of the IFRS Foundation: IFRS Foundation staff analysis of the SEC Final Staff Report - Work Plan for the consideration of incorporating IFRS into the financial reporting system for US issuers. . [Accessed Oct 2, 2012] 21. Duc Hong Thi Phan, B.M (2014). Optimal approach and timeline for IFRS adoption in Viet Nam: Perceptions from accoungting professional. Elsevier.doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.racreg.2014.09.010 22. Duc Hong Thi Phan, B.M; Meropy Barut (2014). International financial reporting standards (IFRS) adoption in Viet Nam: If, when and how? Coporate Ownership&Control, 11(4) 23. Daske, H, Hail, L, Luez, C & Verdi, R 2013. Adoping a Label: Heterogeneity in the Economic Consequences Around IAS/IFRS Adoptions. Journal of Accounting research, vol 51, no 3, pp 495-547 24. Mahesh Joshi Prem W.Senarath Yapa Diane Kraal (2016), IFRS adoption in Asean countries perception of professional accountants from Singapore, Malaysia and Indonesia, internaltional journal of managerial finance, vol 12 iss 2, pp 211-240 25. Merve Kilic Ali Uyar Basak Ataman (2016), preparedness of the entities for the IFRS for SMEs: an emerging country case, journal of accoungting in Emerging Economies, vol 6 iss 2, pp 156 - 178 338
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2