Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Tác giả Cao Bá Quát
lượt xem 4
download
Bài giảng cung cấp cho người học các kiến thức: Tác giả Cao Bá Quát, cuộc đời sự nghiệp, phong cách nghệ thuật, sự nghiệp văn học, tác phẩm tiêu biểu,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Ngữ văn lớp 12 - Bài: Tác giả Cao Bá Quát
- Cao Bá Qúat • Cao Bá Quát (1809 -1855) tự Chu Thần, sinh tại Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, mất giữa trận tiền Quốc Oai trong cuộc khởi nghĩa chống triều đình thời Tự Đức.Tự Đức tru di ba họ Cao Bá Quát, thu hồi tiêu hủy văn chương ông.
- • Năm 1841 Cao Bá Quát được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ, sau thăng chức Lang trung. • Cuối năm 1841, ông được cử đi làm sơ khảo ở Trường thi Hương Thừa Thiên cùng với Tiến sĩ Phan Nhạ. Phát hiện thấy một số quyển thi hay nhưng phạm húy, mến tài thương người, ông đã tìm cách giúp đỡ, song việc bại lộ, cả hai đều bị bắt giam, kết vào tội chết, nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát phối vào Ðà Nẵng. • Gặp khi có sứ bộ Ðào Trí Phú sang Indonesia công cán, ông được tha cho đi theo lập công chuộc tội, gọi là đi “dương trình hiệu lực” (1843). Xong việc bị thải hồi về quê mấy năm, sau được vua Tự Đức phục chức cũ, bổ vào Viện Hàn lâm một thời gian ngắn (1847), thăng làm chủ sự để sưu tầm và xếp đặt văn thư.
- • Mặc dù làm việc ở Kinh nhưng do tính tình cương trực Cao Bá Quát không được lòng quan trên. • Năm 1850, ông bị đổi ra làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây, năm sau ông xin từ chức với cớ mẹ già. • Năm 1854, ông làm quân sư cho Lê Duy Cự nổi dậy chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa "châu chấu" ở Mỹ Lương thất bại, ông bị bắt rồi cùng với 2 con trai bị hành quyết năm 45 tuổi.
- TÁC PHẨM • Tên tuổi của Cao Bá Quát lẫy lừng trong văn học nước nhà từ rất sớm, đương thời đã được gọi là "Thánh Quát". Ông kết bạn và giao du với những danh sĩ Hà Nội và Huế như Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Hàm Ninh, Miên Trinh, Miên Thẩm... • Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó có bộ sách Cao Chu Thần thi tập, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập và những bài ca trù xuất sắc, nổi bật là Tài Tử Đa Cùng Phú.
- • Đông Tác Tuần Phủ tịch thượng ẩm • Dịch Thơ: • Trên chiếu rượu ở nhà ông Tuần “Cố nhân hữu tửu mạc trù tướng, Phủ Đông Tác Chước chước nguyện quân ẩm vô lượng. “Chủ sẵn rượu xin đừng ngần ngại! Quân bất kiến Hãy rót đi, rót mãi, uống đi anh! hồng hộc cao phi thanh vân thượng, Chẳng thấy ru? Huyền hạc độc túc thanh sơn bạng. Hồng hộc bay cao tít tận mây xanh, Hoàng điểu hoàng điểu qui thực Hạc đen ngủ một mình trên đỉnh núi. trường, Lũ hoàng điểu kiếm ăn sớm tối, Do lai bất cảm lưỡng tương kháng. Từ xưa nay ai chống đối chi ai? Cố nhân nỗ lực sự công danh, Cố nhân mải miết việc đời, Tản nhân qui khứ ngọa giang thành. Nhàn nhân về khểnh ở nơi giang Tương khan bôi tửu tối phân minh.” thành. Chén khuyên tình đã tỏ tình.”
- • Sống xa nhà có lần nhận được tấm áo bông của vợ gửi cho, ông cảm động trước tình yêu thương của vợ, trong từng mũi chỉ đường kim: “Một phong thư đọc dưới ánh đèn, muôn hàng lệ chảy, Đêm nay mảnh hồn tàn trở về quanh quẩn chốn buồng thuê” Ông thương vợ, sống trong cảnh nghèo khổ và tưởng tượng lúc trở về bước qua cửa vào nhà, có lẽ chính là lúc vợ đi giã gạo thuê cho hàng xóm.
- • Cao Bá Quát có một tấm lòng yêu quý đặc biệt đối với quê hương. Cao quan tâm tới cảnh ngộ của nhân dân, nhất là của những người thiếu thốn, đói rét người đi ở bị đòn, người hàng xóm mất con. Cao Bá Quát say mê những cảnh đẹp của đất nước, có thể nói hầu hết những danh lam thắng cảnh của miền Bắc và miền Trung ông đã tới thăm và đều có thơ ngâm vịnh. Đối với ông, thiên nhiên là niềm tự hào của đất nước. Qua Ninh Bình ông mải mê nhìn: “Sông tựa giải là cô gái đẹp, Núi như chén ốc khách làng say...”
- • Nguy cơ ngoại xâm đã từ lâu đe dọa đất nước. Chính trong thời kỳ Cao Bá Quát ở bộ Lễ, một tầu Pháp đã đến Trà Sơn, còn tàu Anh thì lăm le ngoài biển. Cao không thể không lo lắng cho Tổ quốc mình. Có đêm gió to, sóng dữ ngoài cửa Thuận An, nằm không ngủ ông tưởng đến hùng khí của Chu Du từ ngàn thu trước như vẫn còn hừng hực bốc lên, muốn đánh tan những chiếc tầu đang lăm le ngoài cửa biển!
- • Đây là bước ngoặt lớn nhất trong đời Cao Bá Quát. • Cao đã từ ngục thất này đến ngục thất khác bị tra tấn và chịu những nhục hình man rợ nhất, sống những ngày buồn bực đau khổ, uất ức, căm thù. Nhưng ở Cao những ngày trong tù là những ngày sống mãnh liệt. Sức mạnh tinh thần đó vẫn tràn ngập trong những bài thơ làm trong lúc đó. Cao tự nhủ mình: “Phải đem chí bên trong gìn giữ khí bên ngoài. Không để cho những lo nghĩ nhỏ nhen kích thích.”
- Giữa năm 1853 (Tự Đức năm thứ 7), ông xin thôi dạy học, lấy cớ về nuôi mẹ già.. Cao Bá Quát đứng lên tụ tập nhân dân, bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội. Cao đã bị một số phần tử phản bội đi tố giác. Tự Đức sai Nguyễn Quốc Hoan và Lâm Duy Thiết tìm mọi cách bắt cho được Cao.
- • Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ. Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn nghĩa quân thần; còn ông Quát mang cả cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh...Về mặt nghệ thuật, sở trường của ông là thể phú [20] và thể ca trù. Hai thể này, với ông đã vươn tới một trình độ nghệ thuật tuyệt vời.
- Nguyễn Công Trứ • Tiểu sử • Nguyễn Công Trứ con quan Đức Ngạn hầu Nguyễn Công Tấn, quê ở làng Uy Viễn, nay là xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh . Ngay từ thuở còn hàn vi ông đã nuôi lý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp: «Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông.»
- • Năm 1820 khi đã 42 tuổi, ông mới đỗ Giải nguyên ở trường thi hương trấn Nghệ An. Từ đây bắt đầu thời kỳ làm quan đầy sóng gió của ông. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ quân sự, kinh tế tới thi ca. • Cuộc đời ông là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích, chiến công trong quân sự và kinh tế, tới chức thượng thư, tổng đốc; nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt, nhiều lần giáng liền ba bốn cấp như năm 1841 bị kết án trảm giam hậu rồi lại được tha, năm 1843 còn bị cách tuột làm lính thú,…
- • Năm Tự Đức thứ nhất 1847 ông nghỉ hưu với chức vụ Phủ doãn tỉnh Thừa Thiên. Ông đúng là một vị quan văn - võ song toàn đã đóng góp nhiều công lao cho đất nước.
- • Sự nghiệp • Quân sự • Do chính sách hà khắc của nhà Nguyễn dưới triều đại Gia Long và Minh Mạng nên đã xảy ra liên tiếp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân. • Nguyễn Công Trứ tuy là quan văn nhưng phải cầm quân, làm tướng, đánh đâu thắng đó: 1827 dẹp Khởi nghĩa Phan Bá Vành, 1833 dẹp Khởi nghĩa Nông Văn Vân, 1835 dẹp giặc Khách. Đến đời vua Tự Đức thứ 11 (1858), khi thực dân Pháp tấn công Đà Nẵng, thì ông đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc.
- • Kinh tế Ông có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất lập nhà học, xã thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa
- • Thơ ca • Nguyễn Công Trứ là người có tài. Là một người của hành động, trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông khinh bỉ và ngán ngẩm nó. «Thế thái nhân tình gớm chết thay Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy»
- • Hay: Tiền tài hai chữ son khuyên ngược Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi • Hoặc: Ra trường danh lợi vinh liền nhục Vào cuộc trần ai khóc trước cười.
- • Trong xử thế ông cười nhạo sự thăng giáng, coi làm quan thì cũng như thằng leo dây và không giấu sự ngạo mạn: Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào Đã sa xuống thấp lại lên cao. • Chán chường với chốn quan trường nhưng ông không chán đời. Ông vốn yêu đời, là người chịu chơi, với ông cái gì cũng có thể đem chơi kể cả tài kinh bang tế thế. Trời đất cho ta một cái tài Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)
30 p | 32 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phát biểu theo chủ đề - Trường THPT Bình Chánh
31 p | 13 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Người lái đò sông Đà - Trường THPT Bình Chánh
23 p | 12 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Đất nước (Trích Mặt trường ca khát vọng) - Trường THPT Bình Chánh
76 p | 11 | 4
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
18 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Quá trình văn học và phong cách văn học - Trường THPT Bình Chánh
28 p | 9 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Phong cách ngôn ngữ khoa học - Trường THPT Bình Chánh
17 p | 15 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học - Trường THPT Bình Chánh
20 p | 12 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Luật thơ - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 11 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Khái quát văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỷ XX - Trường THPT Bình Chánh
30 p | 10 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Chữa lỗi lập luận trong văn nghị luận - Trường THPT Bình Chánh
21 p | 7 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông - Trường THPT Bình Chánh
49 p | 11 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Bài thơ Tây Tiến - GV. Hoàng Nhung
11 p | 14 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm
15 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12: Thực hành một số phép tu từ ngữ âm - Trường THPT Bình Chánh
8 p | 13 | 3
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
17 p | 17 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Phong cách ngôn ngữ khoa học
19 p | 9 | 2
-
Bài giảng Ngữ văn lớp 12 bài: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
23 p | 13 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn