intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Phát hiện và đếm coliforms trong nước uống, các phương pháp hiện thời và phương pháp tiếp cận nổi bậc

Chia sẻ: Nguyến Văn Đê | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:44

126
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Phát hiện và đếm coliforms trong nước uống, các phương pháp hiện thời và phương pháp tiếp cận nổi bậc" giới thiệu đến các bạn những nội dung về coliforms, phương pháp phân tích vi sinh thực phẩm như: Phương pháp enzyme, phương pháp phân tử,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Phát hiện và đếm coliforms trong nước uống, các phương pháp hiện thời và phương pháp tiếp cận nổi bậc

  1. BÔ CÔNG TH ̣ ƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM      THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM                                                       Môn  : Phân Tích Vi Sinh Th ực Ph ẩm Đề Tài:  Detection And Enumeration Of Coliforms In Drinking  Water: Current Methods And Emerging Approaches (Phát Hiện Và Đếm Coliforms Trong Nước Uống: Các   Phương Pháp Hiện Thời Và Phương Pháp Tiếp Cận   Nổi Bậc) GVGD: Phan Thị Kim Liên TP.HCM,THÁNG 11­2014
  2. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 2
  3. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm MỤC LỤC  MỤC LỤC                                                                                                             .........................................................................................................      3  TÓM TẮT                                                                                                              .........................................................................................................      4 1. Giới Thiệu.......................................................................................................................5 1.1. Coliforms là gì?...............................................................................................................7 2. Mục Tiêu.......................................................................................................................10 3. Phương Pháp Cổ Điển.................................................................................................10 3.1. Kỹ thuật lên men nhiều ống..........................................................................................10 3.2. Kỹ thuật màng lọc.........................................................................................................12 4. Phương Pháp Enzyme.................................................................................................15 4.1 Nguyên tắc chung..........................................................................................................15 4.2. Kỹ thuật có/ không có sự hiện diện của vi khuẩn và đếm bằng các kỹ thuật nhiều ống sử dụng phương pháp enzyme...........................................................................................17 4.3. MF kỹ thuật liên hợp với phát hiện enzyme của vi khuẩn............................................20 4.4. Xác định trực tiếp hoạt tính của enzyme bằng fluorimetry...........................................21 4.5. Phát hiện vi khuẩn bằng phương pháp sử dụng enzyme đếm tế bào pha rắn...........22 4.6. Kết luận về phương pháp enzyme...............................................................................23 5. Phương Pháp Phân Tử ...............................................................................................24 5.1. Phương pháp miễn dịch ..............................................................................................24 5.2. Phương pháp dựa trên axit nucleic .............................................................................28 6. Kết Luận.......................................................................................................................41  LỜI CẢM ƠN                                                                                                    ................................................................................................       44 GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 3
  4. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm TÓM TẮT  Nhóm coliform được sử  dụng rộng rãi như  một chỉ  tiêu của chất lượng   nước và về  phương diện lịch sử  đã dẫn đến khái niệm bảo vệ  sức khỏe cộng   đồng. Mục đích của việc xem xét này là để  kiểm tra phương pháp hiện đang  được sử dụng hoặc có thể được đề xuất cho việc kiểm tra định lượng coliforms  trong nước uống.  Trên thực tế, nhu cầu về các thử  nghiệm nhanh hơn, nhạy hơn và cụ  thể  hơn là điều cần thiết trong ngành công nghiệp nước. Các kỹ thuật thông thường  và được thừa nhận rộng rãi, đã được thảo luận, như là các phương pháp nổi bậc   từ sự phát triển của các nghiên cứu gần đây.  Phương pháp truyền thống đã được chấp nhận để  phát hiện coliform bao  gồm kỹ thuật lên men nhiều ống (MTF) và kỹ thuật màng lọc (MF) sử dụng môi  trường nuôi cấy cụ thể và điều kiện ủ  khác nhau. Những phương pháp này vẫn   còn những hạn chế, chẳng hạn như thời gian  ủ bệnh, sự can thiệp sinh vật đối  kháng, thiếu tính cụ thể và việc phát hiện kém đối với các vi sinh vật phát triển  chậm hoặc có thể  phát triển và tồn tại mà không nuôi cấy. Ngày nay, kỹ  thuật   màng lọc đơn giản và không tốn kém là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất   cho việc định lượng thông thường coliforms trong nước uống.  Việc phát hiện coliforms dựa trên hoạt tính enzyme đặc trưng đã cải thiện   được độ  nhạy của các phương pháp này. Các enzyme  β­D galactosidase và  β­D   glucuronidase được sử  dụng rộng rãi để  phát hiện và định lượng coliforms tổng   và   Escherichia   coli,   tương   ứng.   Nhiều  chất   chromogenic   và   fluorogenic   được  dùng để phát hiện cụ thể hoạt tính của các enzyme này và các thử  nghiệm mang   tính thương mại khác nhau được dựa trên các chất có sẵn này. Nhiều sự so sánh   đã cho thấy những thử  nghiệm này có thể  là một thay thế  thích hợp cho các kỹ  thuật cổ  điển. Tuy nhiên, phương pháp này thì đắt hơn, và thời gian  ủ, mặc dù   giảm, nhưng vẫn còn quá dài để cho kết quả cùng ngày. GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 4
  5. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm Các công cụ phân tích tinh vi hơn như kỹ thuật đếm tế bào pha rắn có thể  được tận dụng để làm giảm thời gian cần thiết để  phát hiện các hoạt động của  enzyme  ở  vi khuẩn, với một ngưỡng phát hiện thấp. Phát hiện coliforms bằng  phương pháp phân tử này cũng được đề cập, vì các phương pháp này cho những   phát hiện rất cụ thể và nhanh chóng mà không cần nuôi cấy.   Ba phương pháp phân tử  được đánh giá  ở  đây: các kỹ  thuật miễn dịch,  phản ứng chuỗi polymerase (PCR) và lai tại chỗ (ISH). Trong cách phương pháp  miễn dịch, các kháng thể  khác nhau chống lại vi khuẩn coliform được tạo ra,   nhưng việc áp dụng kỹ thuật này thường cho thấy kháng thể mang tính đặc hiệu  thấp. PCR có thể  được sử  dụng để  phát hiện vi khuẩn coliform bằng phương   pháp   khuếch   đại   tín   hiệu:   trình   tự   DNA   mã   hóa   cho   các  gen   lacZ  (gen   b­ galactosidase) và  gen uidA  (b – D gen glucuronidase) đã được sử  dụng để  phát  hiện tổng coliforms và E. coli, tương  ứng. Tuy nhiên, việc định lượng với PCR   vẫn thiếu chính xác và đòi hỏi phải làm việc trong phòng thí nghiệm chuyên  dụng. Kỹ thuật FISH liên quan đến việc sử  dụng các đầu dò oligonucleotide để  phát hiện các trình tự  bổ  sung bên trong tế  bào cụ  thể. Đầu dò oligonucleotide  được   thiết   kế   đặc   biệt   cho   phạm   vi   của   các   phân   tử   RNA   16S   của  Enterobacteriaceae có thể được sử dụng để kiểm soát chất lượng vi sinh của các  mẫu nước uống. FISH nên là một kỹ thuật cần quan tâm có thể thay thế cho các  phương pháp nuôi cấy thông thường để xác định nhóm coliform trong nước uống,  vì nó cung cấp các dữ liệu định lượng trong một khoảng thời gian khá ngắn (6 –  8 tiếng), nhưng vẫn đòi hỏi nỗ lực nghiên cứu. 1. Giới Thiệu Việc bảo vệ sức khỏe công đồng và môi trường đòi hỏi nước uống phải   an toàn, điều đó có nghĩa là không chứa VSV gây bệnh. Giữa các VSV phân tán  trong các nguồn nước, VSV gây bệnh ở ruột là những loại dễ bắt gặp nhất. Như  một hệ quả, các nguồn ô nhiễm phân trong nước dành cho hoạt động con người   phải được kiểm soát chặt chẽ. Tác nhân gây bệnh đường ruột, như Escherischia   GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 5
  6. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm coli O157: H7, thường hiện diện tại nồng độ  rất thấp trong môi trường nước  trong một hệ  vi thực vật đa dạng. Các phương pháp phức tạp được đòi hỏi để  phát hiện ra chúng, và những phương pháp này thì vô cùng tốn thời gian. Hầu hết   coliform hiện diện với số lượng lớn trong hệ thực vật đường ruột của người và  động vật máu nóng khác, và vì thế nên chúng được tìm thấy trong phân thải. Như  một hệ  quả, coliforms, được phát hiện  ở  nồng độ  cao hơn vi khuẩn gây bệnh,   được sử  dụng như  một chỉ  số  thể hiện sự hiện diện tiềm  ẩn của tác nhân gây  bệnh đường ruột trong môi trường nước. Việc sử dụng các nhóm coliform, và cụ  thể hơn là E. coli, như một chỉ số vi sinh của chất lượng nước có từ sự phân lập  đầu tiên của các vi sinh vật này từ phân vào cuối thế  kỷ thứ 19. Coliforms cũng   thường được tìm thấy trong môi trường tự nhiên đa dạng, như một vài loài trong   số đó có nguồn gốc từ  đất, nhưng nước uống không phải là một môi trường tự  nhiên của chúng. Sự hiện diện của chúng trong nước uống ít nhất phải được coi   là một mối đe dọa hoặc dấu hiệu của vi sinh vật về sự suy thoái của chất lượng   nước. Số mẫu coliform tổng dương tính trong một nguồn nước đã được xử lý mà  thường không có coliform thì có thể là chỉ ra việc xử lý không có hiệu quả, mất   mát của chất khử  trùng, bị  chọc thủng (McFeters và các cộng sự, 1986), sự xâm   nhập của nước ô nhiễm vào các nguồn cung cấp nước sinh hoạt (Geldreich và   các cộng sự, 1992; Clark và các cộng sự, 1996) hoặc các vấn đề  tái sử  dụng  (LeChevallier, 1990) trong hệ thống phân phối, và, như một hệ quả, không được  cho phép. Việc sử dụng các nhóm coliform như một chỉ số về việc có thể hiện diện  các tác nhân gây bệnh đường ruột trong các hệ  thống thủy sinh là một đề  tài  tranh luận trong nhiều năm. Nhiều tác giả đã báo cáo dịch bệnh qua đường nước  trong cuộc họp quy định coliform trong nước (Payment và các cộng sự, năm 1991;  Moore và các cộng sự, 1994; MacKenzie và các cộng sự, 1994; Gofti và các cộng   sự, 1999). Tuy nhiên, mục đích của bài viết này không phải là để  thảo luận về  các khái niệm chỉ  số, mà là để  xác định phương pháp hiện đang được sử  dụng  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 6
  7. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm hoặc có thể  được đề  nghị  cho việc theo dõi coliforms trong nước uống. Sự  cần  thiết của các kiểm nghiệm nhanh và nhạy hơn là không thay đổi trong ngành   công nghiệp nước, với mục  đích là theo dõi trực tuyến liên tục của các nhà máy   xử lý nước thải. 1.1. Coliforms là gì? Các nhóm coliform bao gồm một sự đa dạng phong phú về  thuật ngữ  chi  và loài, dù có hoặc không thuộc họ  Enterobacteriaceae. Hầu hết các định nghĩa   coliforms là chủ  yếu dựa trên các đặc tính sinh hóa thông thường. Trong các  phương pháp tiêu chuẩn cho việc kiểm tra nước và nước thải (Part 9221 và 9222;  APHA và các cộng sự, 1998),các thành viên nhóm coliform được mô tả như sau: 1. Tất cả    đều kỵ  khí và hiếu khí tuỳ  ý, gram ­, không bào tử, vi khuẩn  hình que và lên men lactose sinh khí và tạo axit trong vòng 48h ở 35 oC (Kỹ thuật  lên men nhiều ống; Phần 3.1) hoặc 2. Tất cả hiếu khí và kỵ khí nhiều tuỳ ý, gram âm, không bào tử, vi khuẩn   hình que phát triển thành một khuẩn lạc màu đỏ  ánh kim trong vòng 24h  ở 35oC  trên một môi trường loại Endo có chứa lactose (màng lọc kỹ thuật; Phần 3.2). Định nghĩa các thành viên của nhóm coliform gần đây đã được mở  rộng  bao gồm các đặc điểm khác, chẳng hạn như phản  ứng  β­D­galactosidase dương   tính (Part 9223;. APHA et al, 1998) (kiểm tra enzyme nền, phần 4.2). Vi ệc tìm   kiếm các vi sinh vật β­galactosidase dương tính và đệm β­galactoside­dương tính  cũng cho phép một bước xác nhận lên men lactose, khi đó kỹ thuật lên men nhiều  ống được sử dụng. Các thử  nghiệm cytochrome oxidase cũng được sử dụng như  là một thử  nghiệm khẳng định để  loại bỏ  một số  vi khuẩn của chi Aeromonas   hoặc Pseudomonas mà có thể lên men lactose. Định nghĩa của vi khuẩn coliform hơi khác tùy thuộc vào quốc gia hoặc   các tổ  chức chịu trách nhiệm về các quy định giám sát vi sinh. Tại Canada, định   nghĩa giống như ở Mỹ, và khác với một số nước châu Âu. Ví dụ, Hiệp hội Tiêu  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 7
  8. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm chuẩn Pháp (NFT90­413 và NFT90­414; AFNOR, 1990), nó có thể  được xem là   một mô hình đại diện cho luật pháp châu Âu, xác định coliforms tổng (TC) như: Hình que, không bào tử, gram âm, oxidase âm tính, hiếu khí hoặc kỵ  khí tuỳ  ý. Vi khuẩn có thể  phát triển trong sự  hiện diện của muối mật   hoặc chất có hoạt tính bề  mặt thay thế  khác có tác dụng  ức chế  sự  tăng   trưởng tương tự  và lên men lactose sinh khí và sinh acid (hoặc aldehyde)  trong vòng 48 giờ ở 37 ± 1oC. AFNOR (1990) đi xa hơn bằng cách định nghĩa nhóm coliform khác, bao  gồm cả các coliform chịu nhiệt (còn gọi là coliforms phân, FC), và cụ thể hơn, E.  coli là: Coliforms chịu nhiệt có cùng đặc tính lên men như  coliforms (TC),   nhưng nhiệt độ 44 ± 0,5oC. E. coli là một coliform chịu nhiệt, chỉ khác một vài điều, tạo indole   từ tryptophane tại nhiệt độ 44 ± 0.5oC, cho kết quả thử nghiệm methyl đỏ  dương   tính,   không  thể   tạo  ra   acetyl­methyl   carbinol   và   không   sử   dụng  citrate làm nguồn carbon duy nhất của nó. Việc sử  dụng các nhóm coliform như  một chỉ  số ô nhiễm phân phải phụ  thuộc vào các quy định nghiêm ngặt của chính phủ  (Bảng 1). E. coli là coliforms   phổ biến nhất trong hệ thực vật đường ruột của động vật máu nóng động vật và  sự  hiện diện của nó có thể  liên quan chủ  yếu đến ô nhiễm phân. Do đó không   được phép có E. coli trong nước uống. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đã phê duyệt một số phương  pháp để  phát hiện coliform: các kỹ  thuật lên men nhiều  ống, kỹ thuật màng lọc  và các thử  nghiệm có mặt /không có mặt (bao gồm các thử  nghiệm ONPG –  MUG). AFNOR (1990) đã phê duyệt kỹ  thuật lên men nhiều  ống và kỹ  thuật   màng lọc.  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 8
  9. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm Các phương pháp này có những hạn chế, chẳng hạn như  thời gian  ủ, sự  can thiệp của sinh vật đối kháng, thiếu tính cụ  thể   ở  các nhóm coliform và độ  phát hiện kém của đối với coliforms phát triển chậm hoặc bị tổn thương. Vì thế,  tùy thuộc vào hệ  thống môi trường, chỉ  một phần nhỏ  (0,1­15%) trong tổng số  quần thể  vi khuẩn có thể  được đếm bởi phương pháp nuôi cấy (Amann và các   cộng sự, 1990). Tỷ  lệ  vi khuẩn không nuôi cấy có thể  bị   ảnh hưởng bởi điều  kiện không thuận lợi cho vi khuẩn phát triển trong suốt quá trình nuôi cấy hoặc   bởi khả  năng sống sót hoặc hoạt động của chúng  ở  trạng thái không nuôi cấy  (VBNC hoặc ABNC) (Roszak và Colwell, 1987; Joux và Lebaron, 2000; Colwell   và Grimes, 2000). Bảng 1. Một số quy định chống nhiễm khuẩn hiện và hướng dẫn cho  nước uống Yêu cầu giám sát Coliform tổng E.coli Mật độ Mẫu/tháng 0/100 ml (95%) United  một   mẫu   liên   tiếp   từ  0/100   ml  ≈   1/1000   sinh  Statesa cùng vị trí không được  (100%) vật có coliform 0/100 ml (90%) không nên chứa nhiều  hơn 10 CFU/100 ml 0/100   ml  9000 thế giớic (100%) sinh vật) GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 9
  10. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm a. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ năm 1990. b Bộ y tế Canada, 1996. c Tổ chức Y tế Thế giới, 1994. 2. Mục Tiêu Vì nước uống là chế độ nghèo dinh dưỡng, các phương pháp nuôi cấy kém   nhạy trong việc phát hiện các tế  bào vi khuẩn bị  tổn thương và sắp chết có thể  tạo ra những hạn chế nghiêm trọng do việc đánh giá quá thấp mức độ  ô nhiễm.  Có tồn tại các phương pháp khác mà có thể được sử dụng để phát hiện coliform,   và là những  trạng thái khác nhau của sự phát triển và ứng dụng. Đánh giá này mô   tả các nguyên tắc và các cách thức thông thường của phương pháp cổ điển, cũng  như  một số  các phương pháp đổi mới và phương pháp tiếp cận mới nổi. Việc   ứng dụng các phương pháp khác nhau  để  phát hiện coliforms  trong một môi  trường nghèo chất dinh dưỡng như  nước uống cũng được  đánh giá  dựa trên  những ưu điểm và nhược điểm của chúng. Các tiêu chí như giới hạn phát hiện và  độ  nhạy của các phương pháp, thời gian cần thiết để  có được kết quả  và các  kinh phí của phòng thí nghiệm (bao gồm cả  kỹ năng, lao động và chi phí) cũng  được thảo luận. 3. Phương Pháp Cổ Điển 3.1. Kỹ thuật lên men nhiều ống Kỹ thuật để đếm coliforms bằng phương pháp lên men nhiều  ống (MTF)   đã được sử  dụng hơn 80 năm như  là một phương pháp kiểm tra chất lượng   nước. Phương pháp này bao gồm việc cấy một loạt các  ống với dung dịch pha   loãng thập phân thích hợp của các mẫu nước. Tạo bọt khí, hình thành axit hoặc  tăng trưởng nhiều trong  ống nghiệm sau 48 giờ  ủ  ở 35 oC thì có thể là phản ứng  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 10
  11. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm dương tính. Cả môi trường dịch thể lactose và lauryl tryptose đều có thể được sử  dụng  như   một  môi   trường  nuôi  cấy  giả   định,   nhưng  Seidler  và   các   cộng  sự  (1981) và Evans và các cộng sự  (1981) đã can thiệp, với số lượng lớn vi khuẩn   không phải là coliform, thì sử dụng môi trường dich lỏng lactose. Tất cả  ống có   phản ứng dương tính giả định tiếp sau đó phải thực hiện một thử nghiệm khẳng   định. Sự  hình thành khí trong các  ống lên men chứa môi trường brilliant green   lactose bile tại bất kỳ thời điểm nào trong vòng 48 giờ ở 35 oC tạo thành một thử  nghiệm khẳng định dương tính. Các thử nghiệm coliform phân (sử dụng một môi   trường canh EC) có thể được áp dụng cho xác định colifom tổng (TC) mà cụ thể  là FC (APHA và các cộng sự, 1998): việc tạo khí sau 24 giờ   ủ   ở  44,5oC trong  canh EC được coi là một kết quả dương tính. Các kết quả của kỹ thuật MTF được thể hiện trong điều khoản số lượng   có thể  xảy ra nhất (MPN) về  sự  hiện diện của vi sinh vật. Con s ố này là một  ước lượng thống kê của trung bình số  coliform trong mẫu. Hệ  quả  là, kỹ  thuật  này được đưa ra để định lượng sơ bộ coliforms. Tuy nhiên, độ chính xác của việc   ước lượng thì thấp và phụ  thuộc vào số ống dùng để  phân tích: ví dụ, nếu chỉ 1  ml được xem xét trong một mẫu chứa 1 coliform / ml, khoảng 37% trong các ống  1 ml có thể mong đợi dự kiến sẽ mang lại kết quả âm tính vì các phân phối ngẫu  nhiên của các vi khuẩn trong mẫu. Nhưng, nếu năm ống, mỗi 1 ml mẫu, được sử  dụng, một kết quả  âm tính có thể  được dự  kiến sẽ  ít hơn 1% của thời gian   (APHA và các cộng sự, 1998). Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đáng kể coliform đến phát hiện vi khuẩn   bằng MTF, đặc biệt là trong suốt giai đoạn giả định. Sự can thiệp của một lượng   lớn vi khuẩn không phải là coliform (Seidler et al, 1981; Evans và các cộng sự,  1981;   Means   và   Olson,   1981),   cũng   như   bản   chất   ức   chế   của   môi   trường   (McFeters và các cộng sự, 1982), đã được xác định là yếu tố  góp phần đánh giá  thấp các coliform đa dạng. Kỹ  thuật MTF thiếu chính xác về  định tính và định  lượng. Thời gian cần thiết để có được kết quả cao hơn so với các kỹ thuật khác. GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 11
  12. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm Kỹ thuật màng lọc đã thay thế kỹ thuật MTF trong nhiều trường hợp cho  việc kiểm tra hệ thống nước uống. Tuy nhiên, kỹ thuật này vẫn còn hữu ích, đặc   biệt là khi điều kiện không cho phép sử dụng các kỹ thuật lọc màng, chẳng hạn   như các loại nước đục hoặc có màu. MTF là dễ  thực hiện và có thể  được thực hiện bởi một kỹ  thuật viên  được đào tạo cơ  bản về  vi sinh, nhưng phương pháp này có thể  trở  nên rất dài  dòng và cần nhiều nhân công vì nhiều dung dịch pha loãng đã được xử lý cho mỗi   mẫu nước. Tuy nhiên, nó tương đối là không tốn kém, vì nó không đòi hỏi thiết  bị  phòng thí nghiệm phức tạp. Tuy nhiên, phương pháp này là cực kỳ  tốn thời   gian, đòi hỏi 48h cho kết quả giả định, và buộc phải có một giai đoạn nuôi cấy   lại để khẳng định mà có thể mất lên tới hơn 48h. 3.2. Kỹ thuật màng lọc Các màng lọc kỹ thuật (MF) đã hoàn toàn được chấp nhận và đã được phê  duyệt như  một thủ  tục để  theo dõi chất lượng vi sinh vật trong nước uống  ở  nhiều quốc gia. Phương pháp này bao gồm lọc một mẫu nước trên một màng lọc  vô trùng với kích thước lỗ 0,45 mm mà vẫn giữ lại vi khuẩn, ủ màng lọc này trên   môi trường chọn lọc và đếm các khuẩn lạc điển hình trên các màng lọc. Nhiều môi trường và điều kiện ủ cho phương pháp MF được thử nghiệm   cho việc phục hồi tối  ưu của coliformstừ mẫu nước (Grabow và du Preez, 1979;  Rice và các cộng sự, 1987). Trong đó, được sử dụng phổ biến cho phân tích nước   uống là  loại môi trường m­Endo ở Bắc Mỹ (APHA và các cộng sự, 1998) và môi   trường Tergitol  ­ TTC ở châu Âu (AFNOR, 1990). Vi khuẩn coliform hình thành  khuẩn lạc màu đỏ  ánh kim trên một môi trường loại Endo ­ loại môi trường có  chứa lactose (ủ trong 24 giờ  ở 35oC đối với TC) hoặc khuẩn lạc màu vàng – cam  trên môi trường Tergitol­TTC (ủ trong 24 và 48 h ở 37 và 44oC đối với TC và FC,  tương ứng). Môi trường nuôi cấy khác, chẳng hạn như thạch MacConkey và môi  trường Teepol, đã được sử dụng ở Nam Phi và Anh. Tuy nhiên, so sánh giữa các  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 12
  13. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm môi trường nuôi cấy thì thạch m­Endo mang lại giá trị  đếm được cao hơn thạch  MacConkey hoặc thạch Teepol (Grabow và du Preez, 1979). Để  đếm các FC,   APHA và các cộng sự (1998) cho rằng màng lọc được ủ trên môi trường làm giàu   lactose (m­FC) ở nhiệt độ 44,5oC trong 24 giờ. Bởi vì nhiệt độ ủ tăng cao và việc  bổ sung thuốc thử muối acid rosolic, vài khuẩn lạc không phải coliform phân phát  triển trên các môi trường m­FC (APHA và các cộng sự, 1998).  Việc đếm TC bằng cách lọc màng thì không hoàn toàn thiết thực. Khi MF   được   kết  hợp  với   môi  trường   nuôi  cấy  m­Endo  chứa   lactose,   các   khuẩn  lạc  không điển hình thì có màu đỏ sẫm, nhầy hoặc có nhân và không có ánh kim thỉnh  thoảng có thể xuất hiện. Khuẩn lạc không điển hình màu xanh, hồng, trắng hoặc   không màu thiếu ánh thì không được xem trong TC trong kỹ thuật này (APHA và  các cộng sự, 1998). Hơn nữa, các khuẩn lạc điển hình với một độ óng ánh đôi khi  được tạo ra bởi vi khuẩn không phải là coliform và ngược lại, các khuẩn lạc  không điển hình (màu đỏ  sẫm hoặc khuẩn lạc có nhân mà không có ánh kim)  thường không phải là coliforms. Do đó việc xác nhận Coliform có thể được chấp   nhận cho cả hai loại khuẩn lạc (APHA và các cộng sự, 1998).  Với việc chấp nhận MF như  một kỹ  thuật chọn lọc cho việc theo dõi  nước uống (APHA và các cộng sự, 1998; AFNOR, 1990), các câu hỏi liên quan   đến việc phát hiện coliform và tính chính xác của việc định lượng đã tăng lên. Sự  hiện diện của số lượng lớn vi khuẩn dị dưỡng nền làm giảm việc hồi phục của   coliform trong MF (Clark, 1980; Burlingame và các cộng sự, 1984). Các khuẩn lạc  tập hợp quá lớn trên các môi trường m­Endo đã gắn liền với việc làm giảm các   khuẩn lạc coliform tạo ra ánh kim (Hsu và Williams, 1982; Burlingame và các  cộng sự, 1984). Điều đáng quan tâm về MF là nó không có khả năng để phục hồi coliforms   bị căng thẳng hoặc bị tổn thương. Một số yếu tố hóa học và vật lý liên quan đến  việc xử lý nước uống, bao gồm việc khử trùng, có thể gây ra thương vong cho vi  khuẩn coliform, kết quả  là một tế  bào bị  hư  hỏng thì không thể  hình thành một  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 13
  14. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm khuẩn lạc trên môi trường mang tính chọn lọc. Việc phơi sáng của vi khuẩn để  tạo ra sản phẩm như  clo có thể  dẫn đến tổn thương và tăng tính nhạy cảm với   muối mật hoặc các chất hoạt động bề mặt thay thế (sodium desoxycholate hoặc   Tergitol 7) chứa trong một số  môi trường nuôi cấy chọn lọc. Một số  cải tiến  trong phương pháp đã tăng độ phát hiện đối với vi khuẩn coliform bị tổn thương,  bao gồm cả  việc phát triển các môi trường m­T7 đặc biệt dành cho việc phục   hồi của coliforms bị  tổn thương trong nước uống (LeChevallier và các cộng sự,   1983). Đánh giá thường xuyên về các mẫu nước uống (LeChevallier và các cộng   sự, 1983; McFeters et al, 1986) và nước bề mặt. (McFeters và các cộng sự, 1986;  Freier và Hartman, 1987) cho thấy sự phục hồi coliform cao hơn trên môi trường  m­T7 so với trên môi trường m­Endo. Tuy nhiên, m­T7 có thể  không hiệu quả  bằng m­Endo khi các bộ  phận bị  tổn thương khác chlorine có liên quan. Rice và  các cộng sự (1987) đã đem lại sự khác biệt khôn đáng kể trong coliform đã phục   hồi trên m­T7 so với m­Endo LES từ mẫu monochloraminated, và Adams và các  cộng sự  (1989) thấy rằng môi trường m­T7 không tốt bằng môi trường m­Endo  trong việc điều tra các tế bào E. coli và C. freundii tiếp xúc với ozone. Các tác giả khác đã gợi ý rằng việc khử trùng bằng clo ảnh hưởng đến các  chức năng khác nhau về  hoạt tính của vi khuẩn coliform, như  hoạt tính enzym  catalase (Calabrese và Bissonnette, 1990; Sartory, 1995). Vi khuẩn hoat động trao  đổi chất tạo ra hydrogen peroxide (H2O2), việc này thường nhanh chóng bị  thoái  hóa bởi catalase. Coliforms bị thương với hoạt tính của catalase giảm sẽ tích lũy  chất độc hydrogen peroxide, mà chúng thì cực kỳ nhạy. Calabrese và Bissonnette   (1990) báo cáo về sự tăng lên trong việc phục hồi coliform trên môi trường nuôi  cấy m­Endo và m­T7, cũng như sự gia tăng trong việc phục hồi E. coli trên m­FC  khi các môi trường nuôi cấy được bổ sung catalase, sodium pyruvate hoặc cả hai.   Sartory (1995) cho rằng sodium pyruvate nên được thêm vào ở nồng độ 0,01­0,1%   cho bất kỳ  môi trường phát hiện coliform chuẩn nào vì sản phẩm này cho phép   cải thiện việc phục hồi của các coliform chịu áp lực chlorine.  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 14
  15. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm Số lượng lớn môi trường nuôi cấy thay đổi trong sử dụng là một phản ánh  thực tế rằng không có môi trường thông dụng nào hiện nay tồn tại cho phép tối  ưu  việc đếm các loài coliform khác nhau có nguồn gốc từ  các môi trường khác  nhau và hiện diện ở nhiều trạng thái sinh lý. Những lợi ích đáng kể của kỹ thuật   MF nhiều hơn là phương pháp MTF, việc kiểm tra các thề  tích lớn của nước là   khả  thi, nhạy hơn và độ  tin cậy cao hơn. MF cũng là một điều tra định lượng   mang tính tương đối với việc định lượng sơ bộ các thông tin được ghi nhận bởi   phương pháp MTF. MF là một kỹ thuật hữu ích cho đa số các phòng thí nghiệm   về chất lượng nước vì nó là một phương pháp tương đối đơn giản để  sử  dụng.   Nhiều mẫu có thể  được xử  lý trong một ngày với các thiết bị  phòng thí nghiệm   bị  hạn chế  bằng một kỹ  thuật với các kỹ  năng vi sinh cơ  bản . Tuy nhiên, vì   phương pháp này thì chưa đủ  thiết thực, một giai đoạn khẳng định là cần thiết,  mà nó có thể  mất hơn 24 h sau giai đoạn  ủ  đầu tiên trên môi trường chọn lọc.   Đây  là   lý   do  tại   sao  việc   cải  tiến   phương   pháp  MF  dựa   trên  các   thuộc   tính   enzyme của coliforms đã được đề xuất (xem mục 4.3). 4. Phương Pháp Enzyme 4.1 Nguyên tắc chung Các xét nghiệm sinh hóa được sử dụng để xác định vi khuẩn và liệt kê các   phương pháp nuôi cấy cổ điển thường được dựa trên các phản ứng trao đổi chất.  Kết luận này, chúng không hoàn toàn cụ  thể, và nhiều xét nghiệm bổ  sung này  đôi khi cần thiết để  có được xác nhận chính xác. Việc sử dụng các enzyme của  vi khuẩn để phát hiện vi khuẩn là một thay thế hấp dẫn đối với các phương pháp  cổ  điển. Phản  ứng enzyme có thể  là nhóm, chi hoặc loài cụ  thể, tùy thuộc vào  enzyme mục tiêu.Hơn nữa, phản  ứng nhanh và nhạy cảm.Như  vậy, khả  năng  phát hiện và liệt kê coliforms thông qua các hoạt động enzyme cụ  thể  đã được   điều tra nhiều năm nay. GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 15
  16. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm β­D­glucuronidase   là   một   enzyme   xúc   tác   thủy   phân   dẫn   xuất   β­D­ glucopyranosiduronic vào aglycons tương  ứng của chúng và acid D­glucuronic.   Mặc dù enzyme vi khuẩn này được phát hiện đầu tiên trong E. coli, độ đặc hiệu   tương đối của nó để  xác định các vi sinh vật này là không rõ ràng cho đến khi  Kilian và Bulow (1976) khảo sát các Enterobacteriaceae và báo cáo rằng hoạt   động glucuronidase chủ yếu là giới hạn E. coli. Sự phổ biến của enzyme này và   tiện ích của nó trong việc phát hiện vi khuẩn E. coli trong nước sau đó đã được  xem xét bởi Hartman (1989). Phản  ứng B­D­glucuronidase dương tính đã được  quan sát trong 94­ 96% của E. coli phân lập được thử  nghiệm (Kilian và Bulow,   1976; Feng và Hartman, 1982; Edberg và Kontnick, 1986;. Kaspar và cộng sự,   1987), trong khi Chang và cộng al. (1989) tìm thấy một tỷ  lệ cao hơn của B­D­ glucuronidaseE. coli âm tính  (thời gian trung bình là 15% từ vi khuẩn E. coli phân   lập từ  mẫu phân của con người). Ngược lại, hoạt động B­D­glucuronidase là ít  phổ biến hơn trong chi Enterobacteriaceae khác, chẳng hạn như vi khuẩn Shigella   (44­58%),   Salmonella   (20­29%)   và   chủng   Yersinia   và   Flavobacteria   (Kilian   và  Bulow,   1976;   Massanti   et   al   .,   1981;   Feng   và   Hartman,   1982;   Frampton   và  Restaino, 1993). B­D­galactosidase, xúc tác sự phân hủy của lactose thành glucose   và galactose và đã được sử dụng chủ yếu để liệt kê các nhóm coliform trong họ  Enterobacteriaceae.   Việc   sử   dụng   B­D­glucuronidase   và   các   hoạt   động   B­D­ galactosidase để phát hiện và đếm vi khuẩn E. coli và TC tương ứng, được xem   xét ở đây. Chromogenic và chất fluorogenic sản xuất màu và huỳnh quang, tương   ứng khi chia tách bởi một enzyme cụ thể.Các chất đã được sử dụng để phát hiện  sự hiện diện hoặc các hoạt động của enzyme cụ thể trong các hệ thống thủy sản  (Chrost, 1991). Một số tác giả đã xem xét chất fluorogenic và chromogenic được   sử  dụng để  chẩn đoán vi khuẩn (Bascomb, 1987; Manafi et al, 1991.). Họ lưu ý   rằng việc sử dụng các chất đã dẫn đến cải thiện độ chính xác và phát hiện nhanh   hơn.Phương pháp phát hiện hoặc điều tra có thể  được thực hiện trong một môi   GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 16
  17. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm trường duy nhất, do đó bằng cách thông qua sự  cần thiết của một thủ  tục tốn   thời   gian   cách   ly   trước   khi   xác   định.   Để   phát   hiện   sự   hiện   diện   của   B­D­ glucuronidase trong E. coli, các chất nền chromogenic sau  đây được sử  dụng: (Brenner   và   cộng   sự,   1993)   indoxyl­B­D­Glucuronide   (IBDG),   các  phenolphthalein­mono­B­D­glucuronide   phức   tạp   (Butle   và   SBS,   1989)   và   5­ bromo­4­chloro­3­indolyl­B­D­glucuronide (X­Glu) (Watkins et al, 1988).Thường   xuyên   nhất,   các   chất   nền   fluorogenic   4   methylumbelliferyl­B­D­glucuronide   (MUGlu) đã được sử dụng (Dahlen và Linde, 1973; Feng và Hartman, 1982). Chất  Chromogenic như o­nitrophenyl­B­D­galactopyranoside (ONPG), p­nitrophenyl­B­ D­galactopyranoside   (PNPG),   6­bromo­2­naphtyl­B­D­galactopyranoside   (burger,  1967) và 5­bromo ­4­chloro­3­indolyl­BD­galactopyranoside (X­Gal) (Ley et al.,  1993) đã được sử  dụng để  phát hiện sự  hiện diện của B­D­galactosidase sản   xuất bởi coliforms, cũng như chất  phát quang bề mặt 4 ­methylumbelliferyl­B­D­ galactopyranoside (MUGal). 4.2. Kỹ thuật có/ không có sự hiện diện của vi khuẩn và đếm bằng  các kỹ thuật nhiều ống sử dụng phương pháp enzyme Sự  kết hợp của MUGlu vào lauryl tryptose broth sử  dụng như  một môi  trường nuôi cấy cho quá trình lên men nhiều  ống (MTF) kỹ  thuật lần đầu tiên   được đề  xuất để  phát hiện nhanh chóng và xác nhận ngay lập tức E. coli trong   thực   phẩm   và   mẫu   nước   (Feng   và   Hartman,   1982).   Sự   hiện   diện   của   methylumbelliferone do sự thủy phân của MUGlu (mẫu dương tính) đã được phát  hiện bởi sự  tiếp xúc với ánh sáng tia cực tím sóng dài và trực quan của sự  phát  huỳnh quang màu xanh­trắng. Một số tác giả đã sử dụng spectrofluorometer hoặc  một quang phổ  (Park et al, 1995.) (Standridge et al, 1992; Apte et al, 1995)  để  giảm ngưỡng phát hiện huỳnh quang và do đó làm giảm thời gian ủ bệnh. Dựa vào tính chất enzyme của vi khuẩn, một phương pháp xác định chất  nền được phát triển để  khắc phục một số  hạn chế  của MTF và kỹ  thuật MF.   Không giống như  các phương pháp này, trong đó loại bỏ  sự  phát triển của vi  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 17
  18. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm khuẩn khôngphải   coliform với hóa chất  ức chế, công nghệ  bề  mặt được xác   định dựa trên nguyên tắc rằng chỉ có các vi khuẩn mục tiêu (TC và E. coli) được  cung cấp và không được cung cấp chất nền cho các vi khuẩn khác. Một bề mặt   được định nghĩa được sử  dụng như  một nguồn dinh dưỡng quan trọng đối với   các vi khuẩn mục tiêu. Trong quá trình sử  dụng chất nền, một nhiễm sắc hoặc   một fluorochrome được phát triển từ  bề  mặt, cho thấy sự  hiện diện của các vi   sinh vật mục tiêu. Edberg và Edberg (1988) đề xuất sử dụng công nghệ bề mặt kết hợp với   chất nền ONPG cho các enzyme  b­galactosidase có mặt trong tất cả các vi khuẩn   và MUGlu chất nền cho việc phát hiện cụ thể của E. coli. Phương pháp xác định  chất nền cơ bản đã được thành lập như  là một kiểm tra sự  hiện diện, sự  vắng   mặt.Các   ống,   cái   mà   sao   khi   thêm   mẫu   vẫn   không   màu.Ngoài   ra,   được   ủ   ở  35oC.Bất kỳ màu vàng trong ống nghiệm (chỉ ra quá trình thủy phân của ONPG)   được coi là dương tính đối với TC. Bất kỳ ống vàng được tiếp xúc với ánh sáng   tia cực tím bước sóng dài, và huỳnh quang màu xanh­trắng thể hiện sự hiện diện   của vi khuẩn E. coli. Không có thử nghiệm xác nhận bổ sung cần phải được thực   hiện. Thí nghiệm đầu tiên (Edberg và Edberg, 1988) chứng minh rằng kiểm tra   các chủng môi trường của TC và E. coli cho thấy độ  nhạy tương đương với các  phương pháp cổ  điển (lên đến 1 CFU / 100 ml) với đặc trưng có khả  năng lớn   hơn. Dữ liệu cũng xác nhận khả năng phát hiện vi khuẩn bị thương với thời gian  đáp  ứng tối đa 24 giờ. Rice et al. (1990, 1991) sử  dụng nhiều chủng tinh khiết   của vi khuẩn E. coli để  xác định hiệu quả  của công nghệ  phát hiện chất nền  được  định nghĩa với B­D­glucuronidase và  cho thấy kết quả  tích cực (95,5%  chủng B­D­glucuronidase dương tính trong 24 giờ  và 99,5% dương tính sau 28   giờ ủ). Không có E. coli phân lập dương (Rice et al., 1990). Một số xét nghiệm thương mại sau đó được phát triển dựa trên công nghệ  bề  mặt được xác định: Colilert (IDEXX phòng thí nghiệm, Portland, ME, Mỹ),   GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 18
  19. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm Colisure (công ty Millipore, Bedford, MA, USA), ColiQuick (Hach, Loveland, CO,  USA). Hầu hết trong số này là có sẵn cho một phản  ứng sự hiện diện/sự vắng   mặt và đếm bằng kỹ  thuật nhiều  ống.Sử  dụng rộng rãi nhất trong số  đó là thử  nghiệm Colilert, trong đó sử dụng các kỹ thuật bề mặt được chỉ rõ tính chất với   ONPG  và  MUGlu.Rất nhiều  và  rất  rộng  rãi  so  sánh  giữa   những  thử   nghiệm  thương mại và MTF cổ điển và phương pháp tiếp cận MF đã được thực hiện để  liệt   kê   TC   và   E.   coli   trong   các   loại   nước   (Edberg   và   cộng   sự,   1988,   1989,   1990.Clark và cộng sự, 1991. Olson và cộng sự  năm 1991, McCarty và cộng sự,  1992;McFeters et al, 1993;. Palmer và cộng sự, 1993; Clark và ElShaarawi năm  1993; Colquhuon et al, 1995; Fricker và Fricker, 1996). Kết luận chính của các  nghiên cứu này là những thử  nghiệm có hiệu quả  để  phát hiện các vi khuẩn từ  nhiều nguồn nước khác nhau, thường là nhạy cảm như là cách tiếp cận MTF để  phát hiện vi khuẩn E. coli và đôi khi nhạy cảm hơn để  phát hiện các TC. Gần   đây, QuantiTray (QT) (IDEXX), mà là một phiên bản mở rộng của MPN kiểm tra  Colilert (một phiên bản MPN với một số giới hạn các ống cũng đã được thương   mại hóa  ở  giai đoạn đầu), được so sánh với các phương pháp MF, đặc biệt là  mẫu nước uống,  bởi Fricker et al. (1997),  De Roubin et al.  (1997) và Eckner   (1998). Tất cả họ đều kết luận không có sự  khác biệt đáng kể  cho việc đếm E.  coli giữa các phương pháp QT và MF, trong khi khả  năng phục hồi của TC lớn   hơn với kỹ thuật QT hơn so với phương pháp MF. McFeters et al. (1997a, b) tham   khảo các tiêu chuẩn so sánh với các phương pháp thử  nghiệm Colisure để  phát  hiện vi khuẩn chịu clo: với Colisure, thu hồi TC và E. coli bị tổn thương bởi clo   được cải thiện hơn các phương pháp tiêu chuẩn, kết quả là một ước tính thực tế  hơn vềchỉ số vi khuẩn trong nguồn cung cấp nước công cộng. Trong kết luận, kiểm tra dựa trên công nghệ  bề  mặt được xác định bằng  cách sử dụng chất chromogenic và fluorogenic được áp dụng cho việc phát hiện   và định lượng Coliform và E. coli trong nước uống. Các xét nghiệm này dễ  sử  dụng và cung cấp cho một  ước tính nhanh hơn và thực tế  hơn (đặc biệt là sự  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 19
  20. Phân Tích Vi Sinh Thực Phẩm hiện diện của Clo dư) các chỉ số ô nhiễm vi khuẩn trong nước hơn so với trường   hợp không có sự hiện diện cổ điển hay MTF. Những phương pháp này có thể tốn  kém hơn so với phương pháp cổ điển khi sau này không cần các bước xác nhận   bổ  sung. Khi bước xác nhận được yêu cầu, các chi phí phát sinh trong cả  hai   phương pháp là tương đương. Trong mọi trường hợp, phương pháp enzyme đòi   hỏi nhân lực ít hơn và do đó chi phí của họ về giá trị thương mại thấp hơn. 4.3. MF kỹ thuật liên hợp với phát hiện enzyme của vi khuẩn Dahlen và Linde (1973) đánh giá sự  kết hợp của MUGlu vào môi trường  thạch  để   phát  hiện   sự   hiện  diện  của   hoạt  động  B­D­glucuronidase   (E.   coli).  Brenner et al. (1993)  đã phát triển môi trường thạch MI, có chứa các MUGal  fluorogenic và IBDG chromogenic, đồng thời phát hiện TC và E. coli trong nước.  Phương pháp này đã được chứng minh là nhạy cảm, chọn lọc, cụ  thể  và nhanh  chóng (kết quả  có sẵn trong 24 h) (Brenner và cộng sự, 1996.). Gaudet et al.   (1996) và Ciebin et al. (1995) liên quan MUGlu hoặc X­Glu với cổ điển m­TEC   và thạch lauryl tryptose và so sánh với các phương pháp hiện đại thay đổi với các  phương   pháp   cổ   điển.   Các   môi   trường   hiện   đại   thay   đổi   môi   trường   thạch   thường cho thấy sự phục hồi cao hơn hoặc tương tự như của TC và E. coli. Các môi trường nuôi cấy thương mại đang có sẵn để phát hiện các TC và   E. coli. Chúng bao gồm các môi trường nuôi cấy môi trường thạch cổ điển được  sử   dụng   cho   E.   coli   và   Coliform   với   các   chất   nền   chromogenic   và   /   hoặc  fluorogenic   cụ   thể   để   phát   hiện   các   B­D­glucuronidase   và   /   hoặc   B­D­ galactosidase: thạch Chromocult Coliform (Merck, Darmstadt, Đức), thạch Fluo­ rocult E. coli trực tiếp (Merck) và m­ColiBlue24 broth (Hach) (Grant, 1997). Việc sử  dụng các phương pháp đếm đĩa, bao gồm cả  chất chromogenic  và / hoặc fluorogenic, cho phép nhiều hơn, nhanh chóng, dễ dàng hơn và các ước   tính chính xác hơn về  coliform và E.coli rất nhiều trong nước uống hơn so với   việc sử dụng các phương pháp cổ điển. Chúng có thể được sử  dụng bởi bất kỳ  GVGD: Phan Thị Kim Liên Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2