Báo cáo " Bình luận một số nội dung mới trong Luật trọng tài thương mại năm 2010 "
lượt xem 20
download
Tổng quan quá trình phát triển của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam a. Sự ra đời của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài kinh tế Tại Việt Nam, mô hình trọng tài thương mại (với bản chất là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên tranh chấp lựa chọn) bắt đầu hình thành vào những năm 1960, với sự ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương(1) và Hội đồng trọng tài hàng hải.(2) Năm 1993, trên cơ sở hợp nhất hai hội đồng trọng tài...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo " Bình luận một số nội dung mới trong Luật trọng tài thương mại năm 2010 "
- nghiªn cøu - trao ®æi TS. NguyÔn ThÞ Dung * Lª H-¬ng Giang ** 1. Tổng quan quá trình phát triển của tâm trọng tài kinh tế là các tranh chấp kinh pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam tế, không phân biệt quốc tịch của các bên a. Sự ra đời của Trung tâm trọng tài quốc tranh chấp, bao gồm tranh chấp kinh tế phát tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài kinh tế sinh từ quan hệ kinh doanh trong nước và Tại Việt Nam, mô hình trọng tài thương tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài. Để mại (với bản chất là hình thức giải quyết đảm bảo sự thống nhất về thẩm quyền, đảm tranh chấp do các bên tranh chấp lựa chọn) bảo cho trung tâm trọng tài quốc tế Việt bắt đầu hình thành vào những năm 1960, với Nam và các trung tâm trọng tài kinh tế cùng sự ra đời của Hội đồng trọng tài ngoại thương(1) được giải quyết các tranh chấp kinh tế, và Hội đồng trọng tài hàng hải.(2) Năm 1993, không phân biệt quốc tịch của các bên tranh trên cơ sở hợp nhất hai hội đồng trọng tài này, chấp, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam được số 114/TTg ngày 16/2/1996 đã quy định mở thành lập theo Quyết định của Thủ tướng rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Chính phủ số 204/TTg ngày 28/4/1993. Thẩm Trung tâm trọng tài quốc tế, theo đó, trung quyền của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt tâm này được bổ sung thẩm quyền giải quyết Nam khi mới thành lập là giải quyết các tranh các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức, cá chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài. nhân trong nước. Để đa dạng hoá hình thức giải quyết các Với các quy định về địa vị pháp lí của tổ chấp kinh tế trong nước, năm 1994 Chính chức trọng tài, trọng tài viên, thẩm quyền phủ đã ban hành Nghị định số 116/CP ngày giải quyết, thoả thuận trọng tài và thủ tục tố 05/9/1994 quy định về tổ chức và hoạt động tụng trọng tài, các văn bản pháp luật trên đây của trọng tài kinh tế, trong đó xác định trung đóng vai trò là nền tảng pháp lí ban đầu của tâm trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội-nghề hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế bằng nghiệp. Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội, trọng tài - hình thức giải quyết tranh chấp tự Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long, nguyện, tồn tại bên cạnh hình thức giải quyết Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn, Trung tranh chấp bằng toà án. Tuy nhiên, hạn chế tâm trọng tài kinh tế Cần Thơ và Trung tâm lớn nhất của các văn bản quy phạm pháp luật trọng tài kinh tế Bắc Giang là những trung về trọng tài ở giai đoạn này là thiếu cơ chế tâm trọng tài thành lập và hoạt động theo * Giảng viên chính Khoa pháp luật kinh tế loại hình này. Nghị định số 116/CP quy định ** Giảng viên Khoa pháp luật kinh tế thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trung Trường Đại học Luật Hà Nội t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011 9
- nghiªn cøu - trao ®æi đảm bảo thực thi hiệu lực của phán quyết là trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội), Trung trọng tài. Quy định: “Trong trường hợp quyết tâm trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí định trọng tài không được một bên chấp Minh (tiền thân là Trung tâm trọng tài kinh hành thì bên kia có quyền yêu cầu toà án tế Sài Gòn), Trung tâm trọng tài thương mại nhân dân có thẩm quyền xét xử theo thủ tục Cần Thơ (trước đây là Trung tâm trọng tài giải quyết các vụ án kinh tế”(3) đã làm cho kinh tế Cần Thơ), Trung tâm trọng tài quốc hầu hết ý định sử dụng dịch vụ trọng tài của tế Việt Nam bên cạnh Phòng thương mại và thương nhân phải dừng lại. công nghiệp Việt Nam, Trung tâm trọng tài b. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thương mại Á châu (tiền thân là trung tâm Pháp lệnh trọng tài thương mại năm trọng tài kinh tế Thăng Long), Trung tâm 2003 (gọi tắt là Pháp lệnh TTTM) là dấu trọng tài quốc tế châu Á - Thái Bình Dương, mốc quan trọng trong việc hoàn thiện dần Trung tâm trọng tài thương mại Viễn Đông thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (thành lập năm 2006). Sự phát triển cả về số thương mại, đã khắc phục nhiều thiếu sót, lượng lẫn chất lượng của các trung tâm trọng bất cập từ những văn bản trước đây. Thành tài và đội ngũ trọng tài viên chứng minh Pháp công của việc ban hành Pháp lệnh TTTM lệnh TTTM đã và đang đi vào cuộc sống. được thể hiện ở các điểm nổi bật sau đây: Mặc dù vậy, sau nhiều năm thực hiện, - Nhất thể hoá pháp luật điều chỉnh hoạt Pháp lệnh TTTM bộc lộ nhiều vướng mắc và động trọng tài thương mại; chưa thực hiện được sứ mệnh là công cụ - Đa dạng hoá các loại hình trọng tài pháp lí thúc đẩy phát triển dịch vụ trọng tài bằng việc quy định bổ sung loại hình trọng thương mại ở Việt Nam. Bên cạnh đó, các tài vụ việc với tên gọi là "Hội đồng trọng tài cam kết quốc tế về thương mại dịch vụ cũng do các bên thoả thuận thành lập"; đòi hỏi pháp luật trọng tài thương mại ở Việt - Quy định sự hỗ trợ của Nhà nước đối Nam cần tiếp tục được hoàn thiện. Luật về với hoạt động trọng tài thông qua cơ quan trọng tài thương mại năm 2010 được ban toà án và cơ quan thi hành án; hành với mục tiêu khắc phục những bất cập - Quy tắc tố tụng khá cụ thể và cơ bản đang tồn tại và tiếp cận hơn nữa với chuẩn phù hợp với thông lệ quốc tế; mực quốc tế về trọng tài thương mại, phù - Quy định cơ chế đảm bảo thi hành phán hợp hơn với các cam kết quốc tế về mở cửa quyết của trọng tài thương mại, đó là các bên thị trường dịch vụ của Việt Nam. có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức 2. Một số nội dung mới trong Luật cưỡng chế thi hành phán quyết trọng tài; TTTM năm 2010 Thực thi Pháp lệnh TTTM, nhiều trung Ngày 17/06/2010 Luật TTTM số 54/QH tâm trọng tài kinh tế đã tiến hành đổi tên (Luật TTTM) đã được Quốc hội khoá XII, kì (thành trọng tài thương mại) và một số trung họp thứ 7 thông qua, chính thức có hiệu lực tâm trọng tài đã được thành lập mới: Trung vào ngày 01/01/2011. So với Pháp lệnh tâm trọng tài thương mại Hà Nội (tiền thân TTTM, Luật TTTM có khá nhiều thay đổi 10 t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011
- nghiªn cøu - trao ®æi quan trọng theo hướng "cởi mở" hơn, tạo thương mại vẫn sẽ gây tranh luận ở hai điểm: điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động trọng Một là tranh chấp phát sinh từ "hoạt động tài thương mại tại Việt Nam. thương mại" được hiểu theo quy định nào? a. Luật TTTM mở rộng thẩm quyền giải Nhiều ý kiến tiếp nhận khái niệm "hoạt động quyết tranh chấp của trọng tài thương mại thương mại" theo quy định của Luật thương Pháp lệnh TTTM quy định thẩm quyền mại năm 2005,(4) bao gồm các hoạt động của trọng tài thương mại được xác định khi có mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, đầy đủ ba điều kiện là: Tranh chấp trong lĩnh xúc tiến thương mại và các hoạt động khác vực thương mại, các chủ thể của tranh chấp có mục đích sinh lợi. Cách hiểu này rất hợp phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh và các lí song vướng mắc là ở chỗ khái niệm "hoạt bên phải có thoả thuận trọng tài có hiệu lực. động thương mại" trên đây chỉ được hiểu Theo quy định này, nhiều tranh chấp phát sinh trong khuôn khổ của Luật thương mại năm từ hoạt động thương mại nhưng chỉ có một 2005 (Phần giải thích từ ngữ, các luật đều bên là thương nhân hay tranh chấp phát sinh ghi rõ: Trong luật này, các thuật ngữ sau đây từ quan hệ đầu tư góp vốn của các tổ chức, cá được hiểu như sau...); Hai là "tranh chấp nhân không có đăng kí kinh doanh sẽ không khác" được Luật quy định giải quyết theo thuộc phạm vi thẩm quyền của trọng tài thủ tục trọng tài rất khó xác định trong pháp thương mại. Luật TTTM đã quy định mở rộng luật hiện hành của Việt Nam. Các tranh chấp phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương mại. công ti có thuộc thẩm quyền của trọng tài Theo Điều 2 Luật TTTM, trọng tài thương thương mại không, thuộc loại việc thứ nhất mại được giải quyết các loại việc sau: hay loại việc thứ ba? Theo quy định tại Điều - Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ 2 Luật TTTM thì các thành viên/cổ đông này hoạt động thương mại; không phải thương nhân, tuy họ cũng tham - Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong gia vào công việc đầu tư, quản lí công ti đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; nhưng bản thân họ không có đăng kí kinh - Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp doanh. Hoạt động của họ có được coi là hoạt luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. động thương mại hay không? Nếu hiểu hoạt Như vậy, có thể nhận thấy tranh chấp động thương mại theo Luật thương mại năm thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của 2005 thì việc góp vốn, mua cổ phần là hoạt trọng tài thương mại là tranh chấp phát sinh động đầu tư, nhằm mục đích sinh lời. Thiết từ hoạt động thương mại mà chủ thể của nghĩ, Luật TTTM cần có văn bản hướng dẫn tranh chấp là thương nhân hoặc có một bên về Điều 2 của Luật để có cách hiểu rõ ràng là thương nhân hoặc các tranh chấp khác mà và chi tiết hơn về thẩm quyền giải quyết pháp luật cho phép các bên được giải quyết tranh chấp của trọng tài. theo thủ tục trọng tài. Phạm vi này rộng hơn b. Luật TTTM quy định rõ về các hình so với quy định trước đây trong Pháp lệnh thức trọng tài và mở rộng phạm vi lĩnh vực TTTM. Tuy nhiên, với quy định trên đây, hoạt động của tổ chức trọng tài việc xác định thẩm quyền của trọng tài Luật TTTM sử dụng thuật ngữ "trọng tài t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011 11
- nghiªn cøu - trao ®æi quy chế" và "trọng tài vụ việc" để chỉ hai thuận trọng tài chỉ là điều kiện cần thiết cho hình thức trọng tài thương mại được thừa phép xác định vụ việc có hay không thuộc nhận ở Việt Nam thay cho hai khái niệm cũ thẩm quyền giải quyết của trọng tài mà thôi. là "trung tâm trọng tài" và "hội đồng trọng Ngoài ra, Luật TTTM cũng quy định rõ việc tài do các bên thoả thuận thành lập". Tên gọi thừa kế, tiếp nhận nghĩa vụ của các cá nhân kí mới này thể hiện rõ và đúng bản chất của hai kết thoả thuận trọng tài mà chết hoặc mất hình thức trọng tài thương mại mà Việt Nam năng lực hành vi dân sự; tổ chức chấm dứt và nhiều nước trên thế giới thừa nhận. hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp Về phạm vi, lĩnh vực hoạt động của nhập, chia tách, chuyển đổi. Các sự kiện pháp Trung tâm trọng tài thương mại, Pháp lệnh lí này khi xảy ra, không dẫn đến thoả thuận TTTM chỉ quy định về trung tâm trọng tài trọng tài vô hiệu mà vẫn có hiệu lực thực hiện được "hoạt động trọng tài" và "cung cấp các đối với tổ chức, cá nhân kế thừa nghĩa vụ. dịch vụ hành chính, văn phòng và các dịch Nội dung này được quy định khá tương đồng vụ khác cho việc giải quyết tranh chấp". trong luật của nhiều nước, ví dụ, Luật trọng Luật TTTM quy định ngoài các hoạt động tài của Singapore quy định rằng thoả thuận trên đây, trung tâm trọng tài được cung cấp trọng tài sẽ không bị huỷ khi một bên chết mà dịch vụ hoà giải và các phương thức giải sẽ tiếp tục có hiệu lực đối với người đại diện quyết tranh chấp thương mại khác theo quy hợp pháp của bên đó, thẩm quyền của trọng định của pháp luật. Quy định này có ý nghĩa tài đã được các bên chỉ định sẽ không bị huỷ quan trọng trong việc khuyến khích phát bỏ bởi việc qua đời của bất kì bên nào.(6) triển các hình thức giải quyết tranh chấp Liên quan đến thoả thuận trọng tài, lần ngoài toà án ở Việt Nam, bao gồm cả trọng đầu tiên pháp luật về trọng tài thương mại tài, thương lượng, hoà giải. Bên cạnh đó, Việt Nam đề cập việc lựa chọn phương thức "hoạt động trọng tài" của trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng. cũng được gọi đúng bản chất của nó, đó là Đối với các hợp đồng cung cấp hàng hoá, hoạt động "cung cấp dịch vụ trọng tài".(5) dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn với người c. Luật TTTM quy định rõ về điều kiện tiêu dùng có điều khoản về giải quyết tranh giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và chấp bằng phương thức trọng tài thương nguyên tắc giải quyết tranh chấp theo thủ mại; khi tranh chấp xảy ra, điều khoản thoả tục trọng tài thuận trọng tài đó chỉ có hiệu lực khi được Điều 5 Luật TTTM quy định thoả thuận người tiêu dùng chấp thuận. Một số nước trọng tài là điều kiện giải quyết tranh chấp khác có đề cập trường hợp này, tuy nhiên bằng trọng tài, khác với quy định trước đây, cách quy định cũng khác: Ví dụ luật của coi thoả thuận trọng tài là nguyên tắc giải Anh quy định thoả thuận trọng tài kí kết với quyết tranh chấp. Quy định mới này phù hợp người tiêu dùng phải phù hợp với quy định với luật trọng tài của nhiều nước trên thế giới, về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.(7) Luật bởi về bản chất, việc có hay không có thoả của Đức quy định thoả thuận trọng tài với 12 t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011
- nghiªn cøu - trao ®æi người tiêu dùng phải được làm thành văn các bên có thoả thuận khác và nguyên tắc bản riêng.(8) Như vậy, quy định của Việt phán quyết trọng tài là chung thẩm (Điều 4 Nam cùng xu thế với các quốc gia ở chỗ bảo Luật TTTM). Tố tụng trọng tài theo các quy vệ quyền lợi của người tiêu dùng bằng cách định trước đây cũng áp dụng các nguyên tắc trao cho họ lựa chọn phương thức giải quyết này song Điều 3 Pháp lệnh TTTM bỏ qua khi ngay cả khi thoả thuận trọng tài có hiệu lực. quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp Bởi lẽ, người tiêu dùng được coi là phía yếu bằng trọng tài, dẫn đến hiểu biết thiếu đầy đủ thế hơn so với phía nhà cung cấp dịch vụ, về ưu điểm đảm bảo bí mật, uy tín kinh doanh, hàng hoá; hơn nữa, khi mua bán hoặc sử dụng khả năng giải quyết vụ việc nhanh chóng, kịp dịch vụ, họ có thể không chú ý nhiều đến các thời, dứt điểm của thủ tục trọng tài. điều khoản về tranh chấp thương mại, trình d. Luật TTTM loại bỏ bớt các trường độ pháp lí của họ cũng còn hạn chế. Tuy hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu được coi là nhiên, điều luật quy định như vậy cũng có không cần thiết phần "thiệt thòi" cho phía nhà cung cấp hàng Thoả thuận trọng tài là văn bản quan hoá, dịch vụ khi người tiêu dùng không chấp trọng trong thủ tục tố tụng trọng tài, là điều thuận giải quyết bằng con đường trọng tài và kiện cần thiết để vụ tranh chấp được giải kiện ra toà án. Điều này đồng nghĩa với việc quyết bằng trọng tài. Luật TTTM đã bỏ một nhà cung cấp không thể tận dụng những điểm trường hợp thoả thuận trọng tài bị coi là vô ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp hiệu, đó là trường hợp thoả thuận trọng tài bằng trọng tài, sẽ tốn kém thời gian, chi phí, "không quy định hoặc quy định không rõ đối thậm chí là uy tín của doanh nghiệp… Mặt tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm khác, do quy định mới chưa đủ chi tiết, không quyền giải quyết mà sau đó các bên không loại trừ trường hợp chính người tiêu dùng đã có thoả thuận bổ sung" (9) đồng thời quy định đồng ý lựa chọn phương thức giải quyết tranh hướng giải quyết khi xuất hiện thoả thuận chấp trọng tài thương mại nhưng đến khi trọng tài thuộc diện này. Điều 43 Luật tranh chấp xảy ra họ lại tận dụng điều khoản TTTM đã xử lí thoả thuận trọng tài không này để phản đối thoả thuận ban đầu, trường thể thực hiện được như sau: "Trường hợp hợp này sẽ gây thiệt thòi cho phía doanh các bên đã có thoả thuận trọng tài nhưng nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Chính kẽ không chỉ rõ hình thức trọng tài hoặc không hở này có thể sẽ dẫn đến việc một số tổ thể xác định được tổ chức trọng tài cụ thể thì chức, cá nhân lợi dụng để thực hiện hành vi khi có tranh chấp, các bên phải thoả thuận cạnh tranh không lành mạnh. lại về hình thức trọng tài hoặc tổ chức trọng Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng tài cụ thể để giải quyết tranh chấp. Nếu trọng tài được bổ sung với hai nguyên tắc không thoả thuận được thì việc lựa chọn được coi là đặc trưng của tố tụng trọng tài, đó hình thức, tổ chức trọng tài để giải quyết là: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tranh chấp được thực hiện theo yêu cầu của tiến hành không công khai, trừ trường hợp nguyên đơn". Bên cạnh đó, nếu các bên đã t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011 13
- nghiªn cøu - trao ®æi có thoả thuận giải quyết tranh chấp tại một e. Luật TTTM mở rộng thẩm quyền của trung tâm trọng tài cụ thể nhưng trung tâm hội đồng trọng tài trong quá trình tố tụng trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà Hội đồng trọng tài đóng vai trò quan không có tổ chức trọng tài kế thừa thì các trọng trong việc giải quyết tranh chấp giữa bên có thể thoả thuận lựa chọn trung tâm các bên đương sự. Khi các đương sự tìm đến trọng tài khác; nếu không thoả thuận được phương thức giải quyết tranh chấp bằng thì có quyền khởi kiện ra toà án để giải trọng tài thương mại, tức là họ đã đặt niềm quyết. Trường hợp các bên đã có thoả thuận tin, sự kì vọng vụ tranh chấp sẽ được giải cụ thể về việc lựa chọn trọng tài viên trọng quyết nhanh chóng và “êm thấm”. Thẩm tài vụ việc nhưng tại thời điểm xảy ra tranh quyền của hội đồng trọng tài trong quá trình chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại tố tụng được quy định tại Pháp lệnh TTTM khách quan mà trọng tài viên không thể tham tương đối hẹp và kém thuận lợi cho hội đồng gia giải quyết tranh chấp thì các bên có thể trọng tài trong quá trình giải quyết tranh thoả thuận lựa chọn trọng tài viên khác để chấp. Tuy nhiên, thẩm quyền của hội đồng thay thế; nếu không thoả thuận được thì có trọng tài đã được Luật TTTM mở rộng và rõ quyền khởi kiện ra toà án để giải quyết. ràng hơn. Cụ thể là: Việc giảm bớt các trường hợp thoả thuận - Trước khi phiên họp giải quyết tranh trọng tài vô hiệu, thay bằng giải pháp tháo chấp được diễn ra, hội đồng trọng tài phải gỡ có thể thực hiện được có ý nghĩa mở rộng thực hiện việc nghiên cứu vụ việc, tiến hành phạm vi thẩm quyền của trọng tài thương xác minh, thu thập chứng cứ… Ngoài quyền mại, nâng cao khả năng thực thi thoả thuận yêu cầu các bên cung cấp thông tin liên quan trọng tài trong thực tế. Tuy nhiên, Luật đến vụ tranh chấp, hội đồng trọng tài có TTTM còn chưa tính đến các trường hợp quyền trưng cầu giám định, định giá tài sản khó xác định thẩm quyền khác xảy ra khá trong vụ tranh chấp, có quyền tham vấn ý nhiều trong thực tế như: Trường hợp các bên kiến các chuyên gia, có quyền triệu tập thoả thuận trung tâm trọng tài cụ thể nhưng người làm chứng hoặc đề nghị toà án ra lĩnh vực tranh chấp đó không thuộc phạm vi quyết định triệu tập người làm chứng... giải quyết quy định trong quy chế của trung - Hội đồng trọng tài có thẩm quyền áp tâm trọng tài đó; thoả thuận trọng tài chỉ dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trước định một trung tâm trọng tài nhưng lại chọn đây, chỉ có toà án cấp tỉnh nơi hội đồng quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài khác trọng tài thụ lí vụ tranh chấp mới có quyền mà trung tâm trọng tài được chỉ định từ chối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quy áp dụng giải quyết; các bên chọn cách thức định này thực sự không đáp ứng được tính giải quyết bằng cả trọng tài lẫn toà án hoặc chất "khẩn cấp tạm thời" do toà án khi tiếp chỉ rõ nhiều trung tâm trọng tài và cách thức nhận yêu cầu còn phải thực hiện một số thủ giải quyết trọng tài trong cùng một thoả tục tố tụng nhất định. Các biện pháp khẩn thuận trọng tài… cấp tạm thời do hội đồng trọng tài quyết định 14 t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011
- nghiªn cøu - trao ®æi áp dụng được thực hiện theo quy định của Quy định tương tự được ghi nhận trong luật pháp luật về thi hành án dân sự. Bên cạnh pháp quốc tế, ví dụ như Quy tắc tố tụng đó, hội đồng trọng tài cũng có thẩm quyền trọng tài của Phòng thương mại quốc tế thay đổi, bổ sung và huỷ bỏ biện pháp khẩn (International Chamber of Commerce - cấp tạm thời vào bất kì thời điểm nào trong ICC), Luật trọng tài Thuỵ Sỹ, Luật trọng tài quá trình giải quyết tranh chấp. Quy định của Anh năm 1996… mới này là sự tiếp thu những quy định mẫu h. Luật TTTM đã nội luật hoá các cam của UNCITRAL được thông qua năm 2006. kết quốc tế về dịch vụ trọng tài g. Luật TTTM đã phân biệt rõ quyết định Trong Hiệp định về thương mại dịch vụ của WTO, giải quyết tranh chấp bằng trọng trọng tài và phán quyết trọng tài tài và hoà giải được coi là một trong những Pháp lệnh TTTM quy định “quyết định loại hình dịch vụ liên quan đến tư vấn quản trọng tài” là quyết định cuối cùng của hội lí,(11) quy định trong Hệ thống phân loại sản đồng trọng tài sau khi giải quyết vụ tranh phẩm trung tâm tạm thời (Provisional Central chấp. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết Product Classification - viết tắt là PCPC) về tranh chấp, hội đồng trọng tài được quyền ra ngành dịch vụ của Liên hợp quốc.(12) Theo nhiều quyết định khác nhau như quyết định đó, mã 86602 về dịch vụ trọng tài và hoà giải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết là “các dịch vụ hỗ trợ thông qua dịch vụ định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định trọng tài và hoà giải để giải quyết tranh chấp chỉ định, thay đổi trọng tài viên... Phù hợp giữa ban quản lí và người lao động, giữa các với thực tiễn thẩm quyền của hội đồng trọng doanh nghiệp và cá nhân. Ngoại trừ dịch vụ tài trong quá trình tố tụng và phù hợp với thay mặt một trong các bên liên quan để đại thông lệ quốc tế(10) Điều 9, Điều 10 Luật diện trong cuộc tranh chấp và dịch vụ tư vấn TTTM đã quy định rõ: Quyết định trọng tài trong lĩnh vực quan hệ lao động về thông tin là quyết định của hội đồng trọng tài trong tư vấn pháp luật khác, dịch vụ do các tổ chức quá trình giải quyết tranh chấp và Phán doanh nghiệp và người thuê lao động, công quyết trọng tài là quyết định của hội đồng đoàn cung cấp”.(13) Tuy nhiên, Biểu cam kết trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ dịch vụ của Việt Nam quy định rõ Việt Nam tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. chỉ ghi nhận dịch vụ trọng tài và hoà giải Ngoài ra, Luật TTTM cũng quy định rõ gồm các tranh chấp thương mại phát sinh về nguyên tắc quyết định trọng tài theo đa giữa các thương nhân mà thôi.(14) Theo đó, số. Trừ trường hợp hội đồng trọng tài có Việt Nam cam kết không hạn chế đối với duy nhất một trọng tài viên, hội đồng trọng phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới tài không phải lúc nào cũng đạt được sự và tiêu dùng ở nước ngoài. Tức là các tổ chức thống nhất ý kiến. Luật TTTM quy định cụ trọng tài nước ngoài có thể cung cấp dịch vụ thể hội đồng trọng tài phán quyết theo đa hoạt động trọng tài đối với đương sự tại Việt số, khi biểu quyết không đạt được đa số thì Nam mà không cần di chuyển đến lãnh thổ theo ý kiến của chủ tịch hội đồng trọng tài. Việt Nam (ví dụ qua internet, điện thoại…); t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011 15
- nghiªn cøu - trao ®æi hay họ cũng có thể giải quyết tranh chấp giữa bối cảnh hội nhập, Luật TTTM đã cơ bản tạo các đương sự là người Việt Nam khi các ra hành lang pháp lí bình đẳng giữa các tổ đương sự này di chuyển sang quốc gia có tổ chức trọng tài trong nước và nước ngoài. chức trọng tài đó. Tuy nhiên, đối với phương Có thể thấy rằng so với Pháp lệnh TTTM, thức hiện diện thương mại, các trung tâm Luật TTTM đã có những thay đổi đáng kể, trọng tài và hoà giải chỉ được phép thành lập đáp ứng tốt hơn nhu cầu cung cấp và sử dụng chi nhánh sau 3 năm kể từ khi gia nhập; dịch vụ trọng tài ở Việt Nam. Mặc dù vậy, không hạn chế đối xử quốc gia, ngoại trừ thực trạng pháp luật trọng tài thương mại đã trường hợp trưởng chi nhánh phải là người và đang tiếp tục đặt ra những nội dung cần thường trú tại Việt Nam.(15) được tiếp tục làm rõ nhằm đảm bảo thực thi Cụ thể hoá những cam kết này, Luật pháp luật thống nhất và hiệu quả./. TTTM đã dành một chương quy định về tổ chức và hoạt động của trọng tài nước ngoài (1).Xem: Nghị định của Hội đồng Chính phủ số 59/CP ngày 30/4/1963 về việc thành lập Hội đồng tại Việt Nam. Đây là chương mới hoàn toàn trọng tài ngoại thương. so với Pháp lệnh TTTM nhằm thực hiện cam (2).Xem: Nghị định của Hội đồng Chính phủ số kết mở cửa thị trường dịch vụ pháp lí, dịch 153/CP ngày 5/10/1964 về việc thành lập Hội đồng vụ tư vấn quản lí theo biểu cam kết dịch vụ trọng tài hàng hải. của Việt Nam khi gia nhập WTO. Luật (3).Xem: Điều 31 Nghị định số 116/CP. (4).Xem: Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại. TTTM quy định: Tổ chức trọng tài nước (5).Xem: Điều 28 Luật TTTM. ngoài được phép thành lập và hoạt động tại (6).Xem: Điều 5 Luật trọng tài Singapore. Việt Nam dưới hình thức chi nhánh và văn (7).Xem: Điều 89 Luật trọng tài của Anh năm 1996. phòng đại diện - là các đơn vị phụ thuộc của (8).Xem: Điều 1031(5) Luật trọng tài của Đức. tổ chức trọng tài nước ngoài. (9).Xem: Khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh TTTM. (10).Xem: Luật mẫu của UNCITRAL; Điều 33 Luật Chi nhánh của tổ chức trọng tài nước trọng tài Trung Quốc năm 2002; Chương VIII Luật ngoài tại Việt Nam có phạm vi hoạt động trọng tài Singapore… tương tự tổ chức trọng tài thương mại của (11). PCPC 2.0 đã xếp dịch vụ trọng tài và hoà giải Việt Nam, đó là: Cung cấp dịch vụ trọng tài, (mã ngành 82191) thuộc loại hình dịch vụ pháp lí hoà giải và các phương thức giải quyết tranh 821. Tuyên bố chung về dịch vụ pháp lí năm 2005 chấp thương mại khác theo quy định của pháp của WTO cũng phân loại dịch vụ này là một trong những phân ngành của dịch vụ pháp lí. Hiện nay, luật, cung cấp các dịch vụ hành chính, văn pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận trọng tài và hoà phòng và các dịch vụ khác cho việc giải quyết giải là một trong những loại hình dịch vụ pháp lí. Tuy tranh chấp của hội đồng trọng tài nước nhiên, Việt Nam áp dụng theo PCPC prov.861; vì thế, ngoài... Khác với chi nhánh, văn phòng đại ở đây, dịch vụ trọng tài và hoà giải được coi là thuộc diện của tổ chức trọng tài nước ngoài không loại hình dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lí. (12). CPC mã 866. được thực hiện trực tiếp các hoạt động sinh (13). CPC mã 86602. lời, các hoạt động trọng tài tại Việt Nam mà (14). Kí hiệu tại Biểu cam kết dịch vụ: 86602** chỉ được tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội hoạt động (15). Ngành F, phân ngành (d) Biểu cam kết dịch vụ trọng tài tại Việt Nam. Như vậy, phù hợp với của Việt Nam gia nhập WTO. 16 t¹p chÝ luËt häc sè 6/2011
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo tiểu luận: Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi để xây dựng một quán cơm bình dân ở khu vực gần trường ĐHKTCN
14 p | 331 | 86
-
Bài thuyết trình Báo cáo khóa luận tốt nghiệp: Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình giai đoạn 2011-2015
34 p | 477 | 80
-
Báo cáo tốt nghiệp: Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Xí nghiệp xây dựng Binh đoàn 11
66 p | 205 | 57
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Ảnh hưởng của một số nhân tố đến khả năng sinh sản của lợn nái Landrace, Yorkshire & F1(Landrace x Yorkshire) nuôi trong các trang trại tại tỉnh Quảng Bình"
15 p | 230 | 53
-
Báo cáo tiểu luận: An toàn bức xạ trong lò phản ứng hạt nhân
31 p | 251 | 51
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Điều tra tình hình sản xuất và sử dụng giống lúa trên đất phù sa huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình"
11 p | 212 | 48
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ của công ty Sứ Bình Dương
55 p | 261 | 46
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích báo cáo tài chính Công ty cổ phần Nhựa Bình Minh từ năm 2009 – 2013
106 p | 121 | 31
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Hoàn thiện công tác phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thẩm định tín dụng tại ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng - Chi nhánh Bình Định
27 p | 93 | 20
-
Báo cáo tốt nghiệp: Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo tại Ngân hàng TMCP Phương Đông - Chi nhánh Bình Dương
77 p | 38 | 17
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ: Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thẩm định tín dụng tại ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng – Chi nhánh Bình Định
27 p | 77 | 12
-
Báo cáo tiểu luận: Phân tích kích hoạt dụng cụ
34 p | 170 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương
131 p | 28 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hệ thống báo cáo kế toán ngân sách cấp xã, phường - Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
106 p | 26 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các nhân tố tác động đến tính minh bạch của báo cáo tài chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương
154 p | 25 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Về tính ổn định mũ bình phương trung bình của một lớp hệ vi phân ngẫu nhiên có bước nhảy Markov"
5 p | 87 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các yếu tố ảnh hưởng đến trình bày trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Dương
131 p | 19 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công bố thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại tỉnh Bình Phước
105 p | 25 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn