intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo : Các tội phạm về hối lộ từ góc độ luật pháp quốc tế

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

95
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thời gian gần đây, thực trạng đáng lo ngại của hiện tượng hối lộ cũng như những hậu quả của nó đối với đời sống kinh tế-xã hội đã khiến cộng đồng quốc tế quan tâm đến vấn đề phòng ngừa và đấu tranh chống hối lộ. Chính vì vậy, hàng loạt văn bản pháp lí quốc tế và khu vực liên quan đến vấn đề hối lộ đã được ban hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo : Các tội phạm về hối lộ từ góc độ luật pháp quốc tế

  1. nghiªn cøu - trao ®æi Ths. §µo LÖ Thu * hời gian gần đây, thực trạng đáng lo thành viên tội phạm hoá một cách nhanh T ngại của hiện tượng hối lộ cũng như những hậu quả của nó đối với đời sống kinh chóng hành vi hối lộ công chức nước ngoài do hiện tượng này đang ảnh hưởng nghiêm tế-xã hội đã khiến cộng đồng quốc tế quan trọng tới sự cạnh tranh lành mạnh của các tâm đến vấn đề phòng ngừa và đấu tranh giao dịch thương mại quốc tế.(1) Thứ hai, tất chống hối lộ. Chính vì vậy, hàng loạt văn cả các công ước này đều xây dựng những chỉ bản pháp lí quốc tế và khu vực liên quan đến dẫn mang tính chuẩn mực cho các quốc gia vấn đề hối lộ đã được ban hành. Những văn thành viên trong việc tội phạm hoá hành vi bản pháp lí đó đề cập nhiều khía cạnh khác hối lộ cũng như quy định hình phạt đối với nhau của hiện tượng hối lộ. Tuy nhiên, trong tội phạm về hối lộ. Những công ước quốc tế phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập một cũng kêu gọi trách nhiệm của các quốc gia số quan điểm lập pháp về các tội phạm về thành viên trong việc tội phạm hoá hàng loạt hối lộ được thể hiện trong những văn bản hành vi hối lộ như đưa hối lộ, nhận hối lộ, pháp lí quốc tế điển hình và có liên quan trực hối lộ công chức nước ngoài và công chức tiếp. Các điều ước quốc tế được nghiên cứu của các tổ chức quốc tế, hối lộ trong khu vực ở đây bao gồm Công ước của Liên hợp quốc tư. Đây có thể được xem là gợi ý cho các (LHQ) về chống tham nhũng, Công ước của quốc gia thành viên trong việc xác định Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển về những dạng hành vi hối lộ khác nhau gây chống hối lộ công chức nước ngoài trong các nguy hiểm cho các nhà nước cũng như cho giao dịch thương mại quốc tế và Công ước cộng đồng quốc tế nói chung. Tất nhiên, theo luật hình sự của Hội đồng châu Âu về chống các công ước này, những quốc gia thành tham nhũng (từ đây sẽ lần lượt được viết tắt viên không buộc phải quy định từng loại là Công ước của LHQ, Công ước của OECD hành vi hối lộ thành các tội phạm về hối lộ và Công ước của COE). cụ thể, riêng biệt. Điều đó xuất phát từ thực Tuy có sự khác biệt về giới hạn nội dung tế là có những quốc gia đã quy định các hành được quy định, về phạm vi áp dụng và về vi hối lộ này nhưng chỉ quy định chung mức độ chi tiết của quy định, các công ước chung trong một hoặc một số tội danh. Tuy quốc tế nêu trên đều có những vấn đề chung nhiên, việc quy định riêng biệt và cụ thể nhất định liên quan đến tội phạm về hối lộ. từng loại hành vi hối lộ nêu trên được Thứ nhất, các công ước này đều phản ánh sự cần thiết của việc tội phạm hoá các hành vi * Giảng viên Khoa luật hình sự Trường ĐH Luật Hà Nội; hối lộ đối với luật pháp quốc gia. Ví dụ: NCS Chương trình hợp tác đào tạo tiến sĩ luật quốc tế và so sánh giữa Trường Đại học Luật Hà Nội và Công ước của OECD kêu gọi các quốc gia Khoa luật Đại học Tổng hợp Lund - Thụy Điển t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 33
  2. nghiªn cøu - trao ®æi khuyến khích và được xem là chuẩn mực hoặc gián tiếp, bất kì một lợi ích bất chính quốc tế cho hoạt động lập pháp hình sự của nào, để người công chức làm hoặc không quốc gia. Theo khuyến nghị của các công làm một việc trong quá trình thực thi công ước nêu trên, kĩ thuật lập pháp hình sự trong vụ của họ”. Điều đáng chú ý là tính phổ quát đó các quy định về từng tội phạm về hối lộ của những định nghĩa này khi chúng được khác nhau được xây dựng cụ thể, rõ ràng sẽ nêu giống hệt nhau hoặc rất giống nhau rất có hiệu quả đối với những quốc gia nơi trong các công ước quy định về tội phạm về nhận thức của người áp dụng pháp luật cũng hối lộ. Ví dụ như Điều 15 của Công ước của như của người dân về tội phạm về hối lộ còn LHQ, Điều 2 và Điều 3 của Công ước của chưa được đầy đủ. Thứ ba, quan điểm chung COE đều đưa ra những định nghĩa tương tự của pháp luật quốc tế đều coi hối lộ là một về tội “Hối lộ công chức quốc gia”. Như vậy dạng của tham nhũng và quan điểm này đều có thể thấy nhận thức của cộng đồng quốc tế được thể hiện trong lời nói đầu của các công về các dạng hành vi phạm tội về hối lộ là ước nêu trên. Rõ nét nhất là Công ước của khá thống nhất và những định nghĩa trong LHQ về chống tham nhũng đã quy định các các công ước nêu trên được chấp nhận chung loại hành vi hối lộ bên cạnh hàng loạt hành trong thực tiễn lập pháp hình sự quốc tế. vi tham nhũng khác như tham ô tài sản, lợi - Quan điểm về các yếu tố cấu thành tội dụng ảnh hưởng để trục lợi, v.v.. phạm về hối lộ Qua quy định của những công ước quốc Quan điểm về yếu tố chủ thể của tội tế điển hình, có thể thấy được quan điểm lập phạm nên được xem xét đầu tiên vì đây là pháp của quốc tế về các tội phạm hối lộ ở vấn đề được các công ước nêu trên tập trung một số nội dung sau đây: chú ý. Theo gợi ý của các công ước, có hai - Quan điểm về xây dựng định nghĩa tội loại chủ thể của tội phạm về hối lộ là người phạm về hối lộ đưa hối lộ và người nhận hối lộ. Ngoài ra, Các công ước trên đều chú trọng đến những người đồng phạm khác cũng phải định nghĩa tội phạm về hối lộ. Hầu hết các chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) về tội điều luật đầu tiên của những công ước này phạm về hối lộ nếu hành vi do họ thực hiện đều đưa ra những định nghĩa về các tội phạm thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm. về hối lộ cụ thể. Các công ước đã xây dựng Theo quy định của các công ước quốc tế, những định nghĩa mô tả từng tội phạm về hối người nhận hối lộ (hoặc được đưa hối lộ) phải lộ cụ thể thay vì đưa ra định nghĩa chung về là “công chức”. Định nghĩa “công chức” trong hối lộ. Những định nghĩa này khá rõ ràng và những công ước này rất rộng và được xác dễ hiểu. Ví dụ: Điều 15 Công ước của LHQ định một cách linh hoạt với mục đích là tạo ra đưa ra định nghĩa về hành vi đưa hối lộ cho chuẩn mực quốc tế chung nhất và hài hoà cho công chức quốc gia như sau: Đưa hối lộ là việc xác định “người nhận hối lộ”. Công ước “hành vi cố ý hứa hẹn, mời nhận hoặc đưa của COE quy định việc xác định người nhận cho chính bản thân công chức quốc gia hoặc hối lộ trên cơ sở viện dẫn định nghĩa “công một người khác hoặc một tổ chức, trực tiếp chức” trong luật pháp của quốc gia thành viên. 34 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
  3. nghiªn cøu - trao ®æi Ví dụ như Điều 1(a) Công ước của COE quy luật, lực lượng quân đội.(2) Quy định phạm vi định: “công chức” sẽ được hiểu theo định nghĩa khái niệm công chức như vậy sẽ là gợi ý có về “viên chức”, “công chức”, “thị trưởng”, “bộ xu hướng mở cho việc xây dựng khái niệm trưởng” hoặc “thẩm phán” trong luật pháp của này trong luật hình sự quốc gia. Bên cạnh đó, các quốc gia thành viên nơi người đó thực hiện các công ước trong khi hướng dẫn xác định những chức năng, nhiệm vụ của mình và được thế nào là công chức đã nhấn mạnh: Người đó xác định theo quy định của luật hình sự của có thể được tuyển dụng hoặc được bầu, được quốc gia đó. Như vậy, định nghĩa “công chức” trả lương hoặc không được trả lương, làm trong luật hình sự quốc gia được ưu tiên áp công việc mang tính thường xuyên hay thời dụng hàng đầu. Công ước của OECD định vụ, không phụ thuộc vào thâm niên công tác nghĩa “công chức” là những người làm việc của họ.(3) Có thể thấy quan điểm lập pháp ở trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư đây là xây dựng khái niệm công chức không pháp, không phụ thuộc vào việc họ được phụ thuộc vào chế độ lương bổng hay vào tuyển dụng hay được bầu hoặc những người thời gian làm việc của đối tượng này. thực hiện các chức năng công (Điều 1(4)(a)). Ngoài khái niệm “công chức quốc gia”, Công ước của LHQ xây dựng những định các công ước còn đề cập khái niệm “công nghĩa cụ thể với phạm vi rộng của các khái chức nước ngoài” với tư cách là một loại niệm như “công chức”, “công chức nước ngoài” người nhận hối lộ khác. Các công ước của và “công chức của một tổ chức quốc tế” tại LHQ và của COE có quan điểm xác định khái Điều 2(a), (b) và (c). Theo quy định của các niệm công chức nước ngoài theo các đặc điểm công ước trên, khái niệm người nhận hối lộ có của công chức quốc gia ngoại trừ một điểm thể khái quát bao gồm: Công chức quốc gia, khác đó là “công chức của một nước khác”. công chức nước ngoài và công chức của các Cụ thể hơn, theo tinh thần Điều 1(4)(a) Công tổ chức quốc tế. “Công chức quốc gia” là khái ước của OECD, khái niệm công chức nước niệm rộng và nhìn chung được hiểu bao gồm ngoài được hiểu là “bất kì người nào thực những người nắm giữ một công việc trong hiện chức năng công cho một quốc gia khác các cơ quan lập pháp, hành pháp (bao gồm cả hoặc cho một tổ chức quốc tế”.(4) Như vậy nguyên thủ quốc gia, các bộ trưởng) và tư đặc điểm quan trọng của công chức nước pháp (bao gồm cả công tố viên); người thực ngoài theo Công ước này là việc thực hiện hiện các chức năng công; người thực hiện “chức năng công” của chủ thể. Theo bình chức năng công cho doanh nghiệp nhà nước; luận chính thức Công ước của OECD: “chức người thực hiện bất kì hoạt động nào trong năng công bao gồm bất kì hoạt động nào lĩnh vực công ích theo uỷ quyền; người cung trong lĩnh vực công ích, được uỷ quyền bởi cấp dịch vụ công theo pháp luật của quốc gia một nhà nước khác”. Loại chức năng này có kí Công ước, ví dụ như giáo viên, bác sĩ...; thể được nhận diện bởi hai đặc điểm: Thứ người thoả mãn đặc điểm của “công chức” nhất đó là loại hoạt động được uỷ quyền bởi theo luật của quốc gia kí Công ước, ví dụ như nhà nước khác và thứ hai nó có mối liên hệ bộ trưởng, thị trưởng, người thi hành pháp với hoạt động công. “Nước ngoài” ở đây bao t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 35
  4. nghiªn cøu - trao ®æi gồm tất cả các vùng đất hoặc thực thể có tổ đầu đó có được trên cơ sở quyền đại diện cho chức của nước khác. Bên cạnh đó, khái niệm pháp nhân hoặc quyền ra các quyết định nhân “công chức nước ngoài” của những công ước danh pháp nhân hoặc quyền kiểm soát các trên còn bao gồm cả cán bộ, nhân viên và đại hoạt động trong pháp nhân. Theo khoản 2 diện của các tổ chức quốc tế. Theo tinh thần Điều 18, TNHS về tội đưa hối lộ còn được đặt của những công ước này, các “tổ chức quốc ra cho pháp nhân cả trong trường hợp pháp tế” bao gồm những thiết chế được thành lập nhân đóng vai trò là người đồng phạm của bởi các nhà nước, các chính phủ hoặc các tổ một cá nhân khi thực hiện hành vi phạm tội. chức quốc tế công hoặc tổ chức liên quốc gia Khoản 3 Điều 18 còn nhấn mạnh vấn đề mang công hoặc là thiết chế mà quốc gia tham gia tính nguyên tắc là TNHS của pháp nhân công ước là thành viên, không phụ thuộc vào không loại trừ TNHS của cá nhân phạm tội. cấu trúc hoặc phạm vi quyền hạn của chúng. Như vậy có thể nói các công ước quốc tế này Công chức của các tổ chức này rất đa dạng, đã chú ý đến vấn đề TNHS trong luật hình sự đó có thể là thành viên của những hội đồng hiện đại khi gợi ý xây dựng cơ sở pháp lí cho lập pháp của các tổ chức quốc tế hoặc tổ chức việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân. liên quốc gia (ví dụ như Nghị viện châu Âu) Các công ước cũng thể hiện quan điểm hoặc có thể là thành viên của các toà án quốc lập pháp trong việc quy định yếu tố mặt tế (ví dụ như Toà án hình sự quốc tế). Công khách quan của tội phạm về hối lộ. Các công chức quốc tế còn bao gồm “nhân viên theo ước đều thống nhất gợi ý quy định duy nhất hợp đồng” của bất kì tổ chức quốc tế công nào.(5) dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của Sau người nhận hối lộ, người đưa hối lộ tội phạm. Từ đó có thể hiểu các quốc gia là loại chủ thể khác của tội phạm. Quan điểm thành viên được khuyến nghị nên quy định lập pháp thể hiện trong các công ước trên là các tội phạm này dưới dạng cấu thành tội người đưa hối lộ có thể là bất kì người nào, phạm (CTTP) hình thức. Hai loại hành vi không phụ thuộc vào địa vị pháp lí của họ. của tội phạm về hối lộ là đưa hối lộ và nhận Người phạm tội ở đây còn có thể là pháp hối lộ được quy định khá chi tiết trong các nhân. Các công ước này đã quy định cả vấn công ước nêu trên. đề TNHS của pháp nhân trong các tội phạm Hành vi đưa hối lộ đều được các công về hối lộ (Điều 2 Công ước của OECD, Điều ước quy định bao gồm ba dạng hành vi: hứa 18 Công ước của COE và Điều 26 Công ước đưa hối lộ, đưa ra lời mời hối lộ hoặc đưa của LHQ). Nếu người đưa hối lộ hành động của hối lộ. Các dạng hành vi này được giải vì lợi ích của pháp nhân và nhân danh pháp thích khá cụ thể trong nội dung của những nhân, TNHS của pháp nhân sẽ được đặt ra đối văn bản hướng dẫn thực hiện các công ước. với pháp nhân đó. Ví dụ: Theo khoản 1 Điều Ví dụ: Theo Công ước của COE, “hứa đưa 18 Công ước của COE, một tổ chức có thể hối lộ” bao gồm tất cả các trường hợp trong phải chịu TNHS về tội đưa hối lộ nếu tội phạm đó người phạm tội đưa ra lời cam kết sẽ trao đó được thực hiện bởi người đứng đầu tổ của hối lộ sau hoặc trường hợp có thoả thuận chức và vì lợi ích của tổ chức đó. Vị trí đứng giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ 36 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
  5. nghiªn cøu - trao ®æi rằng người đưa hối lộ sẽ trao của hối lộ sau; Dấu hiệu khách quan bắt buộc khác của “đưa ra lời mời hối lộ” bao gồm những các tội phạm về hối lộ được quy định trong trường hợp trong đó người đưa hối lộ thể những công ước trên là “của hối lộ”. Những hiện sẵn sàng đưa của hối lộ vào bất cứ thời công ước này đều quy định của hối lộ có thể điểm nào và “đưa của hối lộ” bao gồm là bất kì loại lợi ích nào. Đó có thể là tiền những trường hợp trong đó người đưa hối lộ hoặc các loại lợi ích khác, có thể là lợi ích thực hiện hành vi trao của hối lộ.(6) hữu hình hoặc lợi ích vô hình. “Của hối lộ” Theo tinh thần của các công ước này, tội theo các công ước này được xem xét cả về đưa hối lộ hoàn thành khi người công chức hình thức tồn tại và tính chất của đối tượng. nhận thức được sự tồn tại của lời hứa đưa Về hình thức, “của hối lộ” được thể hiện hối lộ hoặc lời mời hối lộ, hoặc khi người đó dưới các dạng lợi ích khác nhau. Những nhận được của hối lộ. (Tội phạm vẫn hoàn dạng lợi ích vật chất thông thường có thể kể thành kể cả trong trường hợp người này từ ra như tiền mặt, tài khoản trong ngân hàng, chối nhận của hối lộ). tài sản. “Của hối lộ” còn có thể là những lợi Hành vi nhận hối lộ theo những công ước ích vô hình (được xem như lợi ích về tinh nêu trên có thể là hành vi đề nghị (đòi) hối lộ thần), ví dụ như chỗ học cho con của người hoặc nhận của hối lộ.(7) “Đề nghị hối lộ là công chức trong trường nổi tiếng, phóng sự hành vi của công chức cho người khác biết ca ngợi trên truyền hình, v.v.. Như vậy, “của (một cách rõ ràng hoặc ngụ ý) rằng người đó hối lộ” có thể là tất cả những lợi ích đem đến sẽ phải trao lợi ích cho công chức đó để anh cho người công chức, trong đó có cả lợi ích ta làm hoặc không làm một việc mà người trong nghề nghiệp và cho cuộc sống riêng tư. đưa mong muốn”.(8) Như vậy, tội phạm sẽ cấu Quy định về “của hối lộ” trong các công ước thành mà không cần thoả thuận giữa người nêu trên cho thấy quan điểm quốc tế về vấn đòi hối lộ và người được yêu cầu. Hơn nữa, đề này rất linh hoạt và mềm dẻo. Mặt khác hành vi đề nghị hối lộ sẽ cấu thành tội nhận “của hối lộ” còn được xem xét từ góc độ tính hối lộ mà không đòi hỏi người được yêu cầu chất, đó là tính “không chính đáng”. Theo đưa hối lộ phải biết sự tồn tại của lời đề nghị quan điểm của các công ước quốc tế, không hối lộ (ví dụ như chưa nhận được thư trong phải mọi loại lợi ích đều bị cấm đưa và nhận. đó có lời đề nghị). Khác với hành vi trên, Loại lợi ích nào đó chỉ bị xem là không hành vi nhận của hối lộ là hành vi “thực tế chính đáng khi việc đưa và nhận những lợi tiếp nhận lợi ích mà người đưa hối lộ trao ích này bị pháp luật cấm. Do đó, việc xác cho”.(9) Hành vi này có thể được thực hiện định bản chất pháp lí của loại lợi ích được bởi chính công chức hoặc người khác thay đưa và nhận sẽ dựa trên cơ sở các quy phạm mặt cho công chức đó. Lợi ích người phạm pháp luật của các quốc gia thành viên. Ví dụ: tội đòi được hối lộ hoặc nhận hối lộ có thể là Theo quy định của Công ước OECD, hành vi lợi ích dành cho chính người đó hoặc cho bên sẽ không cấu thành tội phạm về hối lộ khi lợi thứ ba. Tội nhận hối lộ hoàn thành khi người ích (được đưa và nhận) được chấp nhận hoặc bị đòi hối lộ biết sự tồn tại của lời đề nghị hối được yêu cầu bởi luật (bao gồm cả án lệ) của lộ hoặc khi người phạm tội nhận của hối lộ. quốc gia của công chức nước ngoài.(10) t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 37
  6. nghiªn cøu - trao ®æi Tương tự như vậy, Công ước của COE quy Đối tượng của hành vi hối lộ cũng là dấu định lợi ích không chính đáng là những lợi hiệu pháp lí được các công ước quy định, đó ích mà công chức không thể nhận một cách là hoạt động thi hành công vụ của người hợp pháp. Theo Công ước này “tính từ “không công chức. Theo các công ước này, “của hối chính đáng” ở đây nhằm để loại trừ những lộ” được đưa nhằm mục đích thúc đẩy người lợi ích được cho phép bởi luật hoặc bởi các công chức làm hoặc không làm một việc quy tắc hành chính cũng như những món thuộc chức năng hoặc trách nhiệm của người quà có giá trị thấp hoặc quà được xã hội đó. Điều đáng chú ý là các công ước này chấp nhận”.(11) Nhìn chung, tinh thần của không đòi hỏi hành vi “làm hay không làm các Công ước này là kêu gọi các quốc gia một việc” của người công chức phải là hành thành viên quy định tất cả các loại lợi ích vi trái pháp luật hoặc trái với nhiệm vụ được được dùng để trao và nhận đều có tính chất giao. Chính vì vậy, hành vi vẫn cấu thành tội không chính đáng, không quan tâm đến những phạm trong trường hợp người công chức yếu tố như: tác dụng từ việc đưa và nhận lợi nhận hối lộ để thực hiện một việc (hoặc ích, tập quán thương mại của địa phương, tính không làm một việc) không trái với pháp phổ biến của việc nhận quà của các quan luật. Nói cách khác các công ước khuyến chức địa phương hoặc sự cần thiết (gần như nghị rằng hành vi hối lộ nhằm mục đích đạt không thể tránh được) của việc biếu quà. được những hoạt động hoặc những quyết Tuy nhiên, những lợi ích vật chất có giá trị định của người công chức cần phải bị coi là rất nhỏ có thể được chấp nhận.(12) Điều này tội phạm bất kể những hoạt động hay quyết cho thấy việc hình sự hoá hành vi đưa và định đó có trái pháp luật hay trái công vụ nhận những món quà có giá trị rất nhỏ là không. Ví dụ: Theo tinh thần Công ước của không có tính thực tế và khó có tính khả thi. OECD, hành vi sẽ cấu thành tội phạm về hối Vấn đề “bên thứ ba được lợi” cũng là vấn lộ bất kể công ti đưa hối lộ là bên bỏ thầu đạt đề được quy định trong các công ước chống yêu cầu nhất và quyết định cho trúng thầu là hối lộ. Ví dụ: Công ước của OECD đề cập hợp lệ.(13) Thậm chí theo quy định của Công khái niệm “bên thứ ba” (Điều 1.1), còn Công ước COE: “Hành vi của công chức sẽ bị xem ước của COE gọi đó là “người khác” (Điều là nguy hiểm hơn nếu đó là hành vi bị pháp 2) và Công ước của LHQ quy định “người luật hoặc quy tắc nghề nghiệp cấm làm. Như hoặc tổ chức khác” (Điều 15). Quy định về một hệ quả, người đó sẽ phải chịu trách “người thứ ba được lợi” trong các công ước nhiệm về tội phạm nghiêm trọng hơn”.(14) trên nhằm mục đích khuyến nghị các quốc Theo đó, quốc gia thành viên không nên quy gia thành viên bổ sung quy định của luật định “hành vi trái pháp luật của công chức” pháp quốc gia về người được hưởng lợi từ là dấu hiệu pháp lí bắt buộc trong CTTP của hối lộ. Do đó, quy định về tội phạm hối hoặc chỉ nên quy định nó như một tình tiết lộ trong luật của quốc gia thành viên cần bao tăng nặng. Quy định này của các công ước gồm cả trường hợp lợi ích được đưa trực tiếp được lí giải là để tạo niềm tin cho công dân cho bên thứ ba với sự đồng ý hoặc ít nhất là vào sự trong sạch của hoạt động công quyền với sự nhận biết của người công chức. - yếu tố có thể bị làm xói mòn ngay cả khi 38 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
  7. nghiªn cøu - trao ®æi người công chức nhận hối lộ vẫn hành động Người đó không nhất thiết phải có mối quan đúng pháp luật.(15) hệ với người đưa hoặc người nhận hối lộ. Ví Một câu hỏi có thể được đặt ra khi đề dụ như người làm trung gian hối lộ có thể cập hành vi của công chức là liệu việc họ xuất hiện trong trường hợp người đưa hối lộ làm hay không làm theo yêu cầu của người sử dụng chi nhánh công ti, nhà tư vấn hoặc đưa hối lộ nằm trong phạm vi chức trách của luật sư thay mặt cho người đó đưa lời mời họ hay có thể vượt quá chức trách của họ. hối lộ, lời hứa đưa hối lộ hoặc của hối lộ. Các công ước quốc tế có quan điểm khá Các công ước để mở vấn đề xác định trách mềm dẻo về vấn đề này. Ví dụ như Công nhiệm của người làm trung gian hối lộ - như ước của OECD quy định: “Hành động hoặc người đồng phạm của người đưa hoặc người không hành động trong mối quan hệ với việc nhận hối lộ hay với tư cách chủ thể của tội thực thi nhiệm vụ của công chức bao gồm tất phạm độc lập - cho các quốc gia thành viên. cả việc sử dụng vị trí công tác của họ, cho Do đó luật hình sự quốc gia có thể quy định dù nó có thuộc hay không thuộc thẩm quyền tội phạm riêng đối với hành vi làm trung của công chức” (Điều 4). Điều đó có nghĩa gian hối lộ hoặc quy định đó là hành vi đồng các công ước chỉ đòi hỏi việc mà người đưa phạm trong tội đưa hối lộ và tội nhận hối lộ. hối lộ yêu cầu có liên quan nhất định đến Điều quan trọng là các hành vi đưa và nhận việc thực thi chức trách, nhiệm vụ của người hối lộ vẫn cấu thành tội phạm kể cả trong nhận hối lộ, không đòi hỏi việc thực hiện trường hợp người làm trung gian hối lộ yêu cầu đó phải thuộc phạm vi chức vụ, không biết bản chất của các hành vi đó hoặc quyền hạn của người nhận hối lộ. Người không có ý định phạm tội về hối lộ. Đó là nhận hối lộ có thể lạm dụng chức vụ, quyền trường hợp người làm trung gian không có lỗi hạn để thực hiện yêu cầu của người đưa hối đối với hành vi của mình hoặc do sai lầm đã lộ hoặc thậm chí không thể hoặc không có ý vô ý thực hiện hành vi mang tính chất tiếp tay định thực hiện yêu cầu của người đưa hối lộ. cho tội phạm về hối lộ. Quan điểm của các công ước là không đòi Tất cả những công ước nêu trên đều quy hỏi dấu hiệu hiện thực hoá yêu cầu của định các tội phạm về hối lộ là loại tội cố ý. người đưa hối lộ. Như vậy, theo quan điểm lập pháp được thể Hành vi khách quan của các tội phạm về hiện trong các công ước quốc tế này các tội hối lộ có thể được thực hiện qua trung gian. phạm về hối lộ chỉ có thể được thực hiện với Hối lộ qua trung gian được xem là hình thức lỗi cố ý. Ví dụ như Điều 28 Công ước của hối lộ gián tiếp. Các công ước về chống hối LHQ quy định: “nhận thức được, mong muốn lộ đã quy định hối lộ gián tiếp là hình thức và có mục đích là những yếu tố chủ quan trong đó người đưa hối lộ mời nhận hối lộ, của một tội phạm”. Theo đó, người đưa hối hứa đưa của hối lộ hoặc đưa của hối lộ thông lộ và người nhận hối lộ thực hiện tội phạm qua người trung gian, hoặc người công chức với mong muốn thúc đẩy người nhận hối lộ chấp nhận lời mời hối lộ hoặc nhận của hối làm hoặc không làm một việc mà người đưa lộ thông qua người trung gian. Người làm hối lộ yêu cầu trong khi thực hiện công vụ. trung gian hối lộ có thể là bất kì người nào. Đòi hỏi nêu trên của những công ước quốc tế t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 39
  8. nghiªn cøu - trao ®æi đã đặt ra trách nhiệm cho các quốc gia thành của OECD chỉ quy định tội đưa hối lộ cho viên chỉ hình sự hoá những hành vi hối lộ công chức nước ngoài trong các giao dịch với lỗi cố ý. Những công ước này không nêu thương mại quốc tế (Điều 1). Mục đích chủ cụ thể các dấu hiệu của lỗi cố ý. Tuy nhiên yếu của các công ước này là để ngăn ngừa bình luận sau về dấu hiệu lỗi của tội phạm tội phạm hối lộ trong môi trường kinh doanh. hối lộ trong Công ước của OECD đã thể hiện Theo tinh thần của những công ước này, rõ hai dấu hiệu của lỗi đã được khoa học luật mục đích của các hành vi hối lộ công chức hình sự thừa nhận rộng rãi: dấu hiệu lí trí và nước ngoài là để đạt được hoặc để duy trì dấu hiệu ý chí. hoạt động kinh doanh, các giao dịch thương Hành động một cách có hiểu biết, người mại có lợi hoặc các lợi ích bất chính khác phạm tội phải nhận thức được rằng anh ta liên quan đến lĩnh vực thương mại quốc tế. đang tự mình hoặc thông qua người khác Hành vi hối lộ công chức nước ngoài cấu thực hiện tội phạm về hối lộ; anh ta ít nhất thành tội phạm cả trong trường hợp giao phải thấy trước được điều đó. Hành động dịch kinh tế mà người đưa hối lộ đạt được đã một cách có chủ ý, người phạm tội phải mong đem lại lợi ích kinh tế cho chính quốc gia muốn và quyết định thực hiện tội phạm.(16) nước ngoài có công chức nhận hối lộ: “Điều Ngoài ra, các công ước còn đòi hỏi lỗi cố quan trọng cần được nhấn mạnh rằng theo ý là cố ý đối với tất cả các yếu tố khách quan Công ước này sẽ luôn là tội phạm những của tội phạm. “Lỗi cố ý còn phải là cố ý đối hành vi đưa hối lộ cho công chức nước với kết quả trong tương lai của tội phạm”.(17) ngoài để đổi lấy sự cho phép trong giao dịch Điều đó có nghĩa là người phạm tội không thương mại, không cần biết đến lợi ích kinh chỉ mong muốn thực hiện hành vi đưa và tế mà giao dịch thương mại đó có thể đem nhận của hối lộ mà còn mong muốn hành vi lại cho quốc gia nước ngoài có liên quan”.(18) làm hoặc không làm một việc của người Các công ước chống hối lộ còn khuyến công chức (nhận hối lộ) xảy ra sau đó. nghị mở rộng phạm vi TNHS đối với cả - Quan điểm về một số hình thức hối lộ những hành vi hối lộ trong khu vực tư. Có đặc biệt cần được tội phạm hoá một số lí do biện giải cho sự cần thiết phải Trước hết, các công ước quốc tế chống hình sự hoá hiện tượng hối lộ trong khu vực hối lộ đều quy định và khuyến nghị các quốc tư. Thứ nhất, quy định tội phạm về hối lộ gia thành viên tội phạm hoá hành vi hối lộ trong khu vực tư là nhằm bảo vệ sự phát triển công chức nước ngoài. Công ước của LHQ bình thường của các quan hệ kinh tế và xã quy định hành vi đưa hối lộ cho và nhận hối hội. Thứ hai, quy định đó là cần thiết để duy lộ bởi công chức nước ngoài hoặc công chức trì sự cạnh tranh lành mạnh trong khu vực của các tổ chức quốc tế công (Điều 16). kinh tế tư. Thứ ba, điều này giúp bảo vệ Tương tự như vậy Công ước của COE quy cộng đồng khỏi những hậu quả nguy hiểm định các tội đưa hối lộ cho và nhận hối lộ mà hành vi hối lộ gây ra cho lĩnh vực kinh bởi công chức nước ngoài hoặc thành viên tế, đặc biệt là cho những lợi ích về tài chính của các cơ quan lập pháp và hành pháp của và một số lợi ích khác của đời sống xã hội.(19) nước ngoài (Điều 5 và Điều 6). Công ước Tội phạm về hối lộ trong khu vực tư có 40 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
  9. nghiªn cøu - trao ®æi thể được nhận diện bởi ba đặc điểm. Thứ thúc đẩy nhau thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhất, khu vực nơi xảy ra loại tội phạm này nhiệm của mình. chỉ có thể là khu vực tư, nơi diễn ra các hoạt Cuối cùng, do còn nhiều ý kiến khác động không liên quan đến quyền lực công. nhau về vấn đề đưa và nhận quà tạ ơn và Ví dụ như theo Điều 7 và Điều 8 Công ước cũng do tính chất phức tạp của vấn đề, các của COE, tội phạm này bị giới hạn trong công ước không đưa ra quy định bắt buộc “hoạt động kinh doanh”. Cụ thể hơn, Điều nào. “Công ước do đó để ngỏ cho các quốc 21 Công ước của LHQ quy định ba lĩnh vực gia thành viên vấn đề có hình sự hoá hành vi hoạt động có thể xảy ra loại tội phạm về hối biếu quà tạ ơn cho công chức nước ngoài lộ này, đó là kinh tế, tài chính và thương hay không”.(21) Quan điểm của luật pháp mại. Thứ hai, chủ thể của tội phạm về hối lộ quốc tế cho rằng trong trường hợp người trong khu vực tư được quy định của các công công chức nhận quà tạ ơn, lợi ích này không ước gợi ý là người điều hành hoặc người làm được hai bên thoả thuận trước. Vì vậy, việc việc trong bất kì cương vị nào của các thực làm trước đó của người công chức không bị thể kinh tế thuộc khu vực tư. Quy định này cho là chịu ảnh hưởng của hành vi biếu quà. được giải thích theo nghĩa rộng như sau: Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần xem Chủ thể đó nên bao gồm không chỉ các xét trường hợp biếu quà tạ ơn trong bối cảnh nhân viên mà cả những người làm công tác việc đó đã trở thành “lệ bất thành văn” trong quản lí từ cấp cao nhất tới cấp thấp nhất, bao quan hệ giao lưu thương mại. Trong trường gồm cả các thành viên của ban giám đốc… hợp này, hành vi biếu quà tạ ơn cần bị xem là Nó cũng bao gồm những người không phải tội phạm nếu món quà đó có giá trị lớn.(22) là nhân viên hoặc không làm việc thường Qua đây có thể thấy vấn đề biếu quà tạ ơn xuyên cho công ti nhưng có thể có hoạt động vẫn chưa đạt được nhận thức thống nhất gắn với trách nhiệm của công ti.(20) trong pháp luật quốc tế. Điều này xuất phát Đặc điểm thứ ba của tội phạm về hối lộ từ chỗ chưa có quan điểm chung trong cộng trong khu vực tư liên quan đến mục đích của đồng quốc tế về vấn đề này. hành vi hối lộ. Hối lộ trong khu vực tư có - Quan điểm về quy định hình phạt đối mục đích là thúc đẩy người nhận hối lộ làm với các tội phạm về hối lộ hoặc không làm một việc vi phạm chức Bên cạnh những gợi ý đối với việc hình trách, nhiệm vụ của người nhận. Như vậy là sự hoá các hành vi hối lộ, những công ước quy định về hối lộ trong khu vực tư ít khắt quốc tế trên đều đề cập nguyên tắc xử phạt khe hơn so với quy định về hối lộ trong khu các tội phạm về hối lộ. Ví dụ như Điều 30 vực công. Quy định của các công ước về vấn Công ước của LHQ quy định: “Mỗi quốc gia đề này cho thấy quan điểm của luật pháp thành viên sẽ quy định hình phạt tương xứng quốc tế là luật hình sự chỉ nên can thiệp vào với tội phạm theo Công ước này dựa trên cơ khu vực tư trong trường hợp việc đưa và sở tính chất nguy hiểm của tội phạm đó”. Cụ nhận lợi ích là để thúc đẩy sự vi phạm nghĩa thể hơn, Điều 3(1) Công ước của OECD quy vụ nghề nghiệp, không điều chỉnh vấn đề các định: “Tội hối lộ công chức nước ngoài sẽ bị bên trong quan hệ kinh tế tư dùng lợi ích để xử phạt bởi những hình phạt hiệu quả, tương t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011 41
  10. nghiªn cøu - trao ®æi xứng và có tính can ngăn”. Từ những quy Những quan điểm này sẽ trở thành những định trên có thể thấy rằng nguyên tắc tương định hướng quan trọng cho hoạt động lập xứng là nguyên tắc mang tính chủ đạo cần pháp hình sự quốc gia, tạo tiền đề cho sự được các quốc gia chú trọng khi quy định nhận thức cũng như quy định thống nhất về hình phạt đối với các tội phạm về hối lộ. Có các tội phạm về hối lộ giữa các quốc gia trên một số yếu tố giúp xác định một hình phạt có thế giới./. được xem là tương xứng, hiệu quả và có tính can ngăn hay không. Yếu tố đầu tiên là sự (1). Lời nói đầu của Công ước OECD. (2).Xem: Hướng dẫn áp dụng Công ước của LHQ, phù hợp giữa hình phạt được quy định đối đoạn 28(a). với tội phạm về hối lộ và hình phạt đối với (3).Xem: Hướng dẫn áp dụng Công ước của LHQ, các tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã đoạn 28(b). hội tương đương, ví dụ như tội tham ô tài (4).Xem: Pieth, M., Low, L. A. and Peter J. Cullen (2007) sản, tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm (eds.), The OECD Convention on Bribery - A Commentary, OECD xuất bản, tr. 59. đoạt tài sản, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. (5). OECD (2007), Corruption: A Glossary of International Yếu tố thứ hai là sự phù hợp giữa hình phạt Criminal Standards, OECD xuất bản, tr. 33. được quy định cho tội đưa hối lộ và tội nhận (6).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 36. hối lộ. Yếu tố thứ ba là sự phù hợp giữa hình (7). Ví dụ như theo quy định tại Điều 3 Công ước của COE, Điều 15 (b) Công ước của LHQ. phạt được quy định trong luật hình sự của (8).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 41. các quốc gia khác nhau đối với các tội phạm (9).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 42. về hối lộ. Yếu tố thứ tư là sự bảo đảm (10).Xem: Bình luận chính thức Công ước của nguyên tắc phân hoá và cá thể hoá hình phạt. OECD, đoạn 8. Yếu tố cuối cùng đó là sự thực thi hình phạt (11).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 38. đối với các tội phạm về hối lộ và hiệu quả (12).Xem: Bình luận chính thức Công ước của thực tế của nó. Cụ thể hoá các nguyên tắc OECD, đoạn 9. này, Công ước của COE đã gợi ý quy định (13).Xem: Bình luận chính thức Công ước của hai loại hình phạt đối với tội phạm về hối lộ OECD, đoạn 4. là hình phạt tước tự do và hình phạt có tính (14).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 39. kinh tế, ví dụ như phạt tù, phạt tiền, tịch thu (15).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, tài sản v.v.. (Khoản 1 Điều 19). đoạn 39. Tóm lại, quy định của các công ước quốc (16).Xem: Pieth, M., Low, L. A. and Peter J. Cullen, tr. 159. tế về tội phạm về hối lộ đã gợi mở cho các (17).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 34. quốc gia một số chuẩn mực đối với việc hình (18).Xem: Pieth, M., Low, L. A. and Peter J. Cullen, sự hoá các dạng hành vi hối lộ, việc quy định Sđd, tr. 151. các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của tội phạm (19).Xem giải thích chi tiết vấn đề này tại Báo cáo cũng như việc quy định hình phạt đối với các giải thích Công ước của COE, đoạn 52. tội phạm này. Quy định trong những công (20).Xem: Báo cáo giải thích Công ước của COE, đoạn 54. ước này cũng như trong các văn bản pháp lí (21).Xem: Pieth, M., Low, L. A. and Peter J. Cullen, có liên quan đã cho thấy rõ nét quan điểm của Sđd, tr. 111. luật pháp quốc tế về các tội phạm về hối lộ. (22). Pieth, M., Low, L. A. and Peter J. Cullen, Sđd, tr. 111. 42 t¹p chÝ luËt häc sè 2/2011
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2