Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015
lượt xem 39
download
Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015 tập hợp những bài tham luận về việc phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Phước như công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực tỉnh giai đoạn 2011 2015; thực trạng và giải pháp về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị tỉnh Bình Phước,... Mời các bạn tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015
- BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 2015 Trường Chính trị tỉnh Bình Phước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy và UBND tỉnh, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bình Phước. Trường có nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ công chức ở địa phương về lý luận chính trị hành chính; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; kiến thức về pháp luật, quản lý Nhà nước và một số lĩnh vực khác như đào tạo Trung cấp Luật, trung cấp Hành chính. Đồng thời phối hợp đào tạo Cao cấp Lý luận Chính trị Hành chính; mở các lớp Đại học chuyên ngành theo yêu cầu đào tạo cán bộ của địa phương. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, trong những năm qua Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và đạt những kết quả quan trọng cả về quy mô, số lượng và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Nhà trường xác định nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng luôn là mục tiêu hàng đầu trong mọi hoạt động của nhà trường nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức về lý luận chính trị hành chính và chuyên môn, có kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có tư duy đổi mới với tầm nhìn xa và có khả năng đoàn kết tập hợp lực lượng nhằm tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết của địa phương trên từng địa bàn. Đó là nhiệm vụ quan trọng và nặng nề của nhà trường, nhiệm vụ đó đã được tập thể cán bộ, giảng viên nhà trường tập trung thực hiện với những kết quả cụ thể như sau: Về thực hiện nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng: Bám sát hướng dẫn, quy định của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và Ban Tuyên giáo Trung ương. Trong từng nội dung chương trình chú trọng truyền tải đến học viên những kiến thức lý luận và thực tiễn, kỹ năng lãnh đạo, quản lý phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Đồng thời, cọi trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và phong cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý cho học viên của nhà trường. 1
- Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Trường Chính trị đã quan tâm đổi mới phương pháp giảng dạy, coi trọng đối thoại giữa người dạy và người học; thường xuyên yêu cầu học viên phải nỗ lực tự học và chú trọng vào bài giảng. Đội ngũ giảng viên của nhà trường từng bước áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực gắn với phương pháp truyền thống; sử dụng, phối hợp linh hoạt các phương pháp thuyết trình, phát vấn, xử lý tình huống…nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Việc tổ chức thao giảng, dự giờ, thi giảng viên giỏi được nhà trường quan tâm tổ chức thường xuyên. Công tác nghiên cứu khoa học được nhà trường triển khai tích cực nhằm hỗ trợ cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Các đề tài khoa học cấp khoa, cấp trường, cấp tỉnh đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và giải quyết một số vấn đề thực tiễn đặt ra ở địa phương gắn với nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ giảng viên của nhà trường phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng. Hiện nay trường có 49 cán bộ, giảng viên, nhân viên; trong đó có 21 giảng viên chuyên trách và 4 giảng viên kiêm chức chiếm 53%. Có 12 giảng viên có trình độ thạc sỹ, 01 giảng viên đang chuẩn bị bảo vệ luận văn thạc sỹ và 01 giảng viên mới thi tuyển đầu vào nghiên cứu sinh đạt kết quả tốt; 02 giảng viên đã hoàn thành học tập ngoại ngữ đang chờ đi học theo đề án 165 của Trung ương; 22/25 giảng viên đã được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực. Tất cả các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên ngành, tập huấn chương trình, tài liệu mới do Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và Bộ Nội vụ tổ chức nhà trường đều cử giảng viên đi dự. Đồng thời để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu giảng viên cập nhật đường lối, chủ trương, chính sách mới, kiến thức mới, kiến thức thực tiễn vào bài giảng, gắn lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng dạy. Đối với các chuyên đề, bài giảng có tính chất chuyên ngành hoặc đòi hỏi người giảng viên phải có kinh nghiệm thực tiễn, nhà trường phân công cho các đồng chí trong Ban Giám hiệu và mời báo cáo viên của các ngành tham gia giảng dạy. Về quản lý đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường đã cụ thể hóa các quy chế, quy định của Trung ương, Học viện, của Tỉnh ủy thành các quy chế, quy định, hướng dẫn cụ thể để quản lý chặt chẽ quá trình dạy và học. Việc tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học viên được đổi mới từng bước theo hướng qua bài thi, kiểm tra phải đánh giá được kiến thức lý luận, thực tiễn của học viên, sự liên hệ, vận dụng vào thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ sở. Nhất là việc viết tiểu luận cuối khóa của chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị Hành chính đã giúp cho học viên biết phân tích, đánh giá, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tổng kết thực tiễn và đề xuất các giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể thực tiễn đặt ra ở ngay cơ quan, địa phương, đơn vị. 2
- Về hình thức mở lớp: Nhà trường kết hợp cả hình thức đào tạo tập trung và tại chức, tổ chức mở lớp tại trường và ở các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc; tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân tộc vừa học vừa làm và khắc phục khó khăn về đi lại cho học viên. Đối với các lớp mở cho các doanh nghiệp, nhà trường vận dụng linh hoạt tổ chức học ngoài giờ hành chính để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo đảm công tác chuyên môn của mình. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều ngành. Trường Chính trị tỉnh luôn phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Nội vụ hai c ơ quan chuyên trách tham mưu về công tác cán bộ của tỉnh; phối hợp với các ban Đảng tỉnh; các sở ngành, đoàn thể liên quan khác; các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, trung tâm Bồi dưỡng chính trị để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, duyệt sinh, chuẩn bị về cơ sở vật chất, tổ chức giảng dạy. Đồng thời, nhà trường cũng phối hợp với các Học viện, các trường Đại học để tổ chức học tập, quản lý học viên đối với các lớp Cao cấp LLCT – HC và Đại học chuyên ngành đặt tại Trường chính trị tỉnh. Sự phối hợp đó là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị còn một số khó khăn, vướng mắc và hạn chế; trong đó có cả những tác động của yếu tố khách quan và chủ quan. Đó là: Thứ nhất, chương trình đào tạo Trung cấp LLCT HC chậm được đổi mới và cập nhật những kiến thức mới, chủ trương, đường lối, chính sách mới trên nhiều lĩnh vực. Giảng viên tự cập nhật lại tùy thuộc vào trách nhiệm, trình độ, năng lực của mỗi người nên không bảo đảm sự thống nhất về kiến thức chung trong cả nước. Hiện nay có bài trong chương trình phải thay đổi, cập nhật từ 30 đến 40 % kiến thức. Các chương trình bồi dưỡng theo chức danh do Bộ Nội vụ biên soạn quá chậm, các chương trình bồi dưỡng khác còn thiếu. Vì vậy, nội dung một số lớp bồi dưỡng mở tại trường chủ yếu do nhà trường phối hợp với các đơn vị liên quan chọn và biên soạn theo yêu cầu công việc phối hợp liên kết với các đơn vị khác mở lớp. Thứ hai, về phương pháp giảng dạy trong nhà trường vẫn còn nặng về thuyết trình, chưa áp dụng một cách thực sự hiệu quả phương pháp giảng tích cực nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên. Một số giảng viên chưa biết cách tổ chức thảo luận cho thật sự hiệu quả, chưa đưa ra được những bài tập tình huống về kỹ năng lãnh đạo, quản lý phù hợp với yêu cầu hiện nay. Trong khi đó, nhiều học viên còn rất thụ động trong quá trình lên lớp cũng như thảo luận. Một số học viên chưa xác định đúng động cơ, mục đích học tập, có biểu hiện học để đủ điều kiện đề bạt, bổ nhiệm; học cho có bằng cấp để chuyển ngạch, lên 3
- lương. Điều đó cũng tác động không nhỏ đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường. Thứ ba, đội ngũ giảng viên nhà trường lực lượng quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thiếu về số lượng, đa số còn trẻ, hạn chế về kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy…còn khoảng 50% giảng viên trẻ chưa được đào tạo về Cao cấp LLCT HC. Một số giảng viên chưa thật sự chuyên tâm, tận tuy, trách nhiệm đầu tư cho nghiên cứu, soạn giáo án và rèn luyện kỹ năng, phương pháp sư phạm; chưa thường xuyên cập nhật kiến thức thực tiễn, đường lối, chính sách mới, chủ trương mới vào bài giảng. Thứ tư, hoạt động nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ bắt buộc đối với giảng viên để bổ trợ kiến thức cho bài giảng, góp phần tổng kết thực tiễn và giải quyết những vấn đề nổi cộm, bức xúc ở địa phương. Điều đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên Trường Chính trị phải không ngừng nâng cao nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, không ngừng nâng cao chất lượng đề tài nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào bài giảng. Tuy nhiên, việc tham gia của giảng viên chưa đồng đều, chất lượng nghiên cứu khoa học còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. Thứ năm, về hình thức đào tạo, bồi dưỡng, do yêu cầu của nhiều huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc, nhà trường mở nhiều lớp hệ B đặt tại các địa phương, đơn vị; số lớp đào tạo tập trung tại Trường còn ít. Do đó, việc quản lý quá trình học tập của học viên gặp nhiều khó khăn, ở một số nơi chưa có biện pháp phối hợp quản lý tích cực, hiệu quả nên ảnh hưởng không nhỏ đến cả chất lượng dạy và chất lượng học. Thứ sáu, về chế độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên Trường chính trị tỉnh, thành phố chưa thỏa đáng, còn nhiều vướng mắc và bất hợp lý do các quy định của Trung ương và Chính phủ dẫn đến tình trạng: Phụ cấp ưu đãi ngành 45% không còn đúng với ý nghĩa ưu đãi; bộ phận cán bộ, nhân viên ở các phòng của Trường Chính trị ngoài phần hỗ trợ của nhà trường không có bất cứ một chế độ nào khác trong khi vẫn phải thực hiện mọi nhiệm vụ như một công chức bình thường ở các cơ quan khác. Cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường chưa thật sự yên tâm và tự bươn chải, tự lo thêm cuộc sống phần nào cũng chi phối đến hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng. Cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập vừa thiếu, vừa lạc hậu, xuống cấp, thư viện nhà trường chưa được đầu tư tương xứng. Thứ bảy, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành liên quan có lúc, có nơi, có việc thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất; còn chồng chéo do chưa phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan với cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Việc phối hợp trong công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm vừa chậm, vừa chưa đồng bộ và thống nhất dẫn đến bị động trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và 4
- ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng như chất lượng công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng. Một số cơ quan, đơn vị có cán bộ đi học chưa kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong quản lý học viên. Để giải quyết những khó khăn, vứng mắc và hạn chế yếu kém nêu trên; tại Hội thảo này tôi đề nghị các đại biểu tập trung làm rõ một số nội dung theo các nhóm vấn đề sau: 1. Về phương pháp giảng dạy: làm rõ những yêu cầu và biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng: Áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, phát huy vai trò của người thầy và phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, gắn lý luận với thực tiễn, học với hành. 2. Về xây dựng nguồn nhân lực: Việc xây dựng đội ngũ giảng viên cần có những giải pháp gì để xây dựng đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, phong cách đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, có kiến thức thực tiễn và có kỹ năng, phương pháp giảng dạy tốt. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên các phòng, khoa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. 3. Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. 4. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng trong nhà trường: Đề xuất các biện pháp tổ chức thực hiện các quy chế, quy định; các hình thức mở lớp, cách thức quản lý giảng viên và học viên trong quá trình giảng dạy và học tập để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. 5. Công tác phối hợp: Đánh giá, đề xuất các giải pháp tăng cường công tác phối hợp giữa Trường Chính trị tỉnh với các cấp, các ngành trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng. 6. Từ nhiều góc độ khác nhau, tập trung phân tích rõ các nguyên nhân chủ quan, khách quan, bên trong, bên ngoài dẫn đến những khó khăn vướng mắc, hạn chế về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như đã nêu ở phần trên. Đồng thời, cần đề xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về nội dung, chương trình, chế độ chính sách, cơ chế để tháo gỡ những khó khăn vướng mắc hiện nay trong công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay; nhất là trong điều kiện số lượng cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Bình Phước đang cần được chuẩn hóa chiếm tỷ lệ cao và trong bối cảnh Đảng bộ tỉnh Bình Phước đang cùng 5
- với toàn Đảng triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Hội thảo của chúng ta là một hoạt động thiết thực và có ý nghĩa quan trọng. Tôi đề nghị mỗi đại biểu dự Hội thảo hãy tích cực phát huy tinh thần trách nhiệm và trí tuệ của mình, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh nhà ngày càng vững mạnh; có đủ sức, đủ tầm, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng. TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO HIEÄU TRÖÔÛNG ThS. Nguyễn Thị Lan Hương 6
- CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH GIAI ĐOẠN 20112015 Người viết tham luận: Lê Ngọc Mừng Phó Trưởng phòng Đào tạo Sở Nội vụ tỉnh Bình Phước Kính thưa quý vị đại biểu! Kính thưa Hội nghị ! Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức là công việc mà đòi hỏi các cấp, các ngành phải thực hiện thường xuyên và liên tục, nhằm đáp ứng tiêu chuẩn của từng ngạch công chức và chức danh cán bộ quản lý; trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản, bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và quản lý nhà nước nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ năng lực đáp ứng yêu cầu kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước; tiếp tục thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình cải cách hành chính nhà nước. Kính thưa Hội nghị! Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, cấp ủy đảng các cấp đã tập trung chỉ đạo và đẩy mạnh tổ chức thực hiện trong toàn tỉnh. Từ đó tạo được những chuyển biến tích cực trong công tác quy hoạch cán bộ gắn với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức. Để cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành hàng loạt văn bản như: Chương trình đột phá số 12CTr/TU ngày 02/8/2011 của Tỉnh ủy về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Quyết định số 2728/QĐUBND ngày 07/12/2011 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh giai đoạn 20112015; Quyết định thành lập Ban Chủ nhiệm đề tài đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Nghị quyết số 25/2011/NQHĐND ngày 16/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 73/2011/QĐUBND ngày 21/12/2011 về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh. Kính thưa Hội nghị! 7
- Trong 5 năm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh giai đoạn 20062010 thì tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là 11.979 lượt người, trong đó: Cấp tỉnh là 4.569 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 654, Quản lý nhà nước là 1.618, Chuyên môn nghiệp vụ là 641, ngoại ngữ 44, kỹ năng 1.612); Cấp huyện là 1.802 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 510, Quản lý nhà nước là 259, Chuyên môn nghiệp vụ là 300, kỹ năng là 733); Cấp xã là 5.246 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 456, Quản lý nhà nước là 797, Chuyên môn nghiệp vụ là 1.559, tin học 112, kỹ năng 2.322); Các đơn vị ngành dọc của TW đóng trên địa bàn tỉnh và cán bộ các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh là 362 lượt cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị là 50, Quản lý nhà nước là 43, Chuyên môn nghiệp vụ là 107, kỹ năng 162). Theo kết quả trên cho thấy, trong 5 năm qua tỉnh chú trọng vào hai đối tượng chính là cán bộ, công chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ công chức cấp xã, việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực hoạt động của hai đối tượng này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Kính thưa Hội nghị! Trong quá trình thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 20112015, theo tôi cần bám sát một số quan điểm sau: Thứ nhất, tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ bản về xây dựng đội ngũ cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII. Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Phát triển nguồn nhân lực vừa là nhân tố quyết định, đồng thời cũng là động lực phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, cần đầu tư cho Giáo dục đào tạo để đáp ứng nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, nhằm từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính kế thừa và liên tục, đáp ứng yêu cầu đối với các chức danh chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở. Thứ ba, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Thực hiện đầy đủ, công bằng, hợp lý chính sách thu hút nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công chức một cách khoa học, bồi dưỡng một cách có hệ thống đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. 8
- Thứ tư, xã hội hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó cán bộ, công chức là đảng viên phải là những người tiên phong đi trước để cán bộ, công chức noi theo. Kính thưa Hội nghị! Để thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 20112015, tôi xin đề xuất một số giải pháp như sau: Một là, phải xác định rõ nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; Hai là, khi xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần phải bám sát với quy hoạch cán bộ; Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với việc sử dụng sau đào tạo; Bốn là, việc đào tạo, bồi dưỡng phải theo quy hoạch, không chạy theo số lượng, thành tích; Năm là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị có liên quan, liên kết với các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng; Sáu là, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức phụ trách công tác đào tạo, bồi dưỡng của các sở, ngành tỉnh, UBND các huyện, thị xã; Bảy là, kiện toàn, cũng cố hệ thống các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng (cơ sở đào tạo, bồi dưỡng) ở địa phương. Trên đây là một số ý kiến tham luận về kết quả đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 20062010 và những quan điểm, giải pháp công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 20112015 mà tôi đang công tác. Trong bài tham luận của tôi vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những lời góp ý của các đồng nghiệp phụ trách lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng. Cuối cùng, một lần nữa tôi xin kính chúc các quý vị đại biểu sức khỏe, chúc hội thảo thành công tốt đẹp. Xin chân thành cảm ơn./. 9
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC Nguyễn Văn Hậu Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh có chức năng, nhiệm vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cán bộ công chức ở địa phương về lý luận Chính trị Hành chính, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước; kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội; kiến thức về pháp luật và quản lý nhà nước. Đồng thời tổ chức nghiên cứu khoa học tổng kết thực tiễn, cập nhật những vấn đề mới bổ sung vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường chính trị tỉnh là cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân cấp cơ sở; trưởng phó phòng, ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng phó phòng của các sở, ban ngành đoàn thể cấp tỉnh, cán bộ dự nguồn của các chức danh trên và đội ngũ cán bộ công chức cơ sở và một số các đối tượng khác theo nhu cầu thực tế. Trong những năm qua Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã bám sát chức năng, nhiệm vụ, quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo của UBND tỉnh về nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh; căn cứ hướng dẫn của Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh để xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Phối hợp với các ban ngành chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được kết quả rất khả quan. Sau 15 năm thành lập, trường đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng được 54 lớp trung cấp Chính trị; trung cấp Hành chính; trung cấp Lý luận Chính trị Hành chính với tổng số gần 7000 học viên; liên kết đào tạo được 17 lớp đại học và Cao cấp Lý luận Chính trị Hành chính với gần 2000 học viên; tổ chức bồi dưỡng 57 lớp chuyên viên và một số lớp bồi dưỡng chức năng nghiệp vụ khác theo yêu cầu thực tế của nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn với trên 6000 học viên. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường đã tuân thủ nghiêm túc những quy định, hướng dẫn về nội dung, thời gian và đối tượng của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đồng thời nhà trường cũng đã xây dựng được một bộ quy chế theo thẩm quyền để bảo đảm công tác quản lý và tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ ngày một tốt hơn. ông tác kiểm tra, thi đánh giá chất lượng, công nhận tốt nghiệp được tiến hành nghiêm túc theo đúng quy định của Học viện Trên cơ sở giáo trình chuẩn của Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, đối với các lớp Trung cấp Lý luận Chính trị Hành chính, và các lớp bồi dưỡng 10
- chuyên viên; nhà trường luôn quan tâm bổ sung những vấn đề mới vào quá trình giảng dạy, nhất là các quan điểm đường lối, nghị quyết của Đảng, những quy định của nhà nước mới ban hành; cập nhật những kiến thức thực tế; tình hình kinh tế xã hội của địa phương phục vụ quá trình đào tạo, bồi dưỡng của trường. Phương pháp giảng dạy có những đổi mới đáng kể, đã từng bước tiếp cận với phương pháp giảng dạy mới, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Ban Giám hiệu nhà trường đã rất quan tâm đến chất lượng bài giảng của giảng viên. Thông qua Hội đồng khoa học của nhà trường, công tác thao giảng, dự giờ, đánh giá kết quả giảng dạy của giáo viên được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc nhờ đó đã có những điều chỉnh kịp thời, chính xác bổ sung những vấn đề mới, nâng cao chất lượng bài giảng của giảng viên. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng và công nhận tốt nghiệp có nhiều tiến bộ, từng bước chặt chẽ, chính xác, không để xẩy ra những tiêu cực. Công tác quản lý học viên ngày một tốt hơn. Đã có sự phối hợp giữa nhà trường; cơ quan quản lý cán bộ và đơn vị công tác của học viên trong công tác quản lý theo giõi học viên trong quá trình học tập tại trường. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Chính trị vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nội dung trong các chương trình còn nặng về lý luận, kiến thức thực tế và kỹ năng hoạt động còn hạn chế. Việc bổ sung cập nhật những vấn đề mới kể cả về lý luận và thực tiễn có được tiến hành nhưng còn khiêm tốn. Hạn chế này vừa mang tính khách quan và chủ quan. Về mặt khách quan là nội dung trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị phụ thuộc cơ bản vào giáo trình chuẩn của Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. Tuy nhiên theo đánh giá chung, giáo trình của Học viện phát hành vẫn cần điều chỉnh một số nội dung, nhất là trong chương trình trung cấp Lý luận Chính trị Hành chính. Bên cạnh đó, sự thay đổi nhanh chóng của quá trình phát triển kinh tế xã hội, hiện thực ở cơ sở còn nảy sinh nhiều vấn đề mới cần có sự tổng kết, bổ sung vào lý luận và kiến thức thực tiễn phục vụ cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhưng quá trình này được tiến hành chậm, chưa kịp thời. Trên thực tế để thay đổi nội dung của các chương trình là một quá trình đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức. Về yếu tố chủ quan, là sự chủ động nắm bắt những vấn đề mới sâu sát thực tế của mỗi cán bộ, giảng viên làm công tác giảng dạy còn thụ động. Phương pháp giảng dạy và học tập ở Trường Chính trị về cơ bản vẫn theo phương pháp truyền thống, chú trọng về thuyết giảng một chiều, chưa tạo được sự chủ động nhận thức về phía học viên; vận dụng phương pháp dạy học mới chưa toàn diện. 11
- Số lượng học viên ở một số lớp đào tạo và bồi dưỡng còn đông, ảnh hưởng đến chất lượng chung; sự phối hợp giữa nhà trường, cơ quan quản lý cán bộ, cơ quan sử dụng cán bộ trong quản lý học viên chưa thực sự thường xuyên. Thái độ học tập của một bộ phận học viên thiếu tích cực, thụ động có những biểu hiện đối phó, chưa có sự tập trung cao cho học tập. Nội dung đào tạo chưa đi sâu được với từng đối tượng khác nhau, còn chung chung. Từ đánh giá khái quát một số thực trạng trên. Xin đề xuất một số giải pháp sau: Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng ở Trường Chính trị cần tăng cường cập nhật những quan điểm chủ truơng của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước mới ban hành; những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đã được tổng kết; những kinh nghiệm tốt trong quá trình hoạt động của hệ thống chính trị. Thực hiện tốt mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Đối với nội dung của các lớp bồi dưỡng nên tăng cường hơn nữa về kỹ năng hoạt động, giảm bớt phần lý luận, đặc biệt là tránh trùng lặp kiến thức, cụ thể như trong chương trình bồi dưỡng các lớp chuyên viên. Về phương pháp giảng dạy, cần đổi mới theo hướng tăng cường tính chủ động của người học, tạo điều kiện để người học tham gia nhiều hơn vào quá trình giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình nhận thức. Không ngừng nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng, làm tốt công tác thao giảng, dự giờ đối với giảng viên, nhất là các giảng viên mới. Đổi mới công tác đi thực tế của giảng viên theo hướng khoa học, thiết thực, hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý học viên phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, cơ quan quản lý cán bộ và cơ quan chủ quản của học viên, để quản lý học viên trong quá trình học tập tại Trường Chính trị. Số lượng học viên của mỗi lớp nên duy trì ở mức 70 80 học viên, không nên tổ chức những lớp quá đông (trừ những lớp có tính đặc thù). Nâng cao chất lượng đầu vào của học viên, hạn chế tối thiểu tình trạng học viên không đủ chuẩn tham gia các lớp đào tạo. Tăng cường các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tạo sự giao lưu lành mạnh giữa học viên với học viên, học viên với giảng viên. Xây dựng môi trường sư phạm tốt xứng đáng là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh. 12
- ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC ThS. Nguyễn Văn Quyết Phó Hiệu trưởng. Bài tham luận này là nhằm trao đổi kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy lý luận chính trị của Trường, góp phần định hướng cho công tác giảng dạy cho những năm tới bảo đảm cho yêu cầu về chất lượng giảng dạy; đồng thời thông qua bài tham luận, có thể giúp cho đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh Bình Phước nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc đòi hỏi phải đổi mới tích cực về phương pháp giảng dạy trong thời gian tới. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường. Để thực hiện tốt yêu cầu trên, đòi hỏi đội ngũ làm công tác nghiên cứu và giảng dạy của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước phải có kiến thức, biết vận dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy (chủ yếu là hai phương pháp: Phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại) và kết hợp giữa các phương pháp một cách hợp lý để đem lại chất lượng trong từng bài giảng. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại là một vấn đề đã được đặt ra từ khá lâu đối với ngành Giáo dục Đào tạo ở nước ta nói chung, với hệ thống Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tích cực cho giảng viên thuộc các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong bài tham luận “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Bình Phước”, tôi xin tập trung trao đổi một số nội dung về việc sử dụng và sự kết hợp giữa hai phương pháp giảng dạy: Phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại (phương pháp tích cực), làm rõ mặt tích cực và hạn chế của từng phương pháp giảng dạy; đề xuất một số giải pháp thực hiện phương pháp truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại trong hoạt động giảng dạy của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước. I. Khái niệm về phương pháp và phương pháp dạy học: 1.1. Khái niệm phương pháp: Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện đạt tới những mục đích nhất định trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1.2. Khái niệm phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của giảng viên và của học viên trong sự phối hợp thống nhất với sự chỉ đạo, điều hành của người giảng viên, nhằm làm cho học viên tự giác, tự lực và tích cực đạt tới mục đích học tập lĩnh hội được những nội dung tri thức của người giảng viên truyền đạt. 13
- Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học (2 phương pháp này hoạt động khác nhau về đối tượng nhưng thống nhất với nhau về mục đích. Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy học đóng vai trò chủ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương đối nhưng chịu sự chi phối của phương pháp dạy). Phương pháp dạy và phương pháp học đều có 2 chức năng: + Phương pháp dạy có 2 chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. + Phương pháp học có 2 chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo. Trong thực tế để học tốt, xét về mặt phương pháp thì phải có sự thống nhất của dạy với học, đồng thời cũng là sự thống nhất của 2 chức năng riêng của mỗi hoạt động: truyền dạy và chỉ đạo của giảng viên; tiếp thu và tự chỉ đạo của học viên. II. Nội dung cơ bản của phương pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại (Phương pháp giảng dạy tích cực) 2.1. Nội dung cơ bản của phương pháp giảng dạy truyền thống ưu điểm và hạn chế. Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp truyền tải trí thức đến người học bằng cách diễn giảng, thuyết trình, trong đó người giảng viên đóng vai trò trung tâm của toàn bộ quá trình đào tạo. Theo cách hiểu như trên thì phương pháp giảng dạy truyền thống dựa chủ yếu vào phương pháp thuyết trình thông báo tái hiện. Đây là phương pháp giảng dạy phổ biến và lâu đời nhất. Qua kinh nghiệm của quá trình giảng dạy, vai trò lời nói của giảng viên trong phương pháp thuyết trình có sức mạnh vô cùng to lớn, nó là công cụ để diễn đạt nội dung các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Lời nói cũng là nhân tố mạnh mẽ và hiệu quả nhất trong giáo dục tư tưởng, tình cảm…nó có thể khiến người học biết yêu, biết ghét, có thể tạo thành ý chí, niềm tin, tư tưởng cho người học. Những giá trị của phương pháp giảng dạy truyền thống: Phương pháp này cho phép giảng viên truyền đạt và xử lý một cách có hệ thống, nhất quán, chính xác ngay từ đầu những nội dung tương đối khó, phức tạp giảng viên dùng ngôn ngữ để diễn đạt một vấn đề khoa học sao cho chính xác, rõ ràng và súc tích, qua đó giúp học viên nắm bắt tri thức, phát triển trí tuệ. Về mặt tư tưởng và tình cảm, qua sự tiếp xúc trực tiếp và sức truyền cảm mạnh của ngôn ngữ cùng với toàn bộ nhân cách của giảng viên sẽ giúp người học hình thành những tư tưởng và tình cảm cao đẹp, lành mạnh, những niềm tin và hoài bão trong cuộc sống và công tác, phương pháp thuyết trình có thể được sử dụng trong nhiều điều kiện khác nhau, nó không cần phải có nhiều công cụ hỗ trợ phức tạp đắt tiền. 14
- Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy truyền thống có những mặt hạn chế Phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ đòi hỏi ở học viên một quá trình nhận thức có tính thụ động, ép buộc, nên học viên thiếu tính chủ động, sáng tạo trong học tập, dễ tạo cảm giác nhàm chán, ức chế, mệt mỏi đối với học viên. Phương pháp truyền thống thường thì chỉ tạo cho học viên đạt tới trình độ tái hiện của sự lĩnh hội tri thức, ít giúp cho sự phát triển tư duy, sáng tạo, tính tự lực và kỹ năng thực hành những nội dung tri thức được tiếp nhận. 2.2. Nội dung, giá trị và hạn chế của phương pháp giảng dạy hiện đại (tích cực). Phương pháp giảng dạy hiện đại là phương pháp định hướng tri thức cho người học bằng nhiều cách thức làm việc đa dạng và phong phú. Trong đó người học trở thành trung tâm của quá trình đào tạo. Có những phương pháp giảng dạy hiện đại được sử dụng trong giảng dạy những môn khoa học khác nhau. Tôi xin nêu một số phương pháp phù hợp nhất trong giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị như: Phương pháp hỏi đáp; phương pháp làm việc theo nhóm; phương pháp tình huống; phương pháp phỏng vấn chuyên gia; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề; phương pháp lấy ý kiến ghi trên bảng; phương pháp trực quan… Các phương pháp giảng dạy nêu trên có những đặc trưng chung giống nhau: Giảng dạy thông qua các hoạt động của học viên; Chú trọng việc rèn luyện phương pháp tự học; Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác; Kết hợp đánh giá của giảng viên với sự tự đánh giá của học viên. Như vậy, các phương pháp giảng dạy nêu trên có liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Do đó, giảng viên có thể vận dụng đồng thời các phương pháp đó trong quá trình giảng dạy. 2.2.1. Ý nghĩa và tác dụng của phương pháp giảng dạy hiện đại. Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, giảng viên đóng vai trò là người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập nên rút ngắn được thời gian giảng bài, giảng viên có nhiều thời gian đầu tư cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, mở rộng kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy. Với phương pháp giảng dạy này, học viên sẽ chủ động, sáng tạo hơn trong tiếp thu và xử lý các tri thức. Học viên vừa nắm được kiến thức, vừa nắm được phương pháp nắm bắt kiến thức đó để tự rèn luyện và phát triển cách tư duy và hành động độc lập, sáng tạo. Trong phương pháp giảng dạy này thì mọi người cùng tham gia, cùng chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trên tinh thần phân công và hợp tác chặt chẽ. Làm 15
- việc với phương pháp này còn có ý nghĩa là sự chuẩn bị năng lực thích ứng với công việc, với đời sống xã hội (Phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề…) Có thể nói, phương pháp giảng dạy hiện đại là cơ sở để phát huy tinh thần tự học và từng bước thực hiện chủ trương biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. 2.2.2. Một số hạn chế của phương pháp giảng dạy hiện đại. Phương pháp giảng dạy hiện đại đòi hỏi nhiều kỹ năng, nhiều thao tác trong giảng dạy, dễ dẫn đến sự ngắt quảng thiếu liên tục trong trao đổi thông tin. Điều này, gây khó khăn không nhỏ trong việc thay đổi phương pháp của giảng viên. Thực hiện đúng các yêu cầu của phương pháp giảng dạy tích cực, đòi hỏi phải có trang thiết bị, phòng học đúng quy cách và khá tốn kém. Tâm lý học viên thường có thói quen ỷ lại vào giảng viên; thiếu tính chủ động và ngại phát biểu ý kiến, ngại tranh luận. Đối với các lớp chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị Hành chính, Trung cấp Hành chính thì đối tượng học viên đa số là cán bộ chủ chốt ở cơ sở cho nên việc thực hiện một số phương pháp giảng dạy tích cực sẽ gặp khó khăn cho cả hai phía giảng viên lẫn học viên… Thông tin trao đổi mang tính nhỏ, lẻ, cụ thể, thiếu tính hệ thống ngay từ đầu, người học có thể tiếp thu dễ dàng nhưng gặp khó khăn trong liên kết thông tin, tính hệ thống của vấn đề. Phương pháp giảng dạy này giảm lượng thời gian giảng bài của giảng viên, nhưng nếu không tổ chức, điều khiển tốt sẽ rất mất thời gian cho các thao tác phụ như chia nhóm, gợi ý, chờ ý kiến phát biểu của học viên…Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng bài giảng. * Cần chú ý những phương tiện được sử dụng trong phương pháp giảng dạy hiện đại: Những phương pháp này bao gồm: Giấy khổ lớn, máy vi tính xách tay, máy chiếu hắt, máy 3M, màn chiếu, máy projector, các thiết bị khác,…mỗi loại có những ưu điểm và hạn chế riêng, nhưng nhìn chung khi sử dụng cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau đây: Nội dung bài giảng được cấu trúc rõ ràng, tập trung vào những thông tin cốt lõi, hạn chế hiểu sai chủ đề. Có thể sắp xếp lại bài giảng một cách dễ dàng và xem toàn bài trên màn hình, có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh sống động, thu hút được sự chú ý của học viên, có khả năng thực hành một kỹ năng cho đến khi học viên nắm vững vấn đề. 16
- Hỗ trợ cho buổi học trên lớp làm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng viên và trực quan hóa nội dung giảng dạy, giúp học viên tiếp thu dễ dàng và tham gia học tập một cách chủ động, tích cực. Tuy nhiên, khi sử dụng các phương tiện trên, giảng viên cần chú ý: Phải có nguồn điện ổn định, cũng như nguồn dự trữ bóng và cầu chì. Máy tính, máy chiếu projector rất đắt tiền, cho nên cần được bảo quản, bảo dưỡng tốt. Khi sử dụng các phương tiện nêu trên, giảng viên phải cơ cấu nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa, số liệu chứng minh cho phù hợp. Không được lạm dụng hình ảnh, âm thanh quá nhiều khi không thực sự cần thiết vì chính nó sẽ làm cho học viên không chú ý vào nội dung chính của bài giảng. III. Một số giải pháp có tính tham khảo để giảng viên nghiên cứu trong quá trình giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng ở trường Chính trị tỉnh Bình Phước. Trước hết, tôi xin khái lược về đặc điểm học viên của Trường Chính trị và kết quả bước đầu của việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên trường ta. * Đối tượng học viên của Trường không đồng đều về lứa tuổi, trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác. Học viên của Trường không thuần nhất cả về lứa tuổi, tâm lý, nghề nghiệp, trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác, khả năng nhận thức. Đa số họ chưa quen nhiều với cách học tập độc lập, ngại đọc sách. Các đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu bài giảng, đến sự cộng tác giữa học viên và giảng viên trong quá trình thực hành phương pháp giảng dạy hiện đại. Học viên thường là cán bộ chủ chốt ở cơ sở, là những người lớn tuổi có gia đình, vừa học vừa làm, hoặc là cán bộ trẻ hiểu biết về thực tiễn còn hạn chế. Tâm lý ngại phát biểu, tranh luận trước đám đông của hầu hết học viên là trở ngại lớn khi áp dụng giảng dạy bằng phương pháp, phương tiện hiện đại, đó là nguy cơ có thể xuất hiện sự bất hợp tác trong quá trình giảng dạy và học tập. Các lớp đào tạo ở tuyến huyện sẽ gặp khó khăn hơn về phương tiện hiện đại hỗ trợ. * Kết quả việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên: Hiện nay, giảng viên của Trường đã từng bước đưa phương pháp giảng dạy hiện đại vào bài giảng của mình theo hướng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp giảng dạy hiện đại. Nhìn chung, trong một bài giảng của giảng viên đã có sự vận dụng một số phương pháp và đã tránh được lỗi thuyết trình theo dạng độc thoại hay “thầy nói trò nghe, thầy đọc trò ghi” như trước đây. Chính sự đổi mới phương pháp này đã và 17
- đang góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong những năm gần đây. 3.1. Tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của toàn thể giảng viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp phương pháp truyền thống với phương pháp hiện đại. Để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn thể giảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, theo tôi thì cần thực hiện một số việc sau đây: Thứ nhất, cần tiến hành rà soát, kiểm tra lại để biết rõ số giảng viên chưa học tập về phương pháp giảng dạy hiện đại, chưa có chứng chỉ về phương pháp giảng dạy. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch đưa các giảng viên này dự các lớp học, lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc các cơ sở đào tạo khác; đồng thời có kế hoạch tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho tất cả giảng viên nhằm từng bước chuẩn hóa và nâng cao trình độ về phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên. Cho đến nay, đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có 21/22 giảng viên đã được tập huấn bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác. Thứ hai, thường xuyên phát động phong trào thi đua, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu và thi giảng về phương pháp giảng dạy trong giảng viên. Có thể coi hoạt động thi giảng về phương pháp như thi giảng viên giỏi, được tổ chức chặt chẽ, có đánh giá khen thưởng và như một nội dung thi đua hàng năm. Thứ ba, các khoa trong Trường và bản thân mỗi giảng viên có kế hoạch thường xuyên nghiên cứu tiếp cận, nắm bắt và vận dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Bản thân mỗi giảng viên cần cố gắng nhiều hơn, quyết tâm hơn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Coi việc đổi mới phương pháp giảng dạy chính là xây dựng và xác định uy tín, vị trí của người giảng viên. Từ đó mà có kế hoạch thường xuyên nghiên cứu tài liệu về phương pháp giảng dạy, dự giờ học hỏi kinh nghiệm, tham gia tốt các cuộc thi tìm hiểu về giảng dạy, về phương pháp. Thứ tư, cần tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên đề về phương pháp giảng dạy. Việc tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, không thể chỉ dựa vào các hoạt động chính thức, hoặc dựa hẳn vào sự quyết định chính thức của Ban Giám hiệu vì nó sẽ gây ra khó khăn về cả mặt kinh phí và thời gian hành chính của Trường. Vì vậy, Ban Giám hiệu có thể cho chủ trương, tạo điều kiện để phòng Khoa học Thông tin Tư liệu đứng ra thành lập câu lạc bộ giảng viên; động viên, khuyến khích giảng viên gia nhập câu lạc bộ theo cách thức tự nguyện. Tại câu lạc bộ, mọi giảng viên có thể trao đổi tất cả những vấn đề thuộc về chuyên môn và chính kiến, 18
- kinh nghiệm của mình trong công tác giảng dạy, qua đó đại diện câu lạc bộ có thể đề đạt ý kiến với HĐKH Trường về những vấn đề chuyên môn để được giải đáp và học tập thêm. 3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên sơ, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm trong quá trình đổi mới phương pháp giảng dạy. Ban Giám hiệu thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá chất lượng bài giảng của các khoa và giảng viên thông qua việc thành lập tổ chức dự giờ trên lớp (Trong năm học vừa rồi, trường ta đã làm việc này), quy định chế độ trách nhiệm báo cáo của các phòng, khoa về hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy (có thể quy định định kỳ phải báo cáo). Các Phó Hiệu trưởng trực tiếp theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện và báo cáo với Hiệu trưởng. Lãnh đạo các khoa, phòng coi việc dự giờ, theo dõi, đốc thúc, quản lý hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên là việc làm thường xuyên và có trách nhiệm báo cáo với Ban Giám hiệu về tiến độ và kết quả tổ chức thực hiện. Thực hiện kiểm tra hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên cần phải bắt đầu ngay từ khâu nghiên cứu chuẩn bị tài liệu, soạn bài, thực hành giảng bài trên lớp. Thực hiện kiểm tra bằng hình thức kiểm tra giáo án, kiểm tra chéo giáo án của giảng viên trong khoa, dự giờ trên lớp qua hoạt động của tổ dự giờ hoặc cá nhân, kiểm tra thông qua báo cáo của giảng viên trong việc thực hiện kế hoạch đổi mới phương pháp giảng dạy mà khoa đã phân công. Hoạt động sơ, tổng kết việc đổi mới phương pháp giảng dạy phải thực hiện từ các phòng, khoa, nhất là phòng đào tạo và các khoa. Các khoa thực hiện sơ kết qua cuộc họp sinh hoạt chuyên môn theo từng tháng và quý để làm cơ sở cho việc tổng kết hoạt động đổi mới phương pháp ở cấp Trường. Ban Giám hiệu Trường xây dựng kế hoạch tổng kết hoạt động đổi mới phương pháp, trong đó không chỉ yêu cầu về sự tổng kết của các khoa mà còn chú trọng các bài tham luận của giảng viên về cách thức, nội dung và những kinh nghiệm thực hiện kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp giảng dạy hiện đại. Qua tổng kết, phải có kết luận của Hiệu trưởng hay Chủ tịch Hội đồng khoa học về những kinh nghiệm có giá trị và được phổ biến đến toàn thể giảng viên để tiếp tục triển khai áp dụng. 3.3. Nâng cao tinh thần, trách nhiệm học tập và hướng dẫn các phương pháp học tập cho phù hợp với yêu cầu của phương pháp giảng dạy mới cho học viên. Thực hiện giải pháp này qua những công việc cụ thể sau: Một là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh về phương pháp giảng dạy và học tập. 19
- Đối với giảng viên, cần xác định đúng đối tượng học viên, nội dung cần truyền đạt và phương pháp phù hợp; phổ biến thấu đáo về phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu trong từng môn, phần học cho học viên. Đối với học viên, cần có sự tiếp cận, nắm bắt về phương pháp giảng dạy và học tập, nghiên cứu trong từng môn học, phần học một cách nghiêm túc như sự tìm tòi tri thức khoa học; nắm bắt đối tượng của môn học từ đó tìm ra phương pháp học tập, nghiên cứu phù hợp của mình. Hai là, quản lý giờ học và nghiên cứu của học viên. Quản lý giờ học tập và nghiên cứu của học viên là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác trong học tập, nghiên cứu của học viên. Để nâng cao trách nhiệm, ý thức tự giác trong học tập, nghiên cứu của học viên, cần phải quản lý hiệu quả của giờ học tập, nghiên cứu. Cách quản lý này hết sức cần thiết, giúp giảng viên nắm bắt những yếu tố thuộc phẩm chất và năng lực cá nhân của học viên, đánh giá được hiệu quả hoạt động dạy và học, để hướng đến việc điều chỉnh và cải tiến về mặt phương pháp. Đồng thời cách quản lý này cũng nhằm phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo và tự giác, phát huy vai trò trung tâm của học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống và hiện đại trong quá trình dạy học. Ba là, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của học viên qua các công việc, cụ thể như sau: Xác định mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Mục đích và động cơ học tập là một trong những nhân tố cơ bản tạo sự hưng phấn, say mê và tự giác có tác dụng thúc đẩy hoạt động học tập đạt kết quả cao. Việc xác định mục đích, động cơ học tập thực chất là hiểu biết và nắm chắc vai trò, tác dụng của việc học tập và về mặt lợi ích của người học. Mục đích học tập là dự kiến về kết quả của hoạt động học tập sẽ đạt được trong tương lai; còn động cơ học tập là ý chí quyết tâm hành động để đạt đến kết quả đó. Tự giác, chủ động, sáng tạo và độc lập trong hoạt động học tập, nghiên cứu. Tự học, tự nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc học, tiếp thu kiến thức, mà phải hướng đến giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân người học, tức giải quyết mâu thuẫn giữa cái biết và cái chưa biết, biểu hiện cụ thể trong từng nội dung kiến thức mà người học tiếp thu. Xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập phù hợp với phương pháp giảng dạy mới, qua các bước như: + Thực hiện tốt việc chuẩn bị trước khi nghe giảng: Đọc giáo trình; chuẩn bị trả lời các câu hỏi nhanh hay bài giảng trước. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "E-LEARNING VÀ VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở BẬC ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ"
6 p | 1143 | 76
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Phát huy dân chủ, tăng cường giám sát và phản biện xã hội để xây dựng sự đồng thuận và đại đoàn kết dân tộc "
12 p | 235 | 49
-
Đề tài: " CÔNG BẰNG XÃ HỘI, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐOÀN KẾT XÃ HỘI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM "
18 p | 202 | 38
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "VẤN ĐỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM"
35 p | 178 | 31
-
Báo cáo đề dẫn hội thảo: Thực trạng và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường trong trường phổ thông
239 p | 181 | 25
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Tôn Trung Sơn - Cách mạng Tân Hợi và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc "
2 p | 157 | 25
-
Báo cáo " Những khía cạnh tâm lí - xã hội về tình trạng phạm tội của người chưa thành niên"
4 p | 91 | 22
-
Báo cáo Đề dẫn Hội thảo Khoa học Quốc tế: Dạy học cho học sinh lớp 1 có khó khăn về đọc
437 p | 116 | 16
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN: KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM "
5 p | 84 | 13
-
Báo cáo "Hoạt động giám sát của Quốc hội "
8 p | 89 | 13
-
Báo cáo "Luật tục Jơrai và xã hội Jơrai "
4 p | 66 | 9
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học " Nho học với nền văn minh đương đại "
7 p | 48 | 6
-
Báo cáo " Những bản án, quyết định dân sự của toà án nhân dân được chủ động thi hành"
3 p | 46 | 5
-
Báo cáo "Nhân dân góp ý cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật "
4 p | 108 | 5
-
Báo cáo " Việc giải quyết đơn thư khiếu tố của dân trong xã hội phong kiến"
6 p | 77 | 4
-
Báo cáo kết quả Diễn đàn việc làm Việt Nam
28 p | 146 | 4
-
Báo cáo " Quyền và lực của Hội đồng nhân dân"
4 p | 49 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn