intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015

Chia sẻ: Tran Van Duy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:53

451
lượt xem
39
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015 tập hợp những bài tham luận về việc phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Phước như công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực tỉnh giai đoạn 2011 2015; thực trạng và giải pháp về công tác đào tạo, bồi dưỡng tại trường Chính trị tỉnh Bình Phước,... Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 - 2015

  1. BÁO CÁO ĐỀ DẪN  HỘI THẢO KHOA HỌC: Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi   dưỡng  góp phần thực hiện chương trình đột phá về đào tạo cán bộ và phát triển   nguồn nhân lực của tỉnh Bình Phước, giai đoạn 2011 ­ 2015 Trường Chính trị tỉnh Bình Phước là đơn vị  sự  nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy và   UBND tỉnh, đặt dưới sự  lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của Ban Thường vụ  Tỉnh ủy Bình Phước. Trường có nhiệm vụ  tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  lãnh  đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ công chức ở địa phương về lý   luận chính trị  ­ hành chính; đường lối, chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật  của Nhà nước; kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ  về  công tác xây dựng Đảng,  chính quyền, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị ­ xã hội; kiến thức về pháp   luật, quản lý Nhà nước và một số lĩnh vực khác như  đào tạo Trung cấp Luật, trung   cấp Hành chính. Đồng thời phối hợp đào tạo Cao cấp Lý luận Chính trị  ­ Hành  chính;  mở   các  lớp  Đại học   chuyên ngành  theo  yêu  cầu  đào  tạo  cán bộ   của  địa  phương. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ  được giao, trong những năm qua Trường  Chính trị tỉnh Bình Phước đã có nhiều chuyển biến tích cực trong hoạt động đào tạo,   bồi dưỡng và đạt những kết quả quan trọng cả về quy mô, số lượng và chất lượng  đào tạo, bồi dưỡng. Nhà trường xác định nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng luôn là mục tiêu   hàng đầu trong mọi hoạt động của nhà trường nhằm góp phần đào tạo một đội ngũ   cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có kiến thức   về lý luận chính trị ­ hành chính và chuyên môn, có kỹ năng lãnh đạo, quản lý, có tư  duy đổi mới với tầm nhìn xa và có khả  năng đoàn kết tập hợp lực lượng nhằm tổ  chức thực hiện thành công đường lối, chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật  của Nhà nước, các nghị  quyết của địa phương trên từng địa bàn. Đó là nhiệm vụ  quan trọng và nặng nề của nhà trường, nhiệm vụ đó đã được tập thể cán bộ, giảng   viên nhà trường tập trung thực hiện với những kết quả cụ thể như sau: Về  thực hiện nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng: Bám sát hướng  dẫn, quy định của Học viện Chính trị  ­ Hành chính Quốc gia Hồ  Chí Minh và Ban  Tuyên giáo Trung ương. Trong từng nội dung chương trình chú trọng truyền tải đến   học viên những kiến thức lý luận và thực tiễn, kỹ  năng lãnh đạo, quản lý phù hợp   với yêu cầu của tình hình mới. Đồng thời, cọi trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo  đức cách mạng và phong cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý cho học viên của nhà   trường. 1
  2. Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Trường Chính trị đã quan tâm đổi  mới phương pháp giảng dạy, coi trọng đối thoại giữa người dạy và người học;  thường xuyên yêu cầu học viên phải nỗ lực tự học và chú trọng vào bài giảng. Đội  ngũ giảng viên của nhà trường từng bước áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực   gắn với phương pháp truyền thống; sử  dụng, phối hợp linh hoạt các phương pháp   thuyết trình, phát vấn, xử  lý tình huống…nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động,  sáng tạo của người học. Việc tổ chức thao giảng, dự giờ, thi giảng viên giỏi được  nhà trường quan tâm tổ chức thường xuyên. Công tác nghiên cứu khoa học được nhà trường triển khai tích cực nhằm hỗ  trợ cho việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Các đề tài khoa học cấp khoa,   cấp trường, cấp tỉnh đều tập trung vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên  và giải quyết một số  vấn  đề  thực tiễn đặt ra  ở  địa phương gắn với nội dung,  chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ giảng viên của nhà trường phát triển không ngừng về  số  lượng và   chất lượng. Hiện nay trường có 49 cán bộ, giảng viên, nhân viên; trong đó có 21   giảng viên chuyên trách và 4 giảng viên kiêm chức chiếm 53%. Có 12 giảng viên có  trình độ thạc sỹ, 01 giảng viên đang chuẩn bị bảo vệ luận văn thạc sỹ và 01 giảng  viên mới thi tuyển đầu vào nghiên cứu sinh đạt kết quả  tốt; 02 giảng viên đã hoàn  thành học tập ngoại ngữ  đang chờ  đi học theo đề  án 165 của Trung  ương; 22/25   giảng viên đã được bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực. Tất cả  các lớp   bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên ngành, tập huấn chương trình, tài liệu mới  do Học viện Chính trị  ­ Hành chính Quốc gia Hồ  Chí Minh và Bộ  Nội vụ  tổ  chức  nhà trường đều cử giảng viên đi dự. Đồng thời để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi  dưỡng, nhà trường thường xuyên nhắc nhở, yêu cầu giảng viên cập nhật đường lối,  chủ trương, chính sách mới, kiến thức mới, kiến thức thực tiễn vào bài giảng, gắn  lý luận với thực tiễn trong quá trình giảng dạy. Đối với các chuyên đề, bài giảng có  tính chất chuyên ngành hoặc đòi hỏi người giảng viên phải có kinh nghiệm thực   tiễn, nhà trường phân công cho các đồng chí trong Ban Giám hiệu và mời báo cáo   viên của các ngành tham gia giảng dạy. Về  quản lý đào tạo, bồi dưỡng, nhà trường đã cụ  thể  hóa các quy chế, quy   định của Trung  ương, Học viện, của Tỉnh  ủy thành các quy chế, quy định, hướng   dẫn cụ  thể  để  quản lý chặt chẽ  quá trình dạy và học. Việc tổ  chức thi, kiểm tra,   đánh giá kết quả học tập của học viên được đổi mới từng bước theo hướng qua bài   thi, kiểm tra phải đánh giá được kiến thức lý luận, thực tiễn của học viên, sự  liên   hệ, vận dụng vào thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý  ở  cơ  sở. Nhất là việc viết   tiểu luận cuối khóa của chương trình Trung cấp Lý luận Chính trị  ­ Hành chính đã   giúp cho học viên biết phân tích, đánh giá, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn,  tổng kết thực tiễn và đề xuất các giải pháp để  giải quyết một vấn đề  cụ  thể  thực  tiễn đặt ra ở ngay cơ quan, địa phương, đơn vị. 2
  3. Về hình thức mở lớp: Nhà trường kết hợp cả hình thức đào tạo tập trung và   tại chức, tổ  chức mở  lớp tại trường và  ở  các huyện, thị, Đảng ủy trực thuộc; tạo  điều kiện cho cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng đồng bào dân  tộc vừa học vừa làm và khắc phục khó khăn về đi lại cho học viên. Đối với các lớp   mở  cho các doanh nghiệp, nhà trường vận dụng linh hoạt tổ  chức học ngoài giờ  hành chính để  tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo đảm công tác chuyên môn   của mình. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ của  Đảng và đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp, nhiều ngành. Trường  Chính trị tỉnh luôn phối hợp chặt chẽ với Ban Tổ chức Tỉnh  ủy, Sở Nội vụ ­ hai c ơ  quan chuyên trách tham mưu về công tác cán bộ của tỉnh; phối hợp với các ban Đảng  tỉnh; các sở  ngành, đoàn thể  liên quan khác; các huyện, thị, Đảng  ủy trực thuộc,   trung tâm Bồi dưỡng chính trị  để  xây dựng kế  hoạch đào tạo, bồi dưỡng, duyệt  sinh, chuẩn bị  về  cơ  sở  vật chất, tổ  chức giảng dạy. Đồng thời, nhà trường cũng   phối hợp với các Học viện, các trường Đại học để  tổ  chức học tập, quản lý học  viên đối với các lớp Cao cấp LLCT – HC và Đại học chuyên ngành đặt tại Trường  chính trị  tỉnh. Sự  phối hợp đó là một trong những yếu tố  quan trọng giúp cho nhà   trường nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc nâng cao chất lượng đào tạo, bồi  dưỡng ở Trường Chính trị còn một số khó khăn, vướng mắc và hạn chế; trong đó có   cả những tác động của yếu tố khách quan và chủ quan. Đó là: Thứ nhất, chương trình đào tạo Trung cấp LLCT ­ HC chậm được đổi mới và  cập nhật những kiến thức mới, chủ  trương, đường lối, chính sách mới trên nhiều  lĩnh vực. Giảng viên tự  cập nhật lại tùy thuộc vào trách nhiệm, trình độ, năng lực  của mỗi người nên không bảo đảm sự  thống nhất về  kiến thức chung trong cả  nước. Hiện nay có bài trong chương trình phải thay đổi, cập nhật từ  30 đến 40 %   kiến thức. Các chương trình bồi dưỡng theo chức danh do Bộ  Nội vụ  biên soạn quá  chậm, các chương trình bồi dưỡng khác còn thiếu. Vì vậy, nội dung một số lớp bồi  dưỡng mở tại trường chủ yếu do nhà trường phối hợp với các đơn vị liên quan chọn  và biên soạn theo yêu cầu công việc phối hợp liên kết với các đơn vị khác mở lớp. Thứ   hai,   về   phương   pháp   giảng   dạy   trong   nhà   trường   vẫn   còn   nặng   về  thuyết trình, chưa áp dụng một cách thực sự  hiệu quả  phương pháp giảng tích cực  nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, sáng tạo của học viên. Một số  giảng viên   chưa biết cách tổ chức thảo luận cho thật sự hiệu quả, chưa đưa ra được những bài   tập tình huống về kỹ năng lãnh đạo, quản lý phù hợp với yêu cầu hiện nay. Trong  khi đó, nhiều học viên còn rất thụ động trong quá trình lên lớp cũng như  thảo luận.   Một số học viên chưa xác định đúng động cơ, mục đích học tập, có biểu hiện học  để  đủ  điều kiện đề  bạt, bổ  nhiệm; học cho có bằng cấp để  chuyển ngạch, lên  3
  4. lương. Điều đó cũng tác động không nhỏ  đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của  nhà trường. Thứ ba, đội ngũ giảng viên nhà trường ­ lực lượng quyết định chất lượng đào  tạo, bồi dưỡng thiếu về  số lượng, đa số  còn trẻ, hạn chế  về  kiến thức thực tiễn,   kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy…còn khoảng 50% giảng viên trẻ  chưa   được đào tạo về Cao cấp LLCT ­ HC. Một số giảng viên chưa thật sự chuyên tâm,  tận tuy, trách nhiệm đầu tư  cho nghiên cứu, soạn giáo án và rèn luyện kỹ  năng,  phương pháp sư phạm; chưa thường xuyên cập nhật kiến thức thực tiễn, đường lối,  chính sách mới, chủ trương mới vào bài giảng. Thứ tư, hoạt động nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ  bắt buộc đối với giảng  viên để  bổ  trợ  kiến thức cho bài giảng, góp phần tổng kết thực tiễn và giải quyết   những vấn đề nổi cộm, bức xúc ở  địa phương. Điều đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng  viên Trường Chính trị  phải không ngừng nâng cao nhận thức về  trách nhiệm của   bản thân đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, không ngừng nâng cao chất lượng   đề tài nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào bài giảng. Tuy nhiên, việc tham gia của giảng viên chưa đồng đều, chất lượng nghiên  cứu khoa học còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. Thứ năm, về hình thức đào tạo, bồi dưỡng, do yêu cầu của nhiều huyện, thị,   Đảng ủy trực thuộc, nhà trường mở nhiều lớp hệ B đặt tại các địa phương, đơn vị;   số  lớp đào tạo tập trung tại Trường còn ít. Do đó, việc quản lý quá trình học tập   của học viên gặp nhiều khó khăn, ở một số nơi chưa có biện pháp phối hợp quản lý  tích cực, hiệu quả nên ảnh hưởng không nhỏ đến cả chất lượng dạy và chất lượng  học. Thứ  sáu, về  chế  độ, chính sách đối với cán bộ, giảng viên Trường chính trị  tỉnh, thành phố chưa thỏa đáng, còn nhiều vướng mắc và bất hợp lý do các quy định  của Trung ương và Chính phủ dẫn đến tình trạng: Phụ cấp ưu đãi ngành 45% không  còn đúng với ý nghĩa  ưu đãi; bộ  phận cán bộ, nhân viên  ở  các phòng của Trường  Chính trị  ngoài phần hỗ trợ  của nhà trường không có bất cứ  một chế  độ  nào khác   trong khi vẫn phải thực hiện mọi nhiệm vụ như một công chức bình thường ở  các   cơ quan khác. Cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường chưa thật sự yên tâm và tự  bươn chải, tự lo thêm cuộc sống phần nào cũng chi phối đến hiệu quả công tác đào  tạo, bồi dưỡng. Cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập vừa   thiếu, vừa lạc hậu, xuống cấp, thư viện nhà trường chưa được đầu tư tương xứng. Thứ  bảy, sự  phối hợp giữa các cấp, các ngành liên quan có lúc, có nơi, có   việc thiếu chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất; còn chồng chéo do chưa phân biệt rõ chức  năng, nhiệm vụ  của từng cơ  quan với cơ  sở   đào tạo, bồi dưỡng. Việc phối hợp   trong công tác xây dựng kế  hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm vừa chậm, vừa   chưa đồng bộ  và thống nhất dẫn đến bị  động trong tổ  chức đào tạo, bồi dưỡng và  4
  5. ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cũng như  chất lượng công tác quản   lý đào tạo, bồi dưỡng. Một số cơ quan, đơn vị  có cán bộ  đi học chưa kết hợp chặt  chẽ với nhà trường trong quản lý học viên. Để  giải quyết những khó khăn, vứng mắc và hạn chế  yếu kém nêu trên; tại   Hội thảo  này tôi đề  nghị  các đại biểu tập trung làm rõ một số  nội dung theo các   nhóm vấn đề sau: 1. Về  phương pháp giảng dạy: làm rõ những yêu cầu và biện pháp đổi mới   phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng theo hướng:   Áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, phát huy vai trò của người thầy và phát   huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên, gắn lý luận với thực tiễn, học   với hành. 2. Về  xây dựng nguồn nhân lực: Việc xây dựng đội ngũ giảng viên cần có  những giải pháp gì để xây dựng đội ngũ giảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,   phong cách đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ chuyên môn, lý luận chính trị,  có kiến thức thực tiễn và có kỹ năng, phương pháp giảng dạy tốt. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên các phòng, khoa đáp ứng yêu cầu nhiệm   vụ. 3. Các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên   cứu thực tế góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. 4. Quản lý đào tạo, bồi dưỡng trong nhà trường: Đề  xuất các biện pháp tổ  chức thực hiện các quy chế, quy định; các hình thức mở  lớp, cách thức quản lý  giảng viên và học viên trong quá trình giảng dạy và học tập để  không ngừng nâng   cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. 5. Công tác phối hợp: Đánh giá, đề  xuất các giải pháp tăng cường công tác   phối hợp giữa Trường Chính trị  tỉnh với các cấp, các ngành trong quá trình đào tạo,  bồi dưỡng. 6. Từ  nhiều góc độ  khác nhau, tập trung phân tích rõ các nguyên nhân chủ  quan, khách quan, bên trong, bên ngoài dẫn đến những khó khăn vướng mắc, hạn   chế về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  như  đã nêu ở  phần trên. Đồng thời,   cần đề  xuất, kiến nghị với các cấp có thẩm quyền về  nội dung, chương trình, chế  độ  chính sách, cơ  chế để  tháo gỡ  những khó khăn vướng mắc hiện nay trong công  tác đào tạo, bồi dưỡng. Nâng   cao  chất   lượng   đào   tạo,   bồi   dưỡng,   góp   phần  thực   hiện   thắng   lợi  chương trình đột phá về  đào tạo cán bộ  và phát triển nguồn nhân lực do Đại hội   Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra là nhiệm vụ cấp thiết trong tình hình hiện nay; nhất  là trong điều kiện số  lượng cán bộ  cấp cơ  sở   ở  tỉnh Bình Phước đang cần được  chuẩn hóa chiếm tỷ  lệ  cao và trong bối cảnh Đảng bộ  tỉnh Bình Phước đang cùng  5
  6. với toàn Đảng triển khai thực hiện Nghị  quyết Trung  ương 4 khóa XI một số  vấn  đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Hội thảo của chúng ta là một hoạt động thiết thực và có ý nghĩa quan trọng.   Tôi đề  nghị  mỗi đại biểu dự  Hội thảo hãy tích cực phát huy tinh thần trách nhiệm   và trí tuệ của mình, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng  nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh nhà ngày càng   vững mạnh; có đủ  sức, đủ  tầm, đủ  năng lực và uy tín lãnh đạo thực hiện thắng lợi   nhiệm vụ  chính trị  được giao; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị  quyết Đại hội  Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng. TRƯỞNG BAN TỔ CHỨC HỘI THẢO HIEÄU TRÖÔÛNG ThS. Nguyễn Thị Lan Hương 6
  7. CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG  CHỨC VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỈNH GIAI ĐOẠN 2011­2015 Người viết tham luận: Lê Ngọc Mừng ­ Phó Trưởng phòng  Đào   tạo   Sở   Nội   vụ   tỉnh   Bình  Phước  Kính thưa quý vị đại biểu!  Kính thưa Hội nghị ! Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức là công việc mà đòi hỏi các cấp,   các ngành phải thực hiện thường xuyên và liên tục, nhằm đáp  ứng tiêu chuẩn của  từng ngạch công chức và chức danh cán bộ quản lý; trang bị những kiến thức và kỹ  năng cơ bản, bổ  sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ  và quản lý nhà nước nhằm   xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ,  có trình độ  năng lực đáp  ứng yêu cầu kiện toàn và nâng cao hiệu quả  của bộ  máy  quản lý nhà nước; tiếp tục thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình cải cách   hành chính nhà nước.  Kính thưa Hội nghị! Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về đào tạo, bồi dưỡng và   phát triển nguồn nhân lực, cấp  ủy đảng các cấp đã tập trung chỉ  đạo và đẩy mạnh  tổ chức thực hiện trong toàn tỉnh. Từ đó tạo được những chuyển biến tích cực trong   công tác quy hoạch cán bộ  gắn với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  công chức. Để  cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX, Tỉnh  ủy,  Ủy ban nhân dân   tỉnh đã ban hành hàng loạt văn bản như: Chương trình đột phá số  12­CTr/TU ngày  02/8/2011 của Tỉnh  ủy về đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Quyết định  số  2728/QĐ­UBND ngày 07/12/2011 của UBND tỉnh về  việc phê duyệt Kế  hoạch  đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh giai đoạn 2011­2015; Quyết định thành  lập Ban Chủ nhiệm đề tài đào tạo cán bộ và phát triển nguồn nhân lực; Nghị quyết   số  25/2011/NQ­HĐND ngày 16/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh về  chính sách  đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn nhân   lực trên địa bàn tỉnh; Quyết định số  73/2011/QĐ­UBND ngày 21/12/2011 về  chính  sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  công chức, viên chức; thu hút và phát triển nguồn  nhân lực trên địa bàn tỉnh.  Kính thưa Hội nghị! 7
  8. Trong 5 năm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tỉnh   giai đoạn 2006­2010 thì tổng số  cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là   11.979 lượt người, trong đó: ­ Cấp tỉnh là 4.569 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị  là 654, Quản lý nhà nước là 1.618, Chuyên môn nghiệp vụ là 641, ngoại ngữ 44, kỹ  năng 1.612); ­ Cấp huyện là 1.802 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính   trị là 510, Quản lý nhà nước là 259, Chuyên môn nghiệp vụ là 300, kỹ năng là 733); ­ Cấp xã là 5.246 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị  là 456, Quản lý nhà nước là 797, Chuyên môn nghiệp vụ  là 1.559, tin học 112, kỹ  năng 2.322); ­ Các đơn vị  ngành dọc của TW đóng trên địa bàn tỉnh và cán bộ  các doanh   nghiệp nhà nước của tỉnh là 362 lượt cán bộ  được đào tạo, bồi dưỡng (Chính trị  là   50, Quản lý nhà nước là 43, Chuyên môn nghiệp vụ là 107, kỹ năng 162). Theo kết quả trên cho thấy, trong 5 năm qua tỉnh chú trọng vào hai đối tượng   chính là cán bộ, công chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ công chức cấp   xã, việc đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực hoạt động  của hai đối tượng này có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,  hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.  Kính thưa Hội nghị! Trong quá trình thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công  chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011­2015, theo tôi cần bám sát  một số quan điểm sau: Thứ  nhất, tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ  bản về  xây dựng đội ngũ   cán bộ theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII. Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán   bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ  quan trọng, cần thiết đáp   ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu  nhiệm vụ trong tình hình mới. Phát triển nguồn nhân lực vừa là nhân tố  quyết định,   đồng thời cũng là động lực phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ  hai,  cần đầu tư  cho Giáo dục ­ đào tạo để  đáp  ứng nguồn nhân lực có   trình độ chuyên môn cao, nhằm từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính kế  thừa và liên tục, đáp ứng yêu cầu đối với các chức danh chủ chốt từ tỉnh đến cơ sở. Thứ  ba,  công tác đào tạo, bồi dưỡng phải xuất phát từ  yêu cầu, nhiệm vụ  chính trị của từng cơ quan, đơn vị. Thực hiện đầy đủ, công bằng, hợp lý chính sách  thu hút nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, xây dựng kế hoạch, quy hoạch đào tạo   cán bộ, công chức một cách khoa học, bồi dưỡng một cách có hệ thống đội ngũ cán  bộ chủ chốt ở cơ sở. 8
  9. Thứ tư, xã hội hóa công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực,  trong đó cán bộ, công chức là đảng viên phải là những người tiên phong đi trước để  cán bộ, công chức noi theo.  Kính thưa Hội nghị! Để  thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức và   phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011­2015, tôi xin đề xuất một số giải   pháp như sau: Một là, phải xác định rõ nhiệm vụ  đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là  trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp; Hai là, khi xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cần phải bám sát với quy  hoạch cán bộ; Ba là,  công tác đào tạo, bồi dưỡng phải gắn liền với việc sử  dụng sau đào  tạo; Bốn là,  việc đào tạo, bồi dưỡng phải theo quy hoạch, không chạy theo số  lượng, thành tích; Năm là, phối hợp chặt chẽ với các cơ  quan, đơn vị  có liên quan, liên kết với   các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng; Sáu là, tổ  chức bồi dưỡng nghiệp vụ  cho cán bộ, công chức phụ  trách công  tác đào tạo, bồi dưỡng của các sở, ngành tỉnh, UBND các huyện, thị xã;  Bảy là, kiện toàn, cũng cố hệ thống các trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng   (cơ sở đào tạo, bồi dưỡng) ở địa phương. Trên đây là một số ý kiến tham luận về kết quả đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn  2006­2010 và những quan điểm, giải pháp công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán  bộ, công chức và phát triển nguồn nhân lực của tỉnh giai đoạn 2011­2015 mà tôi đang   công tác. Trong bài tham luận của tôi vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được   những lời góp ý của các đồng nghiệp phụ trách lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng. Cuối cùng, một lần nữa tôi xin kính chúc các quý vị  đại biểu sức khỏe, chúc   hội thảo thành công tốt đẹp.  Xin chân thành cảm ơn./. 9
  10. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ CÔNG TÁC  ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC Nguyễn Văn Hậu ­ Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị  tỉnh có chức năng, nhiệm vụ  tổ  chức đào tạo, bồi dưỡng   cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ  thống chính trị  cấp cơ sở, cán bộ  công chức ở  địa   phương về lý luận Chính trị  ­ Hành chính, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,   chính sách pháp luật của nhà nước; kiến thức chuyên môn nghiệp vụ  về  công tác  xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận tổ  quốc và các đoàn thể  chính trị  ­ xã hội;  kiến thức về  pháp luật và quản lý nhà nước. Đồng thời tổ  chức nghiên cứu khoa  học tổng kết thực tiễn, cập nhật những vấn đề  mới bổ  sung vào nội dung đào tạo,   bồi dưỡng cán bộ. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của trường chính trị  tỉnh là cán bộ  lãnh đạo   quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể  nhân dân cấp cơ  sở; trưởng phó phòng,  ban, ngành, đoàn thể cấp huyện và tương đương; trưởng phó phòng của các sở, ban  ngành đoàn thể cấp tỉnh, cán bộ dự nguồn của các chức danh trên và đội ngũ cán bộ  công chức cơ sở và một số các đối tượng khác theo nhu cầu thực tế. Trong những năm qua Trường Chính trị  tỉnh Bình Phước đã bám sát chức  năng, nhiệm vụ, quán triệt nghị quyết của Tỉnh ủy và sự chỉ đạo của UBND tỉnh về  nhiệm vụ  đào tạo, bồi dưỡng cán bộ  của tỉnh; căn cứ  hướng dẫn của Học viện   Chính trị  ­ Hành chính quốc gia Hồ  Chí Minh để  xây dựng kế  hoạch, cụ  thể  hóa  mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng. Phối hợp với các ban ngành chức năng tổ  chức đào   tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt được kết quả rất khả quan. Sau 15 năm thành lập, trường đã tổ  chức đào tạo, bồi dưỡng được 54 lớp  trung cấp Chính trị; trung cấp Hành chính; trung cấp Lý luận Chính trị  ­ Hành chính  với tổng số gần 7000 học viên; liên kết đào tạo được 17 lớp đại học và Cao cấp Lý   luận Chính trị ­ Hành chính với gần 2000 học viên; tổ chức bồi dưỡng 57 lớp chuyên  viên và một số lớp bồi dưỡng chức năng nghiệp vụ  khác theo yêu cầu thực tế  của   nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn với trên 6000 học viên. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Trường đã tuân thủ  nghiêm túc những   quy định, hướng dẫn về nội dung, thời gian và đối tượng của Học viện Chính trị   ­  Hành chính Quốc gia Hồ  Chí Minh, đồng thời nhà trường cũng đã xây dựng được  một bộ quy chế theo thẩm quyền để bảo đảm công tác quản lý và tổ chức thực hiện  chức năng nhiệm vụ  ngày một tốt hơn. ông tác kiểm tra, thi đánh giá chất lượng,   công nhận tốt nghiệp được tiến hành nghiêm túc theo đúng quy định của Học viện  Trên cơ sở giáo trình chuẩn của Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,  đối với các lớp Trung cấp Lý luận Chính trị­ Hành chính, và các lớp bồi dưỡng  10
  11. chuyên viên; nhà trường luôn quan tâm bổ  sung   những vấn đề  mới vào quá trình  giảng dạy, nhất là các quan điểm đường lối, nghị quyết của Đảng, những quy định   của nhà nước mới ban hành; cập nhật những kiến thức thực tế; tình hình kinh tế  xã  hội của địa phương phục vụ quá trình đào tạo, bồi dưỡng của trường. Phương pháp giảng dạy có những đổi mới đáng kể, đã từng bước tiếp cận  với phương pháp giảng dạy mới, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Ban Giám  hiệu nhà trường đã rất quan tâm đến chất lượng bài giảng của giảng viên. Thông  qua Hội đồng khoa học của nhà trường, công tác thao giảng, dự  giờ, đánh giá kết  quả giảng dạy của giáo viên được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc nhờ đó đã có  những điều chỉnh kịp thời, chính xác bổ  sung những vấn đề  mới, nâng cao chất  lượng bài giảng của giảng viên. Công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng và công nhận tốt nghiệp có nhiều tiến   bộ, từng bước chặt chẽ, chính xác, không để xẩy ra những tiêu cực. Công tác quản lý học viên ngày một tốt hơn. Đã có sự  phối hợp giữa nhà  trường; cơ quan quản lý cán bộ và đơn vị công tác của học viên trong công tác quản   lý theo giõi học viên trong quá trình học tập tại trường. Tuy nhiên, quá trình tổ  chức thực hiện nhiệm vụ   đào tạo, bồi dưỡng tại  Trường Chính trị vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nội dung trong các chương trình còn nặng về lý luận, kiến thức thực tế và kỹ  năng hoạt động còn hạn chế. Việc bổ sung cập nhật những vấn đề mới kể cả về lý  luận và thực tiễn có được tiến hành nhưng còn khiêm tốn. Hạn chế  này vừa mang  tính khách quan và chủ quan. Về  mặt khách quan là nội dung trong các chương trình   đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị phụ thuộc cơ bản vào giáo trình chuẩn của   Học viện Chính trị­ Hành chính Quốc gia Hồ  Chí Minh. Tuy nhiên theo đánh giá  chung, giáo trình của Học viện phát hành vẫn cần điều chỉnh một số nội dung, nhất  là trong chương trình trung cấp Lý luận Chính trị ­ Hành chính. Bên cạnh đó, sự thay  đổi nhanh chóng của quá trình phát triển kinh tế xã hội, hiện thực ở  cơ sở còn nảy  sinh nhiều vấn đề  mới cần có sự  tổng kết, bổ  sung vào lý luận và kiến thức thực   tiễn phục vụ  cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhưng quá trình này được  tiến hành chậm, chưa kịp thời. Trên thực tế  để  thay đổi nội dung của các chương  trình là một quá trình đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức. Về yếu tố chủ quan,  là sự  chủ  động nắm bắt những vấn đề  mới sâu sát thực tế  của mỗi cán bộ, giảng   viên làm công tác giảng dạy còn  thụ động. Phương pháp giảng dạy và học tập  ở  Trường Chính trị  về  cơ  bản vẫn theo   phương pháp truyền thống, chú trọng về thuyết giảng một chiều, chưa tạo được sự  chủ  động nhận thức về  phía học viên; vận dụng phương pháp dạy học mới chưa   toàn diện. 11
  12. Số lượng học viên ở một số lớp đào tạo và bồi dưỡng còn đông, ảnh hưởng   đến chất lượng chung; sự  phối hợp giữa nhà trường, cơ  quan quản lý cán bộ, cơ  quan sử dụng cán bộ trong quản lý học viên chưa thực sự thường xuyên. Thái độ học tập của một bộ phận học viên thiếu tích cực, thụ động có những  biểu hiện đối phó, chưa có sự  tập trung cao cho học tập. Nội dung đào tạo chưa đi   sâu được với  từng đối tượng khác nhau, còn chung chung. Từ  đánh giá khái quát một số  thực trạng trên. Xin đề  xuất một số  giải pháp  sau: Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng  ở  Trường Chính trị cần tăng cường cập  nhật những quan điểm chủ  truơng của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước   mới ban hành; những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đã được tổng kết; những kinh   nghiệm tốt trong quá trình hoạt động của hệ thống chính trị. Thực hiện tốt mối quan   hệ  biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Đối với nội dung của các lớp bồi dưỡng   nên tăng cường hơn nữa về kỹ năng hoạt động, giảm bớt phần lý luận, đặc biệt là   tránh trùng lặp kiến thức, cụ thể như trong chương trình bồi dưỡng các lớp chuyên   viên. Về  phương pháp giảng dạy, cần đổi mới theo hướng tăng cường tính chủ  động của người học, tạo điều kiện để  người học tham gia nhiều hơn vào quá trình  giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình nhận thức. Không ngừng nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng, làm tốt công tác thao  giảng, dự  giờ  đối với giảng viên, nhất là các giảng viên mới. Đổi mới công tác đi  thực tế của giảng viên theo hướng khoa học, thiết thực, hiệu quả. Tăng cường công tác quản lý học viên phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường,  cơ  quan quản lý cán bộ  và cơ  quan chủ  quản của học viên, để  quản lý học viên  trong quá trình học tập tại Trường Chính trị. Số lượng học viên của mỗi lớp nên duy trì  ở mức 70 ­ 80 học viên, không   nên tổ  chức những lớp quá đông (trừ  những lớp có tính đặc thù). Nâng cao chất  lượng đầu vào của học viên, hạn chế tối thiểu tình trạng học viên không đủ  chuẩn  tham gia các lớp đào tạo. Tăng cường các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể  dục thể  thao, tạo sự  giao   lưu lành mạnh giữa học viên với học viên, học viên với giảng viên. Xây dựng môi  trường sư phạm tốt xứng đáng là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tỉnh. 12
  13.  ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY  LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH BÌNH PHƯỚC ThS. Nguyễn Văn Quyết ­ Phó Hiệu trưởng. Bài tham luận này là nhằm trao đổi kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy  lý luận chính trị  của Trường, góp phần định hướng cho công tác giảng dạy cho   những năm tới bảo đảm cho yêu cầu về chất lượng giảng dạy; đồng thời thông qua   bài tham luận, có thể giúp cho đội ngũ giảng viên Trường Chính trị tỉnh Bình Phước  nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc đòi hỏi phải đổi mới tích cực về  phương pháp giảng dạy trong thời gian tới. Qua đó, từng bước nâng cao chất lượng   đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường. Để  thực hiện tốt yêu cầu trên, đòi hỏi đội ngũ làm công tác nghiên cứu và   giảng dạy của Trường Chính trị  tỉnh Bình Phước phải có kiến thức, biết vận dụng   linh hoạt các phương pháp giảng dạy (chủ  yếu là hai phương pháp: Phương pháp  truyền thống và phương pháp hiện đại) và kết hợp giữa các phương pháp một cách  hợp lý để đem lại chất lượng trong từng bài giảng. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại là một vấn đề đã được   đặt ra từ khá lâu đối với ngành Giáo dục­ Đào tạo ở nước ta nói chung, với hệ thống   Học viện Chính trị  ­ Hành chính Quốc gia Hồ  Chí Minh đã tổ  chức nhiều lớp tập  huấn về phương pháp giảng dạy tích cực cho giảng viên thuộc các trường chính trị  tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong bài tham luận “Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị  ở   Trường Chính trị tỉnh Bình Phước”, tôi xin tập trung trao đổi một số nội dung về  việc sử dụng và sự kết hợp giữa hai phương pháp giảng dạy: Phương pháp truyền   thống và phương pháp hiện đại (phương pháp tích cực), làm rõ mặt tích cực và hạn  chế của từng phương pháp giảng dạy; đề  xuất một số giải pháp thực hiện phương  pháp truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại trong hoạt động giảng dạy  của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước. I. Khái niệm về phương pháp và phương pháp dạy học: 1.1. Khái niệm phương pháp: Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện  đạt tới những mục đích nhất định trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. 1.2. Khái niệm phương pháp dạy học: Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của giảng viên và của học viên   trong sự phối hợp thống nhất với sự chỉ đạo, điều hành của người giảng viên, nhằm   làm cho học viên tự giác, tự lực và tích cực đạt tới mục đích học tập ­ lĩnh hội được  những nội dung tri thức của người giảng viên truyền đạt. 13
  14. ­ Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học (2  phương pháp này hoạt động khác nhau về đối tượng nhưng thống nhất với nhau về  mục đích. Trong sự thống nhất này, phương pháp dạy học đóng vai trò chủ đạo, còn   phương pháp học có tính độc lập tương đối nhưng chịu sự  chi phối của phương   pháp dạy). ­ Phương pháp dạy và phương pháp học đều có 2 chức năng: + Phương pháp dạy có 2 chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. + Phương pháp học có 2 chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo. Trong thực tế để học tốt, xét về mặt phương pháp thì phải có sự thống nhất  của dạy với học, đồng thời cũng là sự  thống nhất của 2 chức năng riêng của mỗi  hoạt động: truyền dạy và chỉ  đạo của giảng viên; tiếp thu và tự  chỉ  đạo của học   viên. II.   Nội   dung   cơ   bản   của   phương   pháp   giảng   dạy   truyền   thống   và  phương pháp giảng dạy hiện đại (Phương pháp giảng dạy tích cực) 2.1. Nội dung cơ  bản của phương pháp giảng dạy truyền thống ­  ưu   điểm và hạn chế. ­ Phương pháp giảng dạy truyền thống là phương pháp truyền tải trí thức  đến người học bằng cách diễn giảng, thuyết trình, trong đó người giảng viên đóng   vai trò trung tâm của toàn bộ quá trình đào tạo. Theo cách hiểu như  trên thì phương pháp giảng dạy truyền thống dựa chủ  yếu vào phương pháp thuyết trình thông báo ­ tái hiện. Đây là phương pháp giảng   dạy phổ biến và lâu đời nhất. Qua kinh nghiệm của quá trình giảng dạy, vai trò lời nói của giảng viên trong   phương pháp thuyết trình có sức mạnh vô cùng to lớn, nó là công cụ để diễn đạt nội   dung các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Lời nói cũng là nhân tố mạnh mẽ  và hiệu quả  nhất trong giáo dục tư  tưởng, tình cảm…nó có thể  khiến người học   biết yêu, biết ghét, có thể tạo thành ý chí, niềm tin, tư tưởng cho người học. ­ Những giá trị  của phương pháp giảng dạy truyền thống: Phương pháp này  cho phép giảng viên truyền đạt và xử lý một cách có hệ thống, nhất quán, chính xác  ngay từ đầu những nội dung tương đối khó, phức tạp ­ giảng viên dùng ngôn ngữ để  diễn đạt một vấn đề khoa học sao cho chính xác, rõ ràng và súc tích, qua đó giúp học   viên nắm bắt tri thức, phát triển trí tuệ. Về  mặt tư  tưởng và tình cảm, qua sự  tiếp   xúc trực tiếp và sức truyền cảm mạnh của ngôn ngữ cùng với toàn bộ nhân cách của   giảng viên sẽ giúp người học hình thành những tư tưởng và tình cảm cao đẹp, lành   mạnh, những niềm tin và hoài bão trong cuộc sống và công tác, phương pháp thuyết   trình có thể  được sử  dụng trong nhiều điều kiện khác nhau, nó không cần phải có  nhiều công cụ hỗ trợ phức tạp đắt tiền. 14
  15. ­ Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy truyền thống có những mặt hạn chế Phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ  đòi hỏi  ở  học viên một quá trình  nhận thức có tính thụ  động, ép buộc, nên học viên thiếu tính chủ  động, sáng tạo  trong học tập, dễ  tạo cảm giác nhàm chán,  ức chế, mệt mỏi  đối với học viên.   Phương pháp truyền thống thường thì chỉ tạo cho học viên đạt tới trình độ  tái hiện   của sự lĩnh hội tri thức, ít giúp cho sự phát triển tư  duy, sáng tạo, tính tự  lực và kỹ  năng thực hành những nội dung tri thức được tiếp nhận. 2.2. Nội dung, giá trị  và hạn chế  của phương pháp giảng dạy hiện đại  (tích cực). Phương pháp giảng dạy hiện đại là phương pháp định hướng tri thức cho  người học bằng nhiều cách thức làm việc đa dạng và phong phú. Trong đó người  học trở  thành trung tâm của quá trình đào tạo. Có những phương pháp giảng dạy  hiện đại được sử dụng trong giảng dạy những môn khoa học khác nhau. Tôi xin nêu   một số  phương pháp phù hợp nhất trong giảng dạy các bộ  môn lý luận chính trị  như: Phương pháp hỏi ­ đáp; phương pháp làm việc theo nhóm; phương pháp tình   huống; phương pháp phỏng vấn chuyên gia; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề;  phương pháp lấy ý kiến ghi trên bảng; phương pháp trực quan… Các phương pháp giảng dạy nêu trên có những đặc trưng chung giống nhau: ­ Giảng dạy thông qua các hoạt động của học viên; ­ Chú trọng việc rèn luyện phương pháp tự học; ­ Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác; ­ Kết hợp đánh giá của giảng viên với sự tự đánh giá của học viên. Như  vậy, các phương pháp giảng dạy nêu trên có liên quan mật thiết với   nhau, hỗ  trợ  lẫn nhau. Do đó, giảng viên có thể  vận dụng đồng thời các phương   pháp đó trong quá trình giảng dạy. 2.2.1. Ý nghĩa và tác dụng của phương pháp giảng dạy hiện đại. ­ Khi áp dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại, giảng viên đóng vai trò là   người tổ chức, hướng dẫn quá trình học tập nên rút ngắn được thời gian giảng bài,   giảng viên có nhiều thời gian đầu tư cho nghiên cứu khoa học, nghiên cứu các vấn   đề có tính lý luận và thực tiễn, mở rộng kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy. ­ Với phương pháp giảng dạy này, học viên sẽ chủ động, sáng tạo hơn trong   tiếp thu và xử  lý các tri thức. Học viên vừa nắm được kiến thức, vừa nắm được   phương pháp nắm bắt kiến thức đó để  tự  rèn luyện và phát triển cách tư  duy và   hành động độc lập, sáng tạo. ­ Trong phương pháp giảng dạy này thì mọi người cùng tham gia, cùng chia   sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trên tinh thần phân công và hợp tác chặt chẽ. Làm   15
  16. việc với phương pháp này còn có ý nghĩa là sự chuẩn bị năng lực thích ứng với công   việc, với đời sống xã hội (Phát hiện kịp thời và giải quyết hợp lý các vấn đề…) Có thể nói, phương pháp giảng dạy hiện đại là cơ sở để phát huy tinh thần tự  học và từng bước thực hiện chủ trương biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. 2.2.2. Một số hạn chế của phương pháp giảng dạy hiện đại. Phương pháp giảng dạy hiện đại đòi hỏi nhiều kỹ năng, nhiều thao tác trong  giảng dạy, dễ dẫn đến sự  ngắt quảng thiếu liên tục trong trao đổi thông tin. Điều  này, gây khó khăn không nhỏ trong việc thay đổi phương pháp của giảng viên. Thực hiện đúng các yêu cầu của phương pháp giảng dạy tích cực, đòi hỏi  phải có trang thiết bị, phòng học đúng quy cách và khá tốn kém. Tâm lý học viên thường có thói quen  ỷ  lại vào giảng viên; thiếu tính chủ  động và ngại phát biểu ý kiến, ngại tranh luận. Đối với các lớp chương trình Trung   cấp Lý luận Chính trị ­ Hành chính, Trung cấp Hành chính thì đối tượng học viên đa   số  là cán bộ  chủ  chốt  ở  cơ  sở  cho nên việc thực hiện một số phương pháp giảng   dạy tích cực sẽ gặp khó khăn cho cả hai phía giảng viên lẫn học viên… Thông tin trao đổi mang tính nhỏ, lẻ, cụ thể, thiếu tính hệ thống ngay từ đầu,  người học có thể tiếp thu dễ dàng nhưng gặp khó khăn trong liên kết thông tin, tính   hệ thống của vấn đề. Phương pháp giảng dạy này giảm lượng thời gian giảng bài của giảng viên,   nhưng nếu không tổ chức, điều khiển tốt sẽ rất mất thời gian cho các thao tác phụ  như  chia nhóm, gợi ý, chờ  ý kiến phát biểu của học viên…Điều đó  ảnh hưởng   không nhỏ đến chất lượng bài giảng. *   Cần   chú   ý   những   phương   tiện   được   sử   dụng   trong   phương   pháp  giảng dạy hiện đại: Những phương pháp này bao gồm: Giấy khổ  lớn, máy vi tính xách tay, máy  chiếu hắt, máy 3M, màn chiếu, máy projector, các thiết bị khác,…mỗi loại có những  ưu điểm và hạn chế riêng, nhưng nhìn chung khi sử dụng cần chú ý một số vấn đề  cơ bản sau đây: ­ Nội dung bài giảng được cấu trúc rõ ràng, tập trung vào những thông tin cốt   lõi, hạn chế hiểu sai chủ đề. ­ Có thể  sắp xếp lại bài giảng một cách dễ  dàng và xem toàn bài trên màn   hình, có cả âm thanh, màu sắc, hình ảnh sống động, thu hút được sự  chú ý của học   viên, có khả năng thực hành một kỹ năng cho đến khi học viên nắm vững vấn đề. 16
  17. Hỗ trợ cho buổi học trên lớp làm sáng tỏ những điều cần trình bày của giảng  viên và trực quan hóa nội dung giảng dạy, giúp học viên tiếp thu dễ  dàng và tham  gia học tập một cách chủ động, tích cực. Tuy nhiên, khi sử dụng các phương tiện trên, giảng viên cần chú ý: ­ Phải có nguồn điện ổn định, cũng như nguồn dự trữ bóng và cầu chì. ­ Máy tính, máy chiếu projector rất đắt tiền, cho nên cần được bảo quản, bảo   dưỡng tốt. ­ Khi sử dụng các phương tiện nêu trên, giảng viên phải cơ cấu nội dung bài   giảng, hình ảnh minh họa, số liệu chứng minh cho phù hợp. Không được lạm dụng   hình  ảnh, âm thanh quá nhiều khi không thực sự  cần thiết vì chính nó sẽ  làm cho   học viên không chú ý vào nội dung chính của bài giảng. III. Một số giải pháp có tính tham khảo để  giảng viên nghiên cứu trong  quá trình giảng dạy nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng   ở trường Chính trị tỉnh Bình Phước. Trước hết, tôi xin khái lược về  đặc điểm học viên của Trường Chính trị  và  kết quả  bước đầu của việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên   trường ta. * Đối tượng học viên của Trường không đồng đều về lứa tuổi, trình độ  học  vấn và kinh nghiệm công tác. Học viên của Trường không thuần nhất cả về lứa tuổi, tâm lý, nghề nghiệp,   trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác, khả năng nhận thức. Đa số họ chưa quen  nhiều với cách học tập độc lập, ngại đọc sách. Các đặc điểm này  ảnh hưởng rất  lớn đến việc tiếp thu bài giảng, đến sự  cộng tác giữa học viên và giảng viên trong   quá trình thực hành phương pháp giảng dạy hiện đại. Học viên thường là cán bộ chủ chốt  ở cơ sở, là những người lớn tuổi có gia   đình, vừa học vừa làm, hoặc là cán bộ trẻ hiểu biết về thực tiễn còn hạn chế. Tâm   lý ngại phát biểu, tranh luận trước đám đông của hầu hết học viên là trở  ngại lớn   khi áp dụng giảng dạy bằng phương pháp, phương tiện hiện đại, đó là nguy cơ  có  thể xuất hiện sự bất hợp tác trong quá trình giảng dạy và học tập. Các lớp đào tạo  ở tuyến huyện sẽ gặp khó khăn hơn về phương tiện hiện đại hỗ trợ. * Kết quả việc áp dụng phương pháp giảng dạy mới của giảng viên: Hiện nay, giảng viên của Trường đã từng bước đưa phương pháp giảng dạy  hiện đại vào bài giảng của mình theo hướng kết hợp phương pháp giảng dạy truyền  thống với phương pháp giảng dạy hiện đại. Nhìn chung, trong một bài giảng của giảng viên đã có sự  vận dụng một số  phương pháp và đã tránh được lỗi thuyết trình theo dạng độc thoại hay “thầy nói trò   nghe, thầy đọc trò ghi” như  trước đây. Chính sự  đổi mới phương pháp này đã và  17
  18. đang góp phần vào việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong những  năm gần đây. 3.1. Tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của toàn thể  giảng  viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp phương   pháp truyền thống với phương pháp hiện đại. Để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của toàn thể giảng viên  về  ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng  kết hợp phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại, theo tôi thì cần thực  hiện một số việc sau đây: Thứ  nhất, cần tiến hành rà soát, kiểm tra lại để  biết rõ số  giảng viên chưa   học tập về  phương pháp giảng dạy hiện đại, chưa có chứng chỉ  về  phương pháp   giảng dạy. Trên cơ  sở  đó, xây dựng kế  hoạch đưa các giảng viên này dự  các lớp   học, lớp tập huấn về phương pháp giảng dạy tại Học viện Chính trị  ­ Hành chính  Quốc gia Hồ  Chí Minh, hoặc các cơ  sở  đào tạo khác; đồng thời có kế  hoạch tập  huấn, bồi dưỡng thường xuyên cho tất cả giảng viên nhằm từng bước chuẩn hóa và   nâng cao trình độ về phương pháp giảng dạy cho đội ngũ giảng viên. Cho đến nay,   đội ngũ giảng viên của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước đã có 21/22 giảng viên đã  được tập huấn bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy tích cực tại Học viện Chính  trị ­ Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác. Thứ hai, thường xuyên phát động phong trào thi đua, tổ chức các cuộc thi tìm  hiểu và thi giảng về phương pháp giảng dạy trong giảng viên. Có thể coi hoạt động   thi giảng về phương pháp như  thi giảng viên giỏi, được tổ  chức chặt chẽ, có đánh   giá khen thưởng và như một nội dung thi đua hàng năm. Thứ  ba, các khoa trong Trường và bản thân mỗi giảng viên có kế  hoạch   thường xuyên nghiên cứu tiếp cận, nắm bắt và vận dụng các phương pháp giảng   dạy hiện đại. Bản thân mỗi giảng viên cần cố  gắng nhiều hơn, quyết tâm hơn trong việc  đổi mới phương pháp giảng dạy. Coi việc đổi mới phương pháp giảng dạy chính là  xây   dựng và xác định uy tín, vị  trí của người giảng viên. Từ  đó mà có kế  hoạch   thường xuyên nghiên cứu tài liệu về  phương pháp giảng dạy, dự  giờ  học hỏi kinh   nghiệm, tham gia tốt các cuộc thi tìm hiểu về giảng dạy, về phương pháp. Thứ  tư, cần tổ  chức các cuộc hội thảo, tọa đàm chuyên đề  về  phương pháp   giảng dạy. Việc tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, không thể chỉ dựa vào các hoạt  động chính thức, hoặc dựa hẳn vào sự quyết định chính thức của Ban Giám hiệu vì   nó sẽ  gây ra khó khăn về  cả  mặt kinh phí và thời gian hành chính của Trường. Vì  vậy, Ban Giám hiệu có thể  cho chủ  trương, tạo điều kiện để  phòng Khoa học ­   Thông tin ­ Tư  liệu đứng ra thành lập câu lạc bộ  giảng viên; động viên, khuyến  khích giảng viên gia nhập câu lạc bộ theo cách thức tự nguyện. Tại câu lạc bộ, mọi   giảng viên có thể trao đổi tất cả những vấn đề thuộc về chuyên môn và chính kiến,   18
  19. kinh nghiệm của mình trong công tác giảng dạy, qua đó đại diện câu lạc bộ có thể  đề  đạt ý kiến với HĐKH Trường về  những vấn đề  chuyên môn để  được giải đáp   và học tập thêm. 3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, thường xuyên sơ, tổng kết, đúc rút   kinh nghiệm và phổ  biến kinh nghiệm trong quá trình đổi mới phương pháp  giảng dạy. Ban Giám hiệu thường xuyên theo dõi, kiểm tra,  đánh giá chất lượng bài   giảng của các khoa và giảng viên thông qua việc thành lập tổ chức dự giờ trên lớp   (Trong năm học vừa rồi, trường ta đã làm việc này), quy định chế  độ  trách nhiệm   báo cáo của các phòng, khoa về hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy (có thể  quy định định kỳ  phải báo cáo). Các Phó Hiệu trưởng trực tiếp theo dõi, kiểm tra,   đôn đốc thực hiện và báo cáo với Hiệu trưởng. Lãnh đạo các khoa, phòng coi việc dự  giờ, theo dõi, đốc thúc, quản lý hoạt   động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên là việc làm thường xuyên và   có trách nhiệm báo cáo với Ban Giám hiệu về tiến độ và kết quả tổ chức thực hiện.   Thực hiện kiểm tra hoạt động đổi mới phương pháp giảng dạy của giảng viên cần  phải bắt đầu ngay từ  khâu nghiên cứu chuẩn bị  tài liệu, soạn bài, thực hành giảng   bài trên lớp. Thực hiện kiểm tra bằng hình thức kiểm tra giáo án, kiểm tra chéo giáo   án của giảng viên trong khoa, dự giờ trên lớp qua hoạt động của tổ dự giờ hoặc cá  nhân, kiểm tra thông qua báo cáo của giảng viên trong việc thực hiện kế hoạch đổi   mới phương pháp giảng dạy mà khoa đã phân công. Hoạt động sơ, tổng kết việc đổi mới phương pháp giảng dạy phải thực hiện  từ  các phòng, khoa, nhất là phòng đào tạo và các khoa. Các khoa thực hiện sơ  kết  qua cuộc họp sinh hoạt chuyên môn theo từng tháng và quý để  làm cơ sở  cho việc   tổng kết hoạt động đổi mới phương pháp ở cấp Trường. Ban Giám hiệu Trường  xây  dựng kế  hoạch  tổng kết  hoạt  động  đổi  mới  phương pháp, trong đó không chỉ yêu cầu về sự  tổng kết của các khoa mà còn chú   trọng   các   bài   tham   luận   của   giảng   viên   về   cách   thức,   nội   dung   và   những   kinh  nghiệm thực hiện kết hợp phương pháp giảng dạy truyền thống với phương pháp  giảng dạy hiện đại. Qua tổng kết, phải có kết luận của Hiệu trưởng hay Chủ tịch  Hội đồng khoa học về những kinh nghiệm có giá trị và được phổ biến đến toàn thể  giảng viên để tiếp tục triển khai áp dụng. 3.3. Nâng cao tinh thần, trách nhiệm học tập và hướng dẫn các phương   pháp học tập cho phù hợp với yêu cầu của phương pháp giảng dạy mới cho  học viên. Thực hiện giải pháp này qua những công việc cụ thể sau: Một là, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh về  phương pháp giảng dạy và học   tập. 19
  20. Đối với giảng viên, cần xác định đúng đối tượng học viên, nội dung cần   truyền đạt và phương pháp phù hợp; phổ biến thấu đáo về phương pháp giảng dạy   và học tập, nghiên cứu trong từng môn, phần học cho học viên. Đối với học viên, cần có sự tiếp cận, nắm bắt về phương pháp giảng dạy và  học tập, nghiên cứu trong từng môn học, phần học một cách nghiêm túc như sự tìm   tòi tri thức khoa học; nắm bắt đối tượng của môn học từ đó tìm ra phương pháp học   tập, nghiên cứu phù hợp của mình. Hai là, quản lý giờ  học và nghiên cứu của học viên. Quản lý giờ  học tập và  nghiên cứu của học viên là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao trách nhiệm, ý  thức tự giác trong học tập, nghiên cứu của học viên. Để  nâng cao trách nhiệm, ý thức tự  giác trong học tập, nghiên cứu của học   viên, cần phải quản lý hiệu quả của giờ học tập, nghiên cứu. Cách quản lý này hết   sức cần thiết, giúp giảng viên nắm bắt những yếu tố thuộc phẩm chất và năng lực  cá nhân của học viên, đánh giá được hiệu quả hoạt động dạy và học, để hướng đến   việc điều chỉnh và cải tiến về mặt phương pháp. Đồng thời cách quản lý này cũng   nhằm phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo và tự giác, phát huy vai trò trung tâm   của học viên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng kết hợp phương pháp giảng  dạy truyền thống và hiện đại trong quá trình dạy học. Ba là, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự  giác của học viên qua các   công việc, cụ thể như sau: ­ Xác định mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Mục đích và động cơ học   tập là một trong những nhân tố  cơ  bản tạo sự  hưng phấn, say mê và tự  giác có tác   dụng thúc đẩy hoạt động học tập đạt kết quả cao. Việc xác định mục đích, động cơ  học tập thực chất là hiểu biết và nắm chắc vai trò, tác dụng của việc học tập và về  mặt lợi ích của người học. ­ Mục đích học tập là dự  kiến về  kết quả  của hoạt động học tập sẽ  đạt  được trong tương lai; còn động cơ học tập là ý chí quyết tâm hành động để đạt đến   kết quả đó. ­ Tự  giác, chủ  động, sáng tạo và độc lập trong hoạt động học tập, nghiên  cứu. Tự  học, tự nghiên cứu không chỉ  dừng lại  ở  việc học, tiếp thu kiến thức, mà   phải hướng đến giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức của bản thân người học, tức   giải quyết mâu thuẫn giữa cái biết và cái chưa biết, biểu hiện cụ thể trong từng nội   dung kiến thức mà người học tiếp thu. ­ Xây dựng và thực hiện kế  hoạch học tập phù hợp với phương pháp giảng  dạy mới, qua các bước như: + Thực hiện tốt việc chuẩn bị trước khi nghe giảng: Đọc giáo trình; chuẩn bị  trả lời các câu hỏi nhanh hay bài giảng trước. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1