intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo tốt nghiệp: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NĂM 2012

Chia sẻ: S S | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:37

101
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Do có nhu cầu về việc làm và thu nhập nên khi được nhận vào làm việc, được giải quyết nơi ở tạm, được hưởng lương theo chế độ khoán sản phẩm (không có bảo hiểm xã hội) lại là người có trình độ văn hoá thấp, nhận thức về pháp luật lao động chưa đầy đủ, không có tay nghề nên Chị N đã vì quyền lợi trước mắt mà dễ dàng chấp nhận công việc (theo kiểu nghề dạy nghề, người có thâm niên trong nghề hướng dẫn, kềm cặp người mới vào). - Chị N phạm vào lổi chủ quan khi xem thường...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo tốt nghiệp: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NĂM 2012

  1. ĐỀ TÀI : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH NĂM 2012 (Financial Crisis). GVHD: Hoà Thò Hoàng Minh. SV : Nguyễn Văn Thanh Vi. MSSV : K105041663
  2. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. 1. Lí do chọn đề tài : Tài chính là m ột lĩnh vự c vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của một quốc gia. Nền tài chính của một quốc gia là cơ sở để đánh giá trình độ phát triển của quốc gia đó. Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đ ồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ kh ủng hoảng. Sự thay đ ổi của các thị trường tài chính cùng với mức độ m ở cửa thương mại - tài chính của các nước và những điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Trong những năm gần đây, khủng hoảng tài chính đã diễn ra ngày càng liên tục với cường độ mạnh và diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những hậu quả nặng nề đối với các quốc gia và toàn thế giới . Nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhắc đến như khủng hoảng Mexico 1994, khủng hoả ng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Acgentina 2001, và cuộc đại khủng hoảng 2008-2009.Cả thế giới đang phải chao đảo gánh chịu hậ u quả của cơn bão khủng hoảng tài chính. Khủng hoả ng đem tới thách thức và cơ hội cho những ai biết nắm bắt thời cơ . Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ đươc tầm quan trọng của việc nghiên cứ u khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào liên kết khu vực, hội nhập quốc tế. Đó cũng là động lực thúc đẩy tôi chọn đề tài nghiên cứu : “Khủng hoảng tài chính” (Financial crisis). 2. Mục đích nghiên cứu : Nghiên cứu làm rõ m ột s ố khái niệm, vấn đề cơ bản về khủng hoảng tài chính trước sự biến động phức tạp của nền kinh tế. Tập trung phân tích những nguyên nhân, tác động của khủng hoả ng tài chính để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Phần cơ s ở l ý luận, đề tài sẽ đi vào tìm hiểu khái niệm, nguyên nhân, phân loại, hệ quả và các phương pháp dự báo, ngăn ngừa khủng hoảng tài chính. Phần tìm hiểu về 2 cuộc khủng hoảng tài chính lớn trên Thế Giới, đề tài sẽ giới thiệu sơ lư ợc về nguyên nhân, tính chất, tác động của nó đến toàn bộ nền kinh tế. Phần vận dụng thực tiễn, đề tài sẽ rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đề xuất m ột số giải pháp cho chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam. Ngoài ra do có sự gi ới hạn nên trong khuôn khổ của đề tài nghiên cứ u sẽ không đi sâu vào phân tích những vấn đề như : chi tiết về đặc điểm của từng loại khủng hoảng tài chính, các loại mô hình khủng hoảng tài chính… 4. Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, diễn dịch – quy nạ p và phương pháp quan sát thực tiễn để khái quát bản chất của các vấ n đề cần nghiên cứ u. Đề tài dựa vào cơ s ở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh nghiệp, lý thuyết tài chính tiền tệ kết hợp với nguồn dữ liệu thông tin sưu tầm, tập hợp từ các sách báo, tạp chí và các webside có liên quan… 5. Kết cấu của đề tài : Với phạm vi nghiên cứ u như trên, nội dung chính của đề tài gồm 04 chương : Chương I : Lý thuyết về khủng hoảng tài chính. Chương II : Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á 1997. Chương III : Khủng hoảng tài chính Mỹ 2008. Chương IV : Bài học rút ra cho Việt Nam và các doanh nghiệp. MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 2
  3. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. CHƯƠNG I : LÝ THUYẾT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH 1. Tổng quan về thị trường tài chính : * Xung quanh vấn đề tài chính có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nhưng tổng kết lại, tài chính mang những đặc điểm sau : tài chính chỉ r a đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tư ợng kinh tế xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồ n tại. Có thể xem nhữ ng hiện tượng kinh tế xã hội khách quan đó như tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính với tư cách là phạm trù lịch sử. Tài chính thuộc lĩnh vự c phân phố i dưới hình thái giá trị. Nó là tổ ng thể các quan hệ kinh tế trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quố c dân, nó gắn liền với sự ra đời và tồn tại và hoạt động của nhà nước, phát triển trong các mối quan hệ hữu cơ với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hay nói cách khác tài chính là quá trình phân phối các nguồn lực tài chính có hạn nhằm đáp ứ ng nhu cầu các chủ thể trong nền kinh tế. * Bản chất của tài chính thể hiện ở những khía cạnh sau : tài chính là những quan hệ kinh tế nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều thuộ c phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm nhữ ng quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị. Tài chính là nhữ ng quan hệ phân phối phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đây là một đặc trưng quan trọng của tài chính. Tài chính là nhữ ng quan hệ kinh tế chịu sự tác độ ng trực tiếp của nhà nư ớc, của pháp luật, nhưng tài chính không phải là luật lệ tài chính. Luật tài chính là công cụ của nhà nư ớc để điều tiết các quan hệ tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu của nhà nư ớc. * Trong nền kinh tế các quan hệ tài chính xuất hiện đan xen nhau liên hệ, tác động ràng buộc lẫn nhau trong một thể thống nhất tạo nên hệ thống tài chính. Có thể chia hệ thố ng tài chính làm 2 kênh dẫn vố n : kênh dẫn vốn qua thị trường tài chính (trực tiếp), kênh dẫn vốn qua các trung gian tài chính như ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm, quỹ tín dụng… (gián tiếp). Nhờ 2 kênh này mà vốn được lưu chuyển thuận lợi, giảm đư ợc rất nhiều chi phí giao dịch giữa hai bên cung và cầu vốn. 2. Khái niệm khủng hoảng tài chính : * Khủng hoảng tài chính xảy ra trong các mối quan hệ tài chính và các kênh dẫn vốn trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính nảy sinh khi các mối quan hệ này đạt tới mức thấp có nghĩa là bên cung vố n không muốn tài sản tài chính mà mình có cho bên cầu vốn nữa. Và điều này tác độ ng lên các kênh dẫn vốn, làm cho nó bị tê liệt không phát huy đư ợc tác dụng và do đó sẽ làm sụp đổ hoặc suy yếu các tổ chức, định chế tài chính. Các tổ chứ c định chế tài chính này không bao giờ biệt lập với nhau mà chúng có quan hệ mật thiết, do đó khủng hoảng tài chính thường làm sụp đổ hàng loạt tổ chứ c, định chế, gây thiệt hại to lớn. * Khủng hoảng tài chính là vấn đề có liên quan đến một phạm trù, đó là chu kì kinh doanh. Quy luật chung của con đường phát triển được miêu tả như đồ thị hình sin. Đó là bất kì một lĩnh vực nào cũng có thời kì phát triển rự c rỡ, huy hoàng, có lúc ổ n định và có thời gian thoái trào. Nghiên cứ u kinh tế Mỹ đã chỉ ra rằng tiền tệ -tài chính đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tạo ra chu kì kinh doanh. Mỗi cơn suy thoái trong thế kỉ XX đã đứ ng liền sau một sự suy giảm tỉ lệ tăng trư ởng tiền tệ. Ngược lại nếu nền kinh tế lâm vào suy thoái cũng là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến các cuộ c khủng hoảng tài chính. Điều này được giải thích bởi quan hệ tài chính có mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ.  Các khái niệm về khủng hoảng tài chính : Khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ  Frederic Mishkin, tác của thị trư ờng tài chính mà trong đó nhữ ng lưa chọn giả cuốn sách The bất lợi và tâm lý hoang mang đã trở nên xấu đi, dẫn Economics of Money, đến hậu quả thị trư ờng tài chính không thể có Banking and Financial những quỹ hiệu quả cũng như cơ hội đầu tư tốt Markets. nhất. (Định nghĩa của Mishkin).
  4. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Khủng hoảng tài chính là tình trạng mà trong đó một bộ phận của nền tài chính có nhữ ng  khoản nợ lớ n hơn giá trị tài sản thực có trên thị trường gây ảnh hưởng t ới các cán cân đầu tư khác, dẫn tới sự sụp đổ của không ít công ty tài chính, dẫn tới việc Chính phủ bắt buộ c phải có những can thiệp. (Định nghĩa của Sundarajan và Balino năm 1991). Khủng hoảng tài chính là việc mất niềm tin vào giá trị của đồng tiền hoặc nhữ ng tài sản tài  chính khác khiến cho các nhà đầu tư quốc tế thu hồi quỹ đầu tư của họ ra khỏi quốc gia bị khủng hoảng. 3. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính : Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây : Sự giảm giá dây chuyền của các đồ ng tiền. - Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền. - Lãi suất tín dụng gia tăng : lãi suất tăng kéo theo cầu tiền t ệ, cầu tín dụng sụt giảm làm cho hoạt độ ng - sản xuất kinh doanh bị suy giảm. Hệ thống ngân hàng bị tê liệt. - Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng. - Các hoạt động kinh tế bọ suy giảm. - 4. Phân loại khủng hoảng tài chính : 4.1 Khủng hoảng tiền tệ (Currency crisis) : Khủng hoảng tiền tệ còn đư ợc gọi là khủng hoảng tỷ giá hối đoái nổ r a khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc trường hợp buộc các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền của nước mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi ra một khối lư ợng lớn dự trữ ngoại hối. 4.2 Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis) : Khủng hoảng ngân hàng rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gử i của các cá nhân và pháp nhân cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lương, thời hạn cũng như chùng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mứ c và không thu hồi lại đư ợc dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm cho ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thố ng. Trong trường hợp khủng hoảng, các ngân hàng thương mại thư ờng có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp r ủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp vào tình thế khó khăn do thiếu nguồ n tài chính để hoạt động. Dòng người ồ ạt đến rút tiền tại ngân hàng Northern Rock (Anh) 1 ngày sau khi ngân hàng này yêu cầu và được tài trợ khẩn cấp từ Bank of England do khủng hoảng ngân hàng. (Nguồn : BBC News)
  5. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. 4.3 Khủng hoảng kép (Twin Crisis) : Khủng hoảng kép xảy ra khi khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng xảy ra đồng thời với nhau. 4.4 Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis) : Trường hợ p một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thứ c, vay thương mại) quá nhiều, sử dụng không hiệu quả vố n nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trư ờng hợ p của CHDCND Triều Tiên). Có nhiều tiêu chí đánh giá khả năng thanh toán nguồ n vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọ ng nhất là tỷ lệ giữ a nguồ n vay nước ngoài cả gố c và lãi mà quố c gia đó trả trong một năm trên tổ ng kin ngạch xuất khẩu của quốc gia đó trong năm đó hoặc năm trước đó. Bình thương chỉ tiêu này nằm dư ới 20%, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 20% chứng tỏ lượng vốn vay nư ớc ngoài của quốc gia đó quá lớn. Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều (Argentina, hay nhiều nư ớc châu Phi vừ a qua) cùng với tiến trình toàn cần hóa kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn. Cuộc khủng hoảng Argentina 2001- 2002 đã nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động nhất Nam Mỹ vào cảnh đói nghèo, tình hình xã hội hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng 1 tuần, có tới 5 vị Tổng thống lên và xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức liên tục xuống đường biểu tình. Trong hình, người dân Argentina xuống đường biểu tình khi nước này rơi vào cảnh phá sản. (Nguồn : vnexpress.net) 4.5 Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market) : Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứ ng khoán rất ngạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trư ờng chứng khoáng xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dố c” hay “giảm không phanh” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứ ng “bầy đàn” làm cho chứ ng khoán bị “bán đổ”, “bán tháo” hay thị trư ờng bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứ ng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứ ng khoán (quỹ chứ ng khoán). 4.6 Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn (Crisis of Balance of Payment/ Crisis of Current Account/ Crisis of Capital Account) : Khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thư ờng xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt. Khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng ngoại tệ r a lớn hơn ngoại tệ vào gây nên thâm hụt nặng nề.
  6. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. 4.7 Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản (Crisis of Liquidity) : Nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt : số lư ợng, thời hạn và chủng loại tiển thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của tài sản “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù. 4.8 Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis) : Ngân sách nhà nư ớc thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữ a nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát. Người vô gia cư ở Tây Ban Nha tăng vọt sau khi nước này “gia nhập” cuộc khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng euro cùng với các nước Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ireland. (Nguồn : euobserver.com) Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể x uất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của thị trường tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính : 5.1 Nguyên nhân bên ngoài : * Như đã đề cập ở trên, các quan hệ tài chính là một phần của quan hệ kinh tế, có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nền sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hệ thố ng tài chính đư ợc coi như huyết mạch trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái, tức là nền sản xuất hàng hoá giảm sút, không thu được lợi nhuận. Để đảm bảo an toàn cho tiền của mình bên cung vốn muố n rút vố n lại hoặc không muố n cho vay vì sợ không thu hồi được nợ. Do đó các ngân hàng, tổ chức tài chính sẽ phải đối mặt với một lư ợng tiền mặt lớn đ ể trả cho người gử i, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trên thị trư ờng chứng khoán lúc này giá trị thự c của các công ty niêm yết sẽ tụt dố c làm xuất hiện tình trạng bán tháo cổ phiếu, trái phiếu… * Ngoài ra các tài sản do các tổ chức định chế tài chính nắm giữ cũng bị mất giá nghiêm trọng làm giá trị thực của chúng bị giảm, gây nên tình tr ạng khủng hoảng. Tính thanh khoản của thị trư ờng theo đó cũng đi xuống. * Chẳng những thế, tình trạng làm ăn thua lỗ, phá sản của các công ty, tập đoàn sản xuất cũng kéo theo những khoản đền bù khổng lồ từ các công ty bảo hi ểm làm cho các công ti này cũng bị sụp đổ t heo do không đủ khả năng chi trả.
  7. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. * Suy thoái kinh tế là vấn đề mang tính chu kì do đó khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ suy thoái kinh tế cũng mang tính chu kì. Nền kinh tế suy thoái chứng kiến sự thua lỗ, phá sản của hàng loạt không nhữ ng của hãng sản xuất mà còn cả sự sụp đổ trong lĩnh vực tài chính. Suy cho cùng tài chính cũng là một bộ phận của kinh tế. 5.2 Nguyên nhân bên trong : Trên thị trường tài chính, khủng hoảng có thể do nguyên nhân từ hoạt động bên trong của chính nền tài chính ấy. Trong nền tài chính của bất kì một quố c gia nào dù phát triển đ ến đâu cũng phải đối mặt với nhữ ng vấn đề như: thông tin không cân xứ ng, chọ n lự a đối nghị ch, rủi ro đạo đứ c… 6. Hệ quả của khủng hoảng tài chính : * Khủng hoảng tài chính, nói chung, thường gây ra những tác động lớn đối với xã hội. Bởi kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc ổn đị nh trật tự xã hội, nên khi nền kinh tế bị tác độ ng mạnh, nó sẽ kéo theo nhữ ng ảnh hư ởng (cả tích cự c lẫn tiêu cực) trong mọi lĩng vự c, mọi khía cạnh của đời sống. * Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn trật tự xã hội. Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đ ề cốt lõi nhằm duy trì sự hoạt động của doanh nghiệp và cuộ c số ng của ngư ời lao động. Khi gặp phải khủng hoảng tài chính, các doanh nghi ệp khó có khả năng mở rộng đầu tư và phát triển, gây sự đình trệ trong công việc, thậm chí phá sản. Theo hiệu ứng dây chuy ền, sự phá sản của doanh nghi ệp này sẽ tác độ ng tới các doanh nghiệp khác và cao hơn nữ a là toàn bộ nền kinh tế (tùy theo quy mô của doanh nghi ệp). Không nhữ ng thế, khủng hoảng tài chính còn góp phần gây ra nhữ ng bất ổ n về xã hội do lượng người thất nghiệp gia tăng. * Bên cạnh đó, khủng hoảng tài chính cũng có những tác động tích cực lên nền kinh tế. Nó báo hiệu sự chấm dứ t thể độc tôn của các “ông lớn” trên thị trường tài chính, góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế. Đồng thời, khủng hoảng tài chính cũng buộc người ta phải xem xét, sửa đổi các nguyên tắc đã quy định lên hệ thống tài chính từ trư ớc tới nay, loại bỏ nhữ ng nguyên tắc đã không còn thích hợ p để thích ứ ng với nhữ ng biến đổi trong xã hội, từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn và chủ độ ng ứ ng phó với những cuộc khủng hoảng trong tương lai. MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 7
  8. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. 7. Các phương pháp dự báo khủng hoảng tài chính : 7.1 Phương pháp chỉ tiêu : Diễn biến của tỉ giá thực, cán cân thương mại hoạc cán cân vãng lai, tiền lương thực tế và lãi suất là nhữ ng chỉ số quan trọng cảnh báo về một cuộ c khủng hoảng. Ví dụ : Thái lan – Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô 1992 1993 1994 1995 1996 Chỉ tiêu 8.1 8.3 8.7 8.7 6.7 Tốc độ tăng GD (%) 4.1 3.4 5.2 5.7 5.8 Chỉ số giá CPI (%) -6.3 -6.4 -8.1 -13.6 -15.3 Thâm hụt cán cân thương mại (tỉ USD) 13.7 13.4 22.2 24.7 -1.8 Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 6.0 12.2 18.5 31.6 3.1 Tốc độ tăng nhập khẩu (%) 39.6 45.8 60.1 75.6 83.0 Nợ nước ngoài (tỉ USD) 7.2 Phương pháp dự báo dựa trên các nguy cơ : * Dựa trên thực tế cuộc khủng hoảng diễn ra năm 1997 ảnh hưởng nặng nề tới Thái Lan và Hàn Quốc các nhà kinh t ế họ c đã xây dựng mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính”. * Bốn nguy cơ tích lũy khủng hoảng : Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp. - Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính. - Sự lên giá của đồ ng nội tệ. - MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 8
  9. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán. - Tác động mang tính quyết định từ bên ngoài đó là sự rút vốn tài chính cùa các nhà đầu tư nư ớc ngoài. * Phương pháp xác định các chỉ số cảnh báo chủ chốt : Theo ý kiến của Kaminsky, Lizodo và Reinhart đã chọn ra nhữ ng chỉ số có khả năng cảnh báo tốt nhất. Cả ba ngư ời đều cho rằng : Một hệ thố ng cảnh báo tin cậy cần bao quát nhiều chỉ số khác nhau bởi lẽ khủng hoảng ti ền t ệ thường - là hậu quả của nhiều vấn đề kinh tế - xã hội, tâm lý và đôi khi còn mang tính chất chính trị phứ c tạp. Nhữ ng biến số thường đư ợc sử dụng với danh nghĩa là nhữ ng chỉ số cảnh báo về một cuộc khủng - hoảng ti ền tệ có thể là : dự trữ ngoại tệ giảm dần, nội tệ l ên giá, tăng trư ởng tín dụng quá mức và lạm phát gia tăng, tính trạng tồi tệ của cán cân thương mại kết quả của xuất khẩu và tốc độ tăng trư ởng của GDP thực tế cũng như sự gia tăng trong lượng tiền cung ứ ng, tỉ lệ khối tiền tệ mở rộ ng (M2 hoạc M3) so với tổng dự trữ quốc gia và thâm hụt ngân sách cũng là nhữ ng chỉ số quan trọng cần được tính đến. Đối với các chỉ số khác thì những kết luận chỉ mang tính chất thử nghiệm vì chúng chỉ được rút ra chủ - yếu từ một hoặc hai công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này. Như vậy một biên số tài chính, thể chế và chính trị cũng ít nhiều có hiệu lực trong dự báo các cuộc khủng hoảng tài chính. Các biến số liên quan tới nợ nư ớc ngoài không có ý nghĩa lắm. Mặt khác, trái với thông lệ, cán cân - vãng lai không nhận được nhiều sự đồng tình trong vai trò một chỉ số cảnh báo tin cậy về một cuộc khủng hoảng. Điều này có thể là do những thay đổi của tỷ giá hố i đoái đã phản ánh diễn bi ến của cán cân vãng lai trong phần lớn các công trình nghiên cứu, người ta thấy rằng khi mà ảnh hưởng của cán cân vãng lai không nhiều lắm thì ở đó các tỷ giá hối đoái thực cũng không có tác dụng. 8. Một số phương pháp ngăn ngừa cơ bản : * Tại cuộc họp các bộ trưởng tài chính tại Washington tháng 5 năm 1999, người ta thông qua bản kế hoạch ngăn ngừa khủng hoảng như sau : Tránh tác động qua lại giữ a mất cân đối bảng cân đối tài chính của ngân hàng với tỷ giá cố định. - Nhiều ý kiến cho rằng chính ngân hàng ở các thị trường mới nổi cần phải ngăn cản nhữ ng khoản vay - ngoại tệ ngắn hạn nhiều rủi ro. Tránh áp dụng chế độ tỷ giá cố định là một bi ện pháp quan trọng làm cho rủi ro tiền tệ không đư ợc - bảo hiểm trở nên rõ ràng và đơn giản hơn, song vẫn chưa đủ v ề những biến độ ng ti ền tệ vẫn xảy ra cả khi đã áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Áp dụng biện pháp kiểm soát vố n nghĩa là sử dụng các hình thức cấm đoán song phải đặc biệt chú ý - để không dẫn tới sự lạm dụng, tham nhũng hay tạo ra nhữ ng kẽ hở. Thuế có vẻ như là biện pháp được ưa chuộ ng, chẳng hạn Chilê đã thành công trong việc đánh thuế - nhữ ng khoản vay bằng ngoại tệ mặc dù biện pháp này khá thô bạo. * Nhiều nhà kinh tế đề xuất các giải pháp ngăn ngừa như sau : Nền kinh t ế quố c gia không thể dự a chủ yếu vào vốn bên ngoài đặc biệt là vốn vay ngắn hạn và đầu tư - vào thị trư ờng cổ phiếu. Nhà nước cần theo dõi và có chính sách hạn chế vay mư ợn nước ngoài dù tư nhân hay Nhà nước ở mứ c độ nền kinh tế có thể chịu đựng được. Xác định đúng tỷ giá hối đoái nhằm tạo tính cạnh tranh cho xuất khẩu, tăng hiểu quả sử dụng hàng - nhập khẩu. Cân bằng cán cân thương mại đồ ng thời có biện pháp ngăn chặn dòng vố n ngắn hạn có tính chất đầu cơ. Cần có biện pháp giảm áp lực tăng giá bất độ ng sản tránh tình trạng nền kinh tế “bong bóng” nhằm - tạo môi trường ổn định cho đầu tư và đời sống nhân dân. Tăng thuế thu nhập do mua đi bán lại trong thời gian ngắn là biện pháp hữ u hi ệu nhằm giảm bớt nhu cầu đầu cơ. Ngăn chặn tình trạng “bong bóng” trên thị thườ ng cổ phiếu, cần hạn chế người nước ngoài mua cổ - phiếu và vay tín dụng ngân hàng để mua cổ phiếu cũng như dùng chứ ng khoán để thế chấp vay mượn. MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 9
  10. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Kết luận : Theo như trên thì kiểm soát vốn là công cụ ngăn ngừa khủng hoảng tài chính – tiền tệ hữu hiệu nhất vì : Kiểm soát vố n có thể được sử dụng như một phương pháp để đảm bảo sự độc lập của chính sách tiền - tệ. Kiểm soát vốn có thể đư ợc biện minh như một công cụ nhằm cải thiện an ninh kinh tế. Sự đảm bảo - tuyệt đối của Chính phủ đối với các khoản nợ nước ngoài đi kèm với hệ t hố ng thông tin tương xứng giữa ngân hàng và các cổ đông (những người gử i tiết kiệm) cũng đưa đến an sinh xã hội. Tự do hóa tài chính là tất yếu khách quan với một quốc gia mong muố n tăng lợi ích đầu tư, đẩy nhanh - tốc độ tăng trư ởng, nâng cao mứ c sống. Tuy nhiên, với các thị trư ờng tài chính chưa hoàn thi ện, các dòng chuyển dịch vốn không ổn đị nh thì việc kiểm soát vốn sẽ giảm bớt những r ủi ro đạo đức, lựa chọn nghịch, đối xử không công bằng… nếu có các chính sách hợp lý như thuế, giám sát ngân hàng sự đảm bảo của Chính phủ và pháp luật… CHƯƠNG II : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐÔNG Á 1997 Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn thường được gọi là Cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Á, hoặc cục bộ, là Cuộc khủng hoảng quỹ tiền tệ quốc tế, tuy nhiên, ở một điểm nào đấy, cái tên sau còn gây nhiều tranh cãi. Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan là những nước bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi cuộc khủng hoảng này. Hồng Kông, Malaysia, Lào, Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi sự sụt giá bất thình lình. Còn Đại lục Trung Hoa, Đài Loan, Singapore và Việt Nam không bị ảnh hưởng mấy. Nhật Bản cũng không bị ảnh hưởng nhiều bởi sự khủng hoảng, song nền kinh tế Nhật phải kinh qua những khó khăn kinh tế dài hạn của chính bản thân mình. Mặc dù được gọi là cơn khủng hoảng "Đông Á" bởi vì nó bắt nguồn từ Đông Á, nhưng ảnh hưởng của nó lại lan truyền toàn cầu và gây nên sự khủng hoảng tài chính trên toàn cầu, với những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brazin và Hoa Kỳ. 1. Nguyên nhân : Cuộ c khủng hoảng tài chính Đông Á, xét theo cả cấp độ quố c gia lẫn khu vực, chính là kết quả “hợp lực” của sự tác động qua lại giữa ba nhóm nguyên nhân chủ yếu : từ phía các chính sách vĩ mô của Chính phủ, các nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên ngoài vư ợt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực. 1.1 Nhóm nguyên nhân thứ nhất : Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém của Chính phủ. Trong một thời gian dài, các nước châu Á đã đạt được những thành tự u kinh tế mà các nhà kinh tế đã gọi là hiện tượng châu Á hay một “châu Á diệu kỳ”. Từ giữa nhữ ng năm 1960 đến giữa những năm 1990, thu nhập bình quân đầu người tăng hơn 4 lần ở Malaysia, Indonesia và Thái Lan; 7 lần ở Hàn Quốc. Nhìn chung trong giai đoạn này cho đ ến trư ớc khủng hoảng, chúng ta thấy một Đông Á được quản lí tốt, tốc độ tăng MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 10
  11. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. trư ởng cao liên tục, lạm phát thấp, ngân sách cân đối về cơ bản, nền kinh tế đư ợc tự do hóa ở một mứ c độ cao. Không có gì cho ta thấy là các nước này sẽ trư ợt ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng mạnh trong suốt những thập kỷ đó. Các chỉ số kinh tế vĩ mô năm 1996 Các nư ớc Mức tăng GDP Lạm phát Thặng dư tài khoản Thặng dư khối hành vãng lai (%GDP) chính (%GDP) Hàn Quố c 7,1 4,5 -4,7 +0,0 Indonesia 8,0 6,6 -3,4 +0,6 Thái Lan 5,5 4,8 -8,1 +2,2 Malaysia 8,6 3,3 -4,9 +4,0 Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là nhữ ng “tảng đá ngầm” chứa đựng những nguy cơ tiềm tang dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là : Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định giá cao giả - tạo trong một thời gian dài so với đồng đôla Mỹ. Tỷ giá đư ợc giữ ổn định quá lâu và sự gia tăng một khối lượng lớn vốn nư ớc ngoài ngắn hạn vào trong nước do chính sách lãi suất cao đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu. Nền kinh tế tr ở nên nóng hơn, sự tăng giá tài sản, bất độ ng sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong nó nguy cơ làm phát sinh một nền kinh tế ảo. Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên, với Trung Quố c phá giá đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo gi ữ tỷ giá vào USD nói trên khi ến các đồ ng bản tệ tăng giá giả tạo. Chính sách tự do hóa các hoạt độ ng kinh tế khong được tiến hành đồ ng bộ đi đôi với việc tăng cường - giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân hàng. Tình trạng chung của các nước châu Á lúc bấy giờ là : + Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo. + Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đ ến tình trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho một số ngành Công nghiệp trong khu vực. + Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt (Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng không hợ p lý, thiếu minh bạch. + Thiếu đồ ng bộ và tính minh bạch trong hệ t hố ng pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh tế ngầm phát triển. Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của nhữ ng sai lầm nêu trên. Mất cân đối lớn - nhất và đe dọa trự c tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính – tiền tệ mỗi nước là sự thâm hụt tài sản vãng lai và cơ cấu vốn nư ớc ngoài đổ vào trong nước. Ngoài ra cò n có sự kém phát triển của hệ thống giáo dục cộ ng với tình trạng thi ếu lao động lành nghề, từ đó đẩy mứ c lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản lư ợng, làm hao mòn sức cạnh tranh quốc tế và gây khó khăn cho việc phát triển nhữ ng ngành công nghệ cao. 1.2 Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước. Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng phát khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đ ến “khủng hoảng nợ” ở khu vực kinh tế tư nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm cho nền kinh tế trở nên khó kiểm soát cộ ng thêm sự quản lí lỏng lẻo của Chính phủ đã làm méo mó cơ chế thị trường dẫn đ ến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu, đồng thời cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp cũng giảm đáng kể. Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Đông Á là việc không làm chủ đư ợc quá trình mở cử a tiếp cận vốn nước ngoài. MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 11
  12. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Kindleberger đã nhận xét rằng : chi phí sử dụng đồ ng tiền quá thấp dư ờng như là một yếu tố quan trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, yếu tố này khiến các nhà đầu tư tìm cách lao vào các hoạt động rủi ro hơn nhằm kiếm những khoản lợi nhuận khá hơn. 1.3 Nhóm nguyên nhân thứ ba : Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực. Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nư ớc lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc biệt là Mỹ. - Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc - khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao. Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng trư ởng GDP. Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các - nước Đông Nam Á. Điều đó làm cho hàng hóa của những nước này mất đi lợi thế cạnh tranh trên trư ờng quốc tế, xuất khẩu đình trệ. Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường - thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước châu Á chưa thể thích ứ ng kịp trong ngày một ngày hai. Tóm lại, xét cho cùng thì nhữ ng nguyên nhân từ phía bản than các nước đang chịu khủng hoảng nặng nề mới là lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này. 2. Diễn biến : 2.1 Thái Lan – ngòi nổ của cuộc khủng hoảng : Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan có một nền kinh tế mạnh, tăng trư ởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%, đư ợc xem là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của châu Á, lạm phát thấp, ngân sách Chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát đư ợc, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có. Cuối năm 1996, báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trư ởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ đư ợc lâu. Cuối năm 1996, thị trư ờng chứng khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trư ờng vốn lẫn chỉ số thị trường chứ ng khoán đều giảm đi. Ngày 4&5 / 3 / 1997, hơn 21,4 tỷ baht đã đư ợc rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính. - - Ngày 9 / 4 / 1997, Chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm. Ngày 14&15 / 5 / 1997, đồng baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. - Ngày 30 / 6 / 1997, thủ tư ớng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht - - Ngày 2 / 7 / 1997, thấy trước nguy cơ, Chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. - Vào tháng 1 / 1998, giá đồng baht đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trư ờng chứng khoán Thái Lan đã t ụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị tr ường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản. Ngày 11 / 8 /1998, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho Thái Lan. - Ngày 20 / 8 / 1998, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar. - MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 12
  13. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh.  Cùng với sự phá giá đồng baht là các ngân hàng, công ty tài chính sụp đổ, tỷ giá hối đoái tăng cao, các doanh nghiệp phá sản hàng loạt làm bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở Thái Lan – khởi đầu cho khủng hoảng kinh tế tài chính ở Đông Á. Đồng baht sụp đổ, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng đã đẩy Thái Lan vào tình trạng bạo loạn lan tràn, thủ tướng Chavalit Youngchaiyudh từ chức, đời sống nhân dân khó khăn. (Nguồn : businessinsider.com) 2.2 Indonesia – Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng : Indonesia phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trư ởng trung bình 6%GDP/năm. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ ở Thái Lan đã nhanh chóng lan truyền vào Indonesia. - Khủng hoảng tài chính được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah. - Tháng 7 / 1997, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8 / 1997, đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công. - Ngày 14 / 8 / 1997,chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn đư ợc do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lư ợng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Thời điểm rớt giá cao nhất lên tới trên 625%. - Tháng 9 / 1997, cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử. - Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trư ớc tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài - chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương t hực và xăng. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 ngư ời bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống. Phong trào sinh viên biểu tình vào tháng 5/1998 tại Jakarta. (Nguồn : fourwinds10.net)
  14. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. - Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của Indonesia đã giảm đi. 2.3 Malaysia : Năm 1997, Malaysia có một lương lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP. - - Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht ( ngày 2 / 7 / 1997), đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vố n chảy ra nước ngoài. Lư ợng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Ngày 6 / 7 / 1997, Standard & Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia. - Ngày 13 / 7 / 1997, thị trường chứng khoán Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất từ năm - 1993. - Ngày 2 / 10 / 1997, đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tư ớng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức đưa ra chương trình ki ểm soát vốn, Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ cũng không tránh khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tư ớng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế hoạch đư ờng bộ, tàu điện và ống dẫn dầu. - Năm 1998, sản lư ợng đầu ra của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%, ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của Malaysia giảm mạnh 6,2% năm 1998. 2.4 Philippines : Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng l ãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso/USD xuống còn 38 peso/USD vào năm 2000 và còn 40 peso/USD vào cuối cuộc khủng hoảng. Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị li ên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines gi ảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 đi ểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Cuộc khủng hoảng đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay thế vị trí đó là bà Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước Philippines thoát khỏi cuộc khủng hoảng này. 2.5 Hàn Quốc – Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol) : MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 14
  15. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines… Đến tháng 10 / 1997, cuộc khủng hoảng t ài chính bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Nhiều nhà kinh tế nhận định, thực chất sự suy thoái kinh tế ở Hàn Quốc là sự sụp đổ một loạt các tập đoàn kinh tế lớn. Các tập đoàn kinh tế sụp đổ kéo theo một lượng lớn người lao động Hàn Quốc rơi vào cảnh thất nghiệp. (Nguồn : money.cnn.com) - Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế nhưng chưa đầy 10 tháng, 7/30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến khi tập đoàn thép Hanbo – tập đoàn lớn thứ 14 cũa Hàn Quốc gục ngã vì không đủ sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn Quốc mới thật sự bị chấn động. Như một bệnh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt các tập đoàn khác l ần lượt gục ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với nền kinh tế. Mối lo ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và vi ệc đồng won mất giá. Tháng 11 / 1997, các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. - - Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và ti ếp tục giảm trong nhiều ngày sau đó. - Ngày 17 / 11 / 1997, đồng won giảm xuống mức kỷ lục là 1153 won/USD, tức l à gi ảm 36,6% so với cuối năm 1996 và 19,5% so với mức cuối tháng 10 / 1997. - Ngày 28 / 11 / 1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 / 12 / 1997, l ại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 / 11 / 1997, l ại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó, đồng Won gi ảm giá xuống còn khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. 2.6 Nhật Bản – Sự sụt giá của đồng Yên : Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời mọc – Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn người lao động mất việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức. Khủng hoảng tài chính ti ền tệ ở Nhật Bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ tháng 5 / 1998, vào cuối tháng 8 / 1998 ở mức 145,5 yên/USD. Tốc độ tăng trường chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ 5% xuống cón 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998. Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất của cuộc khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó bi ến thành cuộc khủng hoảng kép (khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện. Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão ti ền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức tàn phá của mình. Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái thất thường của đồng yên. Số phận của đồng đôla và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực
  16. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. tế là tháng 10 / 1997, thị trường chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. Ngày 27 / 10 / 1997 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 đi ểm, thị trường chứng khoán tại New York tạm thời đóng băng. 2.7 Trung Quốc – một bức tường thành : Kể từ khi biến động t ài chính nổ ra ở Thái Lan vào tháng 7 / 1997 gây ra cuộc khủng hoảng tài chính ti ền tệ khu vực châu Á, đến nay Trung Quốc là nước Đông Á duy nhất đứng ngoài cuộc khủng hoảng tài chính này và luôn là điểm sang tăng trưởng của khu vực. Do cuộc khủng hoảng, ki m ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 7 / 1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng yuan về cơ bản vẫn ổn định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996 tương ứng là 105,82%; 107,16%; 109,08%. Như vậy sự biến động ở mức khá ổn định trong năm nay. Do tỷ giá hối đoái của các đồng tiền Đông Nam Á và đồng Won nối đuôi nhau giảm sút làm cho thị trường Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng chút ít nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tàu chính của Trung Quốc sẽ vẫn ổn định và đồng yuan sẽ được duy trì một cách an toàn. 2.8 Singapore : Luôn được coi là nền kinh tế t ương đối khỏe mạnh so với các nước trong khu vực trong suốt thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi, chính sách tài khóa cùa Singapore rất đáng để các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh tế mở, đồng đôla Singapore cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế đủ năng động để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, Chính phủ Singapore quản lý tỉ giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ. Tuy đồng tiền của quốc gia này được coi l à đồng ti ền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng đôla Mỹ trong suốt thời kì khủng hoảng. 3. Các biện pháp khôi phục kinh tế sau khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 : Để khôi phục nền kinh tế và ngăn ngừ a khủng hoảng tái diễn, các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng nặng đều tiến hành các cải cách cơ cấu mạnh mẽ, gồm: cải tổ cách thức quản lý trong khu vực doanh nghiệp, cải cách tài chính, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô, và đổi mới cả phương thức tăng trưởng kinh tế. * Đổi mới phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô : Hàn Quố c, Thái Lan và Indonesia đã và đang thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt và cơ chế ổ n định giá cả. Cụ thể, các nước từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái neo và hư ớng tới chế độ mục tiêu lạm phát. Đồ ng thời, các nư ớc nỗ lực gia tăng lượng dữ trự ngoại hối nhà nước của mình. Từ 1997 đến 2005, năm nư ớc bị ảnh hưởng nặng nhất của khủng hoảng đã tăng lư ợng dự trữ ngoại hối của mình lên bố n lần, đạt 378 tỷ USD. * Cải cách khu vực tài chính : Các nước Đông Á đã thực thi các bi ện pháp, chính sách sau để cải cách khu vực tài chính: (1) Xóa và giảm nợ xấu, tái vốn hóa các thể chế tài chính; (2) Đóng cửa các thể chế tài chính đổ vỡ, (3) Tăng cư ờng giám sát và áp dụng các tiêu chuẩn quản trị, kế toán mới đối với các tổ chứ c tín dụng và tài chính khác; (4) Đẩy mạnh chuyên môn hóa các thể chế tài chính; (5) Tăng cường giám sát và điều tiết các tổ chứ c tín dụng đồng thời với nâng cao kỷ luật thị trường. Yellen (2007) cho thấy các ngân hàng của Hàn Quố c đã áp dụng phương thức quản trị hiện đại của phương Tây và đã giảm được tỷ lệ sở hữu gia đình tại các ngân hàng, tăng cường lợi ích cho các giám đốc bằng cách cho họ quyền chọ n mua cổ phiếu, v.v... Còn các ngân hàng Malaysia đã thay đổi tập quán cho vay của mình. Giờ đây, họ cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay nhiều hơn. * Cải tổ cách thức quản lý của khu vực xí nghiệp : MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 16
  17. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. Các nư ớc Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia đã hoàn thiện các thủ tục về phá sản, nỗ lự c tái cơ cấu nợ của các xí nghiệp, củng cố các quy định và tiêu chuẩn về cáo bạch, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ cũng như nâng cao quyền lực và trách nhiệm của ban giám đốc, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán và kiểm toán theo thông lệ quốc tế, tăng cường mứ c vốn tự có của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho các hoạt độ ng mua lại và sáp nhập kể cả với doanh nghiệp trong nước cũng như với doanh nghiệp nước ngoài. * Cải cách các thị trường : Các nư ớc Đông Á đã và đang phát triển thị trường trái phiếu định danh bằng nội tệ của mình. Đồng thời, cải cách thị trường lao động đã cho phép các xí nghiệp tuyển dụng và sa thải lao động dễ dàng hơn, giúp xí nghiệp của các nư ớc Đông Á trở nên linh hoạt hơn. 4. Tác động : Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng đã để lại cho các nước châu Á. Tùy theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước theo 2 hướng khác nhau : các tác động tiêu cực và các tác động tích cực. 4.1 Các tác động tiêu cực : * Trước hết. hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nằm trong khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng ti ền và của thị trường ti ền tệ l àm giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố long tin. Tất cả những điều đó đã hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai. Sự gắng gỏi giữ bản giá tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát tăng cao. * Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước đang phát triển trong khu vực để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với tốc độ ôn hòa hơn. * Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thi ệt hại chung toàn thế giới khoảng 500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được những tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ USD đã bị rút khỏi Đông Nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoài gi ảm niềm tin. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và đang còn tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra. * Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm nợ nần lên các công ty – con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Các ngân hàng thì rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một l ượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán. Ở Indonesia, Do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài/GDP đã nhảy từ 35% l ên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. * Khủng hoảng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước trong khu vực (năm 1998 gấp đôi so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia…) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng. 4.2 Các tác động tích cực : Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó, nó cũng mang lại những tác động MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 17
  18. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu Á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trước đó. * Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các Chính phủ giảm thiểu được l ượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước. * Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho mục tiêu cải cách và phát tri ển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia. Có thể nói cuộc khủng hoảng như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó, hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn. * Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều là dịp để Chính phủ và nhân dân cũng như các tổ chức tài chính – tiền tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách, thể chế, con người… Từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế. Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước ASEAN và Mỹ cũng như châu Âu. CHƯƠNG III : KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2008 Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp. Và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2010. Cuộc khủng hoảng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, lộ rõ những điểm yếu tràn lan trong khuôn khổ luật lệ của hệ thống tài chính toàn cầu. 1. Nguyên nhân : Cuộc khủng hoảng lần này không phải l à quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ nói ri êng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình. Có thể tóm lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất l à hệ quả của nhau – đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ như sau : 1.1 Sự suy sụp của thị trường bất động sản - nguyên nhân trực tiếp và rõ ràng nhất : Hầu hết người dân Mỹ khi mua nhà là phải vay tiền ngân hàng sau đó trả vốn lẫn lãi trong một thời gian dài (20-30 năm) với lãi suất thả nổi. Do đó, có một sự liên hệ chặt chẽ giữa lãi suất và tình trạng của thị trường bất động sản. Khi lãi suất thấp và dễ vay mượn thì ngư ời ta đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà cử a lên cao; khi lãi suất cao thì người bán nhiều hơn người mua, đẩy giá nhà cửa xuống thấp. Đây chính là cơ chế tạo nên hiện tư ợng bong bóng bất độ ng sản – hiện tư ợng chỉ tình trạng thị trư ờng trong đó giá bất động sản hoặc tài sản bất động sản được giao dịch tăng đột biến đến một mứ c giá vô lí hoặc không bền vữ ng. Có 3 yếu tố chính tạo bong bóng bất động sản ở Mỹ : MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 18
  19. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. * Thứ nhất, từ đầu năm 2011, đặc biệt là sau cuộc khủng bố 11 / 9, khi mà sau vụ khủng bố giá các cổ phiếu Mỹ sụt giảm, để giúp nền kinh tế thoát khỏi trì trệ, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System – Fed) đã liên tục hạ thấp lãi suất, dẫn đến vi ệc các ngân hàng cũng hạ l ãi suất cho vay tiền mua bất động sản. Vào giữa năm 2000 thì lãi suất cơ bản của Fed là trên 6% nhưng sau đó lãi suất này liên tục được cắt giảm, cho đến giữa năm 2003 thì chỉ còn 1%. * Hai là, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho dân nghèo có nhà ở của Chính phủ lúc bấy giờ là tạo đi ều kiện cho dân nghèo được vay tiền dễ dàng hơn đ ể mua nhà. Vi ệc này phần lớn được thực hiện thông qua hai công ty được bảo trợ bởi Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac. Hai công ty này giúp đ ổ vốn vào thị trường bất động sản bằng cách mua lại các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại, biến chúng thành các loại chứng từ được đảm bảo bằng các khoản vay thế chấp, rồi bái lại cho các nhà đầu tư ở phố Wall, đặc biệt là các ngân hàng đầu tư khổng lồ như Bear Stearns và Merrill Lynch. * Ba là, khế ước nhận nợ của người mua nhà trở thánh một loại chứng khoán (chứng khoán phái sinh), được ngân hàng thông qua người môi gi ới đưa vào giao dịch trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường này, nhi ều nhà đầu tư cá nhân thông qua người môi giới đã bỏ tiền ra mua loại chứng khoán này để nhận lãi hằng năm mà không bi ết rõ nó là cái gì. => Vì vậy thị trường bất động sản trở nên rất sôi động, có rất nhiều người thu nhập thấp hoặc không có tín dụng tốt nhưng vẫn đổ xô đi mua nhà. Để có thể được vay, nhóm người này thường phải trả lãi suất cao hơn và thương được cho mượn dưới hính thức lãi suất đi ều chỉ nh theo thời gian, khoản tiền cho vay dành cho nhóm này đã tăng vùn vụt. Theo các ước tính thì nó tăng từ 160 tỉ USD ở năm 2001 lên 540 tỉ USD năm 2004 và trên 1.300 t ỉ USD vào năm 2007 (10% GDP của M ỹ). Fannie Mae đã mạnh tay hơn trong việc mua lại các khoản cho vay đầy mạo hi ểm do phải đối đầu với cạnh tranh nhiều hơn từ các công ty khác, chẳng hạn như Lehman Brothers. => Vì dễ vay cho nên nhu cầu mua nhà lên rất cao, kéo theo việc tăng liên tục giá bất động sản. Giá nhà bình quân đã tăng lên 54% chỉ trong vòng 4 năm từ 2001 đên 2005. Việc này cũng dẫn đến vấn đề đầu cơ và ỷ lại là giá nhà sẽ tiếp tục lên. Hệ quả l à người ta sẵn sang mua nhà với giá cao, bất kể giá trị thực và khả năng trả nợ sau này vì họ nghĩ nếu cần sẽ bán l ại để trả nợ ngân hàng mà vẫn có lời. Nhưng sau đó, giá bất động sản không ngừng gi ảm xuống, giá trị các căn hộ ngày càng thấp hơn các khoản tín dụng đã cấp. Hạn mức tín dụng gi ảm xuống thì ngân hàng thu hồi nợ, Hàng loạt căn nhà bị rao bán ở Mỹ vì “bong nhưng người mua nhà không có khả năng bóng” bất động sản nổ tung. thanh toán. (Nguồn : BBC News) 1.2 Cho vay dưới chuẩn – nguyên nhân sụp đổ thị trường bất động sản và cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ : Từ nhi ều năm qua, các ngân hàng đầu tư Mỹ đã nới l ỏng tối đa chính sách tín dụng cho các công ty và cá nhân mua bất động sản trả chậm làm nảy sinh những dòng vốn vay giá rẻ và gia tăng một l ương lớn người đi vay tiền. Trên thực tế, vốn vay rẻ sẽ l àm mất đi ý thức phòng ngừa rủi ro của người đi vay. Người đi vay dễ dàng trong vi ệc đị nh lại giá tài sản để tiếp tục một khoản vay mới nhằm trả cho khoản vay cũ. Bên cạnh đó, việc cung cấp tín dụng dễ dàng như : không cần tài sản thế chấp, tỷ l ệ trả trước rất thấp, chỉ cần có mã số thuế. Hoạt động cho vay này thật sự không đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn để được cấp tín dụng nhưng vẫn được vay đã làm gia t ăng rủi ro cho các ngân
  20. Lý thuyết tài chính tiền tệ - Gv : Hồ Thị Hồng Minh. hàng. Về phía ngân hàng, tuy hình thức cho vay này rủi ro rất lớn, nhưng đổi l ại là mức lãi suất rất cao. Mặt khác, các công ty tài chính cũng thực hiện hình thức cho vay này một cách rộng rãi và chuyển rủi ro qua ngân hàng và nhà đầu tư thông qua một sản phẩm tài chính gọi là “mua lại các khoản nợ hay khoản phải thu”. Các công ty tài chính bán các khoản phải thu cho ngân hàng với một chiếc khấu cao, ngân hàng và các tổ chức tài chính chuyên bi ệt sẽ chứng khoán hóa các khoản phải thu, nghĩa là phát hành các chứng khoán để vay ti ền với lãi suất cao. Rõ ràng là rủi ro chồng rủi ro, và đương nhiên các chứng khoán có mức độ xếp hạng tín nhi ệm càng thấp thì tỷ suất sinh lợi càng cao, thậm chí có chứng khoán không có mức độ xếp hạng tín nhi ệm nhưng vẫn được nhà đầu tư trên toàn thế giới chấp nhận do lãi suất siêu hạng. Một lương vốn đầu tư khổng l ồ trên thế giới đã đổ vào thị trường bất động sản M ỹ và khi thị trường đóng băng vào giữa năm 2007, các vụ đổ vỡ dây chuyền đã xảy ra. Các nhà đầu tư bất động sản vay tiền không đủ khả năng trả lãi vay, bất động sản không bán được, chứng khoán phát hành trên các khoản phải thu này sụt giá thê thảm, các ngân hàng không đủ khả năng trả các khoản nợ lâm vào tình trạng phá sản. 1.3 Mua bán khống : Khi gi ới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn. Thậm chí, họ còn áp dụng cách thức mua bán khống đến hai lần (naked short sale), tức l à không thèm vay chứng khoán nữa mà cứ ra lệnh bán theo kiểu “đánh xuống” vì lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu. Bộ trưởng Tư pháp bang New York, Andrew Cuomo than: “Họ giống như kẻ hôi của sau một cơn bão”. 1.4 Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ : * Có tiền, các công ty cứ thoải mái cho người vay bằng tiền của các ngân hàng đầu tư cung cấp thông qua mua lại danh mục cho vay của các công ty này. Các ngân hàng này trên cơ sở danh mục cho vay vừa mua lại sẽ phát hành CK để vay tiền. Danh mục cho vay được chia ra, ít rủi ro, rủi ro cao, tùy định mức tín nhiệm, nhà đầu tư tha hồ lựa chọn theo sự mạo hiểm của mình. Có loại CK không cần định mức tín nhiệm, có thể thu l ãi cao nhưng rủi ro cũng lớn. * Như vậy, rủi ro trong cho vay đã được chuyển từ bên cho vay là công ty tài chính sang NH đầu tư. Nhà đầu tư l ắm tiền trên thế giới đã đổ tiền mua CK này, nhờ vậy đã cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho thị trường BĐS ở Mỹ tăng nóng. * Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế 2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hi ểm nghi êm trọng của mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt giá”. 1.5 Khủng hoảng niềm tin : * Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu tư sự sụp đổ thảm khốc của niềm tin. Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng hàng đầu trong lĩnh vực đầu tư của Mỹ đã làm người dân chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Hệ thống các ngân hàng trong con mắt mọi người trở nên mong manh khi mà ba trong năm ông lớn tại thị trường phố Wall sụp đổ l à Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bearstearns. * Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xói mòn, xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman - ngân hàng tồn tại hơn 158 năm, cùng nước Mỹ trải qua rất MSSV : K105041663 – KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Page 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2