Đề bài: Cảm nhận bài Tây Tiến của Quang Dũng<br />
<br />
Bài Mẫu Số 1:<br />
<br />
Viết về Tây Tiến Quang Dũng viết bằng dòng hồi ức. Và trong dòng hồi ức ấy nỗi nhớ <br />
đồng đội luôn xao động, gợi về những kỉ niệm, hình ảnh thân thương, tha thiết, sâu lắng. <br />
Ta bắt gặp dòng hoài niệm về đồng đội, về những cầm, nỗi lòng người lính Tây tiến qua <br />
đoạn thơ:<br />
<br />
... Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,<br />
<br />
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.<br />
<br />
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,<br />
<br />
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.<br />
<br />
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,<br />
<br />
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,<br />
<br />
Áo bào thay chiếu anh về đất,<br />
<br />
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.<br />
<br />
Từ bối cảnh rừng núi hoang vu, hiểm trở trong đoạn đầu bài thơ đến đây hiện lên rõ nét <br />
hình ảnh của đoàn chiến binh Tây Tiến:<br />
<br />
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,<br />
<br />
Quân xanh màu lá giữ oai hùm.<br />
<br />
Thoạt đầu, câu thơ tưởng như chỉ mang một chút ngang tàng, một chút nghịch đầy chất <br />
lính, nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, mới thấy hết những gian nan, <br />
khổ ải của đoàn quân Tây Tiến. Không mọc tóc đó là hậu quả của những cơn sốt rét <br />
rừng run người làm tiều tuỵ, làm rụng hết cả tóc của các chiến sĩ. Rồi nước độc, rừng <br />
thiêng, bệnh tật hành hạ... tất cả như vắt kiệt sức lực khiến cho quân xanh màu lá giữ oai <br />
hùm. Hai câu thơ cho ta thấy được hình ảnh rất thực của các chiến sĩ Tây Tiến khi phải <br />
đối phó với bệnh tật: ốm đau rụng tóc... Nhưng không phải vì thế mà họ mất đi vẻ oai <br />
phong dữ dội: mắt trừng gửi mộng qua biên giới..."<br />
<br />
Đoàn quân mỏi, xanh tựa lá mà vẫn mang oai linh rừng thẳm. Mắt trừng dữ dội là để gửi <br />
mộng vượt biên cương và để "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Những người chiến sĩ <br />
Tây Tiến hầu hết là những chàng trai thị thành khoác áo lính, nên dù ra đi chiến đấu, dấn <br />
thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh lịch, đa tình, một <br />
tầm hồn đầy thơ mộng . Mơ dáng kiều thơm là mơ dáng vẻ kiều diễm, quyến rũ, thanh <br />
lịch của những người bạn gái thủ đô ngàn năm văn hiến. Có người cho rằng Quang Dũng <br />
viết câu thơ này là mộng rớt vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Song thực <br />
chất đây là một tình cảm hết sức chân thật của người chiến sĩ, nó mang mang một ý nghĩa <br />
nhân văn chân chính bởi thể hiện ước mơ đẹp của con người về một cuộc sống hoà bình, <br />
hạnh phúc đẩy người lính ra đi chiến đấu.<br />
<br />
Cả đoạn thơ bốn câu thì ba câu trên toàn nói về cái khác thường, oai dữ. Câu thơ thứ tư <br />
ngược lại đầy vẻ mềm mại, trữ tình, mơ mộng. Đoạn thơ khắc họa những hiện thực hết <br />
sức nghiệt ngã, nhưng lại không chỉ sử dụng phương pháp tả thực, mà thể hiện bằng bút <br />
pháp lãng mạn cho ta thấy hình ảnh của người không xanh xao tiều tụy mà oai phong dữ <br />
dội. Chữ nghĩa và bút pháp của Quang Dũng thật tài hoa. Các chữ không mọc tóc, dữ oai <br />
hùm, mắt trừng khắc hoạ rất sâu tư thế chủ động, vẻ kiêu hùng, ngang tàng của những <br />
chiến binh Tây Tiến. Hoàn cảnh gian khổ, những thử thách, gian nan của một miền thâm <br />
u, hiểm trở không làm cho những người lính Tây Tiến chùn bước, họ vẫn giữ ý chí, quyết <br />
tâm. Bên cái bi của hoàn cảnh vẫn trỗi lên cái tráng của ngoại hình và tinh thần. Bằng thủ <br />
pháp dường như đối lập, Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào hùng, kiêu dũng, <br />
vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây Tiến. Núi rừng <br />
miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, sự hoang sơ ấy, những người lính <br />
Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:<br />
<br />
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,<br />
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...<br />
<br />
Những người lính Tây Tiến không tiếc đời ra đi chiến đấu cho quê hương, không tiếc đời <br />
sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc. Họ ra đi mà vẫn nhớ, vẫn mang theo những tình riêng mơ <br />
mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về đất". Bằng hai chữ "áo bào", nhà thơ đã <br />
nâng cao giá trị, đã tái tạo được vẻ đẹp cao quý, một vẻ đẹp như những người tráng sĩ <br />
xưa nơi những người Tây Tiến, vẻ đẹp ấy làm mờ đi thực trạng thiếu thốn ở chiến <br />
trường. Rồi "anh về đất", cái chết nhẹ như không, như về lại những gì thương yêu, thân <br />
thuộc ngày xưa, "anh về đất" là để sống mãi trong lòng quê hương, đất nước và sông Mã <br />
thay lời núi núi sông cất lên lời ai điếu bi hùng: "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".<br />
<br />
Nỗi đau thật dữ dội, chỉ một tiếng "gầm than trầm uất", nỗi đau như dồn nén, quặn thắt <br />
từ bên trong. Không có nước mắt của đồng đội, chỉ có con sông Mã với nỗi đau cuộn <br />
chảy trong lòng, độc hành... chạy ngược vào tim.<br />
<br />
Cả đoạn thơ nói đến cái chất thật bi mà cũng thật hùng. Những người lính Tây Tiến đã <br />
được nhà thơ khắc họa với nỗi nhớ thương tha thiết, với vẻ đẹp hoang sơ, dữ dội như vẻ <br />
đẹp của núi rừng.<br />
<br />
Hình ảnh những người lính, tình cảm đồng đội, đồng chí vốn xuất hiện trong thơ ca <br />
kháng chiến. Ta vẫn thường bắt gặp những người lính chân chất giản dị, gần gũi trong <br />
thơ Chính Hữu:<br />
<br />
Áo anh rách vai,<br />
<br />
Quần tôi có vài mảnh vú.<br />
<br />
Miệng còn cười buốt giá,<br />
<br />
Chân không giày...<br />
<br />
Hay trong bài thơ Hồng Nguyên:<br />
<br />
Lũ chúng tôi,<br />
Bọn người tứ xứ,<br />
<br />
Gặp nhau hồi chưa biết chữ,<br />
<br />
Quen nhau từ buổi "một, hai"...<br />
<br />
Nhưng với Tây Tiến của Quang Dũng thì khác. Bài thơ đã khắc hoạ không phải là những <br />
người lính xuất thân từ những người nông dân cày sâu cuốc bẫm mà là những chàng trai, <br />
những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Với Tây Tiến,. Quang Dũng đã đưa <br />
người đọc ngược lên một miền thăm thẳm, nơi núi rừng, thiên nhiên mang nét đẹp hoang <br />
dại, hiểm trở. Và nổi bật lên trên nền núi rừng miền Tây Bắc ấy là hình ảnh những <br />
người lính Tây Tiến vượt lên trên mọi khổ ải, gian lao, toả sáng ý chí anh hùng. Với tám <br />
câu thơ chan chứa niềm thương nỗi nhớ da diết, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại <br />
một thời Tây Tiến với biết bao đồng đội mến thương của nhà thơ... Tất cả đã giúp Quang <br />
Dũng tái tạo và khắc họa hình ảnh oai hùng về người lính Tây Tiến. Với bút pháp tài hoa <br />
và giàu tình, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh những chiến binh Tây Tiến không chỉ mang vẻ <br />
dữ dội, mãnh liệt mà còn mang vẻ đẹp hào hoa, hào hùng thật bi tráng. Và Tây Tiến không <br />
chỉ phổ đúng hồn thơ Quang Dũng mà còn sáng lên chất thẩm mĩ hiếm thấy.<br />
<br />
Bài Mẫu Số 2<br />
<br />
Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng những bài <br />
thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang mãi tới bây giờ. <br />
Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực về những con người <br />
góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính Việt Nam. Tây Tiến của <br />
Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, <br />
người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh <br />
người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước <br />
sự hi sinh vì tổ quốc.<br />
<br />
Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến nơi ông gắn <br />
bó một thời gian dài. Miên man theo nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã tái hiện lại hình ảnh núi rừng <br />
Tây Bắc rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình.<br />
<br />
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm<br />
<br />
Heo hút cồn mây súng ngửi trời<br />
<br />
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống<br />
<br />
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"<br />
<br />
Con đường hành quân của chiến sĩ là nơi núi cao đến "ngàn thước", dốc núi sâu "thăm <br />
thẳm", heo hút mà hùng vĩ. Hình ảnh một ngọn núi cao chót vót hiện lên trước mắt người <br />
đọc cùng với mây trời bảng lảng trôi lãng đãng cũng rất nên thơ. Thấp thoáng bên dưới <br />
những dốc núi cao ấy là hình ảnh những ngôi nhà của dân bản đang lấp ló trong màn <br />
"mưa xa khơi". Vùng đất Mai Châu còn hiện lên thật đẹp trong những "mùa em thơm nếp <br />
xôi". Đọc đến đây, người đọc như hình dung ra những cánh đồng lúa ruộng bậc thang bát <br />
ngát, vàng óng báo hiệu một mùa bội thu với hương thơm ngào ngạt của lúa nếp, của bát <br />
xôi dẻo quện.<br />
<br />
Mảnh đất miền Tây còn hiện lên đẹp đẽ hơn trong những đêm giao lưu văn nghệ với thôn <br />
bản trong hình ảnh "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa". Đuốc hoa tỏa ánh sáng rực rỡ cho <br />
màn đêm núi rừng, màu sắc sặc sỡ của "xiêm áo" các cô gái miền sơn cước tạo nên bức <br />
tranh nhiều màu sắc cỏ cả vẻ đẹp núi rừng và sự sống con người nơi đây. Một bức tranh <br />
đêm lửa trại ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh của tiếng "khèn" càng <br />
làm thơ Tây Bắc nên thơ hơn bao giờ hết.<br />
<br />
Qua cái nhìn của nhà thơ, núi rừng Tây Bắc càng nên thơ như một bức tranh đẹp với <br />
nhiều chi tiết nhỏ bé thân thương:<br />
<br />
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy<br />
<br />
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ<br />
<br />
Có nhớ dáng người bên độc mộc<br />
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"<br />
<br />
Châu Mộc mang một vẻ đẹp huyền bí với những chiều sương giăng lối, lau bên những <br />
bến bờ đung đưa trước gió, lấp ló trong màn sương chiều. Đặc biệt, một hình ảnh bé nhỏ <br />
nhưng lại giàu sức gợi, đó là những bông hoa rừng như hoa mơ, hoa mận, hoa lan...đang <br />
"đung đưa" theo "dòng nước lũ". Hình ảnh rất đỗi thân thương ấy cũng góp phần tạo nên <br />
một thiên nhiên nơi núi rừng miền Tây đẹp đẽ, nên thơ, hữu tình.<br />
<br />
Cùng hình ảnh đẹp về thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc và cuộc sống sinh hoạt cộng <br />
đồng của con người nơi đây, bài thơ cũng khắc họa được hình ảnh những người lính Tây <br />
Tiến hào hoa, tâm hồn trẻ trung và cũng rất quả cảm, bi tráng.<br />
<br />
Những người lính Tây Tiến xuất thân từ trí thức trẻ, là những người học sinh, sinh viên <br />
gác bút nghiên lên đường chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, độc lập tự do cho dân tộc Việt <br />
Nam. Bởi thế, tâm hồn họ rất tinh tế, trẻ trung là một điều dễ hiểu. Với sự trẻ trung <br />
trong tâm hồn, người lính luôn nhìn cuộc sống một cách lạc quan, đứng trên đỉnh núi cao <br />
như chạm tới mây trời, họ hài hước ví von "súng ngửi trời". Gặp bệnh tật nơi rừng <br />
hoang, sương muối khiến các anh có bị rụng tóc, hay làn da xanh xao vàng vọt, thì người <br />
lính vẫn có cái nhìn lạc quan:<br />
<br />
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc<br />
<br />
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"<br />
<br />
Những người lính trong đoàn binh Tây Tiến yêu đời là vậy, họ còn lãng mạn bay bổng <br />
lắm. Phải có một cái nhìn tinh tế và tâm hồn lãng mạn, người lính mới cảm được cái vẻ <br />
đẹp của "mùa em thơm nếp xôi", cảm được vẻ đẹp của "chiều sương", của "hồn lau" <br />
cùng những bông hoa nhỏ xinh "đong đưa" trôi trên "dòng nước lũ". Và phải thật lãng mạn <br />
họ mới có những giấc mơ bay bổng "đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm". Mơ về dáng kiều <br />
thơm cũng chính là nỗi nhớ về những người con gái Hà Nội, nhớ về đất Hà thành nơi các <br />
anh gắn bó những ngày tới trường.<br />
<br />
Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính còn được khắc họa trong những buổi giao <br />
lưu văn nghệ ấm tình quân dân:<br />
<br />
"Doanh trai bừng lên hội đuốc hoa<br />
<br />
Kìa em xiêm áo tự bao giờ<br />
<br />
Khèn lên man điệu nàng e ấp<br />
<br />
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ"<br />
<br />
Người lính cũng say sưa, vui vẻ hòa mình vào không gian của lễ hội Tây Bắc. Vẻ đẹp <br />
của cảnh sắc và con người lung linh khiến những người lính trở nên ngỡ ngàng thốt lên <br />
"kìa em". Qua cái nhìn của các anh, những bó đuốc sáng rực như những bông hoa phát sáng <br />
lung linh. Từ những tiếng khèn, tiếng nhạc, người lính mơn man xây lên những "hồn thơ" <br />
đẹp đẽ, trong sáng. Hai từ "hồn thơ" lại càng khẳng định vẻ lãng mạn, chất thi sĩ trong <br />
tâm hồn những người lính xuất thân từ trí thức này.<br />
<br />
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trở nên đẹp đẽ hơn, như khúc ca tráng lệ về sự hào <br />
hùng, bi tráng trước sự hi sinh bất tử:<br />
<br />
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ<br />
<br />
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh<br />
<br />
Áo bào thay chiếu anh về đất<br />
<br />
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"<br />
<br />
Nơi khói lửa can qua, sau những trận đánh lớn, biết bao người lính hiên ngang đã ngã <br />
xuống. Hình ảnh " biên cương mồ viễn xứ" đều sử dụng các từ hán việt khiến câu thơ <br />
mang một màu sắc cổ kính hơn, bi hùng hơn. Câu thơ gợi lên một bức tranh về những <br />
nấm mồ rải rác nơi biên ải xa xôi sau những trận đánh ác liệt. Nhưng nói lên hiện thực <br />
ấy để nhà thơ khẳng định một điều rằng người lính dù hy sinh vẫn không hề nuối tiếc <br />
"chẳng tiếc đời xanh". Nó như một lời thề sắt son của các anh, nguyện "quyết tử cho tổ <br />
quốc quyết sinh". Người chiến sĩ ra đi cũng thật hiên ngang như những vị tướng sĩ ngày <br />
xưa, về với đất mẹ kính yêu. Câu thơ "sông Mã gầm lên khúc độc hành" mang một vẻ <br />
đẹp thật hào hùng, nó giống như một khúc ca vang lên thống thiết tiễn đưa những người <br />
lính. "Sông Mã" cũng như cả đất nước thổn thức "gầm lên" trước sự ra đi ấy, nó cũng thể <br />
hiện sự đau đớn biến thành sức mạnh để những người lính, những người đồng đội của <br />
các anh tiếp tục chiến đấu cho tổ quốc tự do, độc lập. Tới đây, mạch thơ như trào dâng <br />
mãnh liệt, kết thúc với một "khúc độc hành" tạo nên bức tượng đài bi tráng về người lính <br />
Tây Tiến.<br />
<br />
Bài thơ Tây Tiến đã rất thành công khi tái hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên, con người <br />
nơi núi rừng Tây Bắc, đồng thời khắc họa vẻ đẹp trẻ trung, lạc quân, tâm hồn lãng mạn <br />
cùng bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến. Tây Tiến khép lại trong âm hưởng <br />
hào hùng, bi tráng như một khúc tráng ca về một thời đạn bom đã đi qua nhưng còn sống <br />
mãi trong triệu triệu trái tim người Việt. <br />
<br />
Bài Mẫu Số 3: <br />
<br />
Những vần thơ hào hoa vang lên đi vào lòng người trở thành những lời cảm xúc ngọt ngào <br />
đi cùng năm tháng. Và vẫn còn đó, tây tiến vang lên như một khúc hành ca của những <br />
người lính. Nó là một trong những bài thơ hay đầy cảm xúc, những vần thơ ấy vang lên <br />
vẫn giống như một khúc ca đi cùng năm tháng, Tây Tiến đã trở thành một hiện tượng <br />
trong thơ Quang Dũng, cũng là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính. <br />
Những câu thơ mang một vẻ hào hoa, mang một phong cách hồn hậu,phóng khoáng. <br />
Không những thế qua bài thơ Tây Tiến chúng ta thấy được vẻ đẹp bi tráng của những <br />
người lính Tây Tiến và về một thời hào hùng đã qua đi.<br />
<br />
Một thời đạn bom đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến <br />
đấu. Những câu thơ mở đầu giống như những lời của năm tháng vọng về, từ những năm <br />
tháng chiến đấu gian nan,những con người ấy qua tiếng vọng thời gian trở nên sống động <br />
và chân thực hơn bao giờ hết. Những cơn bệnh những buổi liên hoan những đêm nằm gác <br />
" gửi mộng qua biên giới" và có cả những sự mơ mộng của những người lính trẻ tuổi và <br />
đầy nhiệt thành. Càng đọc chúng ta nhưng càng đọc mới càng thấy hiện thực khắc nghiệt, <br />
mới thấy hết những gieo neo, khổ ải của đoàn quân Tây Tiến<br />
<br />
Giữa cái gay gắt những hình ảnh của người lính hiện ra vừa hồn nhiên vừa đáng để chúng <br />
ta trân trọng. Vốn xuất thân là những chàng trai đất Hà thành trong thời gian chiến tranh <br />
nên khoác áo lính thay áo của những nam sinh viên tới chiến trường chiến đấu, dù ra đi <br />
chiến đấu, dấn thân vào gian khổ, họ vẫn luôn mang và giữ một tâm hồn hào hoa, thanh <br />
lịch, đa tình, một tầm hồn đầy thơ mộng.<br />
<br />
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi<br />
<br />
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi<br />
<br />
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi<br />
<br />
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"<br />
<br />
Những khó khăn của những người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những <br />
vần thơ của Quang Dũng. Đó là những gian nan mà những người lính phải trải qua, chính <br />
những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng của họ... những triền dốc khiến người <br />
ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến độ hun hút của những con <br />
dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu.chưa dừng lại đó,những hình ảnh hun hút, <br />
đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời<br />
<br />
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm<br />
<br />
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời"<br />
<br />
Những gian nan khó khăn ấy mở nguồn cho hình ảnh đẹp vi tráng của những người lính <br />
ấy. Cũng có những lúc sự hồn nhiên của người lính được thể hiện qua những giây phút <br />
mệt mỏi,gục lên ba lô và ngủ,bỏ lại sau đó những khó khăn vất vả, những hiểm nguy của <br />
kháng chiến.Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu không bước nữa là một hình <br />
ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người chiến sĩ ấy. Đó <br />
là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái tráng <br />
lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, " bỏ quên đời" những <br />
kí ức về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm <br />
với những con thú dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.<br />
<br />
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi <br />
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu <br />
giếm, sự thiếu thốn hay những căn bệnh như sốt rét, khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc, <br />
quang Dũng đã khai thác một vẻ đẹp hết sức chân thực của người lính Tây tiến, dù khó <br />
khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc. Hình ảnh quân xanh <br />
màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm. Mắt trừng <br />
gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt <br />
hiện lên lửa hy vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số <br />
phận, cũng có thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở <br />
mắt để nhớ những bóng kiều thơm kia..Đó sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ <br />
phần lớn là những trí thức Hà Thánh ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà <br />
không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ..<br />
<br />
Với việc sử dụng biện pháp đối, nhà thơ Quang Dũng đã vừa khắc họa được vẻ đẹp hào <br />
hùng, kiêu dũng, vừa khắc họa được tâm hồn hào hoa và đa cảm của người chiến sĩ Tây <br />
Tiến. Chúng ta có thể thấy núi rừng miền Tây hùng vĩ và hoang sơ, đi trong sự hùng vĩ ấy, <br />
sự hoang sơ ấy, và những người lính Tây Tiến như được truyền thêm sức mạnh, vững <br />
bước vượt qua những gian khổ, hy sinh:<br />
<br />
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,<br />
<br />
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh...<br />
<br />
Những người lính tây tiến không sợ hy sinh bản thân họ, nếu có thể họ không tiếc hi sinh <br />
thân mình để bảo vệ những người thân yêu mình ở hậu phương. Họ ra đi mà vẫn nhớ, <br />
vẫn mang theo những tình riêng mơ mộng, khi họ hi sinh thì "áo bào thay chiếu anh về <br />
đất.. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho <br />
các anh mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã <br />
hiện ra, gầm lên khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự <br />
chơi vơi nữa mà là tiếng gầm, nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.<br />
<br />
Lấy cảm hứng từ cuộc sống chân thực mà chính bản thân tác giả trải qua,những chàng <br />
trai, những học sinh, sinh viên thành thị khoác áo lính. Thêm một lần nữa Quang Dũng đã <br />
đưa chúng ta về với tây Tiến với những kí ức vừa lãng mạn vừa bi tráng. Dưới ngòi bút <br />
hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn <br />
hậu,giản dị lại hết sức khí phách.Qua đây ta cũng thấy được những vẻ đẹp bi tráng của <br />
những chiến binh tây tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những <br />
con người vì quê hương đất nước.<br />
<br />
Bài Mẫu Số 4: <br />
<br />
Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Du xây dựng hình tượng những người nông dân, công dân, <br />
học sinh, những người mẹ, người chị ... quyết đi theo tiếng gọi của tự do để tham gia <br />
cuộc kháng chiến chống Pháp.<br />
<br />
Cũng có những năm tháng không bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế <br />
hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó chính là những ngày tháng kháng chiến chống Pháp, khi <br />
toàn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân Pháp trở lại xâm <br />
lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn còn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự <br />
do hay trở về với cuộc đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao người.<br />
<br />
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ <br />
mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được hào khí của một thời với hình ảnh bao người <br />
mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng ra <br />
đời trong hoàn cảnh chung đó.<br />
<br />
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. <br />
Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, <br />
với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. <br />
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những <br />
đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người <br />
lính Tây Tiến.<br />
<br />
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người <br />
lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải <br />
bật lên:<br />
<br />
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"<br />
<br />
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. <br />
Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang Dũng vang vọng đến đoàn quân Tây Tiến? Không! Đó <br />
là tiếng lòng của tác giả "xa rồi Tây Tiến ơi!" nhưng tấm lòng thì vẫn tha thiết lắm! Âm <br />
hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lòng của Quang Dũng như xoáy vào tâm hồn <br />
người đọc rung theo những xúc cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:<br />
<br />
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"<br />
<br />
Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? "Nhớ chơi vơi"! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt <br />
gặp:<br />
<br />
"Ra về nhớ bạn chơi vơi"<br />
<br />
Nỗi nhớ "chơi vơi" là nỗi nhớ không định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ <br />
ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chiều sâu. Nó muốn tràn ra không gian để xoáy vào lòng <br />
người. Một người ngoài cuộc hẳn không thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang Dũng với nỗi <br />
lòng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thôi. Với tấm lòng tha thiết thì hẳn nỗi "nhớ chơi <br />
vơi" là điều hoàn toàn có lý. Cùng vẫn sử dụng vần "ơi", câu thơ có sức lan tỏa rộng. Vần <br />
"ơi" lan ra theo nỗi nhớ "chơi vơi" của tác giả.<br />
<br />
Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại <br />
dấu ấn không quên. Quang Dũng nhớ đầu tiên là nhớ về rừng núi<br />
<br />
"Nhớ về rừng núi..."<br />
<br />
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng chiến đấu Rừng núi in <br />
đậm bao nỗi khổ, bao niềm vui nỗi buồn của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là <br />
người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đã từng <br />
nếm trải:<br />
<br />
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi<br />
<br />
Mường Lát hoa về trong đêm hơi<br />
<br />
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm<br />
<br />
Heo hút cồn mây súng ngửi trời<br />
<br />
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống<br />
<br />
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."<br />
<br />
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước <br />
mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu <br />
thơ:<br />
<br />
"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt<br />
<br />
Máu trộn bùn non<br />
<br />
Gan không núng, chí không mòn!"<br />
<br />
Tố Hữu mô tả thắng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ <br />
mô tả cái hoang vu, hoang dã của một vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng <br />
đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa danh xa lạ <br />
"Sài Khao", "Mường Lát", "Pha Luông", rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. <br />
Hơn thế, cần phải nhớ rằng đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà <br />
Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên cảnh núi rừng càng <br />
xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.<br />
<br />
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.<br />
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."<br />
<br />
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời <br />
người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu <br />
sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương "Sài Khao sương lấp đoàn <br />
quân mỏi" sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải <br />
làm ta tưởng chừng như đoàn quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng <br />
không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:<br />
<br />
"Mường lát hoa về trong đêm hơi"<br />
<br />
Câu thơ ấy đã xoá đi cái mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, để đoàn quân tiếp bước. <br />
Những khó khăn lại cứ rải trên đường người lính đi qua:<br />
<br />
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm<br />
<br />
Heo hút cồn mây súng ngửi trời<br />
<br />
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"<br />
<br />
Hình ảnh "khúc khuỷu" làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá! "Dốc <br />
thăm thẳm" lại làm cho những khó khăn như nhiều hơn, dài ra theo tính chất "thăm thẳm" <br />
của con dốc và trên những đường dốc ấy, "súng ngửi trời". Chỉ riêng "heo hút cồn mây" <br />
đã gợi một không khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn <br />
độc của những người lính khi đứng giữa đèo cao.<br />
<br />
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:<br />
<br />
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."<br />
<br />
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn <br />
thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ <br />
kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.<br />
<br />
Cả khổ thơ đầu là những khó khăn của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước <br />
bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ: vậy người lính sống thế nào nhỉ?<br />
<br />
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa<br />
<br />
Gục lên súng mũ bỏ quên đời<br />
<br />
Chiều chiều oai linh thác gầm thét<br />
<br />
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."<br />
<br />
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đoàn quân Tây Tiến đã <br />
gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người <br />
lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngòi bút rất thực ấy. Trước <br />
gian khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao <br />
giờ tỉnh dậy:<br />
<br />
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa"<br />
<br />
Những anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính không chịu nỗi <br />
gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:<br />
<br />
"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"<br />
<br />
"Bỏ quên đời" chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ <br />
trần. Những hình ảnh sử dụng, rất đắt là hình ảnh "gục lên súng mũ". Ta chợt nhớ đến <br />
dáng đứng của anh giải phóng quân về sau:<br />
<br />
"Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn<br />
<br />
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"<br />
<br />
Dáng đứng của anh giải phóng quân đi mãi vào lòng những người dân trong kháng chiến <br />
chống Mỹ thì dáng ngã gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm <br />
hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. <br />
"Gục lên súng mũ" cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí <br />
thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.<br />
<br />
Những khó khăn lại đến:<br />
<br />
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét<br />
<br />
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."<br />
<br />
Hình như có ai đó đã nói về cách sử dụng từ "Mường Hịch" của Quang Dũng. Địa danh <br />
đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, nguyên <br />
vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xôi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì khó <br />
khăn như tăng thêm bội phần. Những nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể <br />
mất dọc cuộc hành trình.<br />
<br />
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói<br />
<br />
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."<br />
<br />
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình <br />
như có cái gì nào nức, rộn rã:<br />
<br />
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa<br />
<br />
Kìa em xiêm áo tự bao giờ<br />
<br />
Khèn lên man điệu nàng e ấp<br />
<br />
Nhạc về Viên Châu xây hồn thơ<br />
<br />
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy<br />
<br />
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ<br />
<br />
Có nhớ dáng người trên độc mộc<br />
<br />
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."<br />
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ <br />
niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên <br />
Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp giả vờ. Câu <br />
thơ với hai chữ "kìa em" vừa mang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người <br />
chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó hẳn sẽ không quên trong lòng người cũng như vẫn còn <br />
nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người lính Tây Tiến còn <br />
sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu chất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng <br />
người trên độc mộc vào buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ... <br />
tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.<br />
<br />
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn <br />
như nguyên vẹn. Nỗi nhớ "chơi vơi" trải khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ <br />
về người lính Tây Tiến. Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận trong <br />
máu thịt tác giả:<br />
<br />
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc<br />
<br />
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"<br />
<br />
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi "Vệ <br />
trọc". Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét <br />
đến nỗi trọc cả đầu chỉ còn một vài sợi tóc lưa thưa đến nổi da xanh xao "màu lá".<br />
<br />
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mô tả:<br />
<br />
"Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi."<br />
<br />
Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điều này, tác <br />
giả còn muốn cho ta biết, người lính Tây Tiến sống như thế đấy! Họ s61ng đ46 chiến <br />
đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấu với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao nhiêu <br />
khó khăn người lính vẫn<br />
<br />
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"<br />
Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người <br />
lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đuối <br />
nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ "dữ oai hùm" của anh lính. "Dữ oai hùm" làm mất đi sự yếu <br />
đuối của "đoàn quân không mọc tóc" và của "quân xanh màu lá", câu thơ trên giúp cho câu <br />
thơ sau tiếp tục:<br />
<br />
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới<br />
<br />
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"<br />
<br />
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là <br />
hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ. Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê <br />
hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng mạn <br />
của người chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính "trừng" nhưng không hề mang nét <br />
dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, <br />
điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra chỉ trích <br />
cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở <br />
đây không làm mất đi quyết tâm của người lính Tây Tiến. Quyết tâm đánh giặc và lãng <br />
mạn phải kết hợp hài hoà mới có thể tạo nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ một cách <br />
sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hoàn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta <br />
đã quên đi hay cố tình quên đi. Người lính Tây Tiến chiến đấu cho ai? Mục đích của họ <br />
hướng tới là gì nếu không phải quê hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính mơ về Hà <br />
Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người <br />
chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !<br />
<br />
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã <br />
xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì <br />
chiến đấu.<br />
<br />
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ."<br />
<br />
Câu thơ đọc lên nghe sao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua <br />
lại, chẳng bao giờ về. Từ "rải rác" làm ta cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã <br />
xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những con <br />
người phải từ giã cuộc đời. Từ "viễn xứ" tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừng núi, gợi sự <br />
cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ trầm xuống xoáy vào lòng ta nỗi buồn không <br />
thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ không cất nổi mình, nhưng ngược lại:<br />
<br />
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"<br />
<br />
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu <br />
thơ trước tạo nên cái "bi", câu thơ sau tạo nên nét "tráng". Cái không khí bi quan bíên mất, <br />
chỉ còn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. Bảo "chẳng tiếc đời <br />
xanh" là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về <br />
lí tưởng chiến đấu. Đâu phải họ không tiếc cho tuổi trẻ. Không phải "tuổi trẻ là mùa <br />
xuân" đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ còn có tự do, quê hương. Còn người hậu <br />
phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó là lý do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc <br />
đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ nhàng:<br />
<br />
"Áo bào thay chiếu anh về đất<br />
<br />
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"<br />
<br />
Cách dùng từ "áo bào" làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh ra đi mãi mãi nhưng anh ra đi <br />
là cho lẽ sống của mình sống mãi nên cái chết của anh nhẹ nhàng như "về đất". Hơn thế, <br />
có chăng Quang Dũng có lý khi dùng từ "về đất" ngoài ý giảm nhẹ sự đau thương? Quang <br />
Dũng không muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. <br />
Người lính Tây Tiến sống lãng mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là <br />
lý do tác giả có ý sử dụng từ cổ kính và nói theo lối nói của người lính Tây Tiến. Quang <br />
Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sẽ ra đi của họ là <br />
nhẹ nhàng, thanh thản: họ về với đất. Đất như người mẹ giang tay ôm đứa con yêu vào <br />
lòng và người chiến sĩ ngủ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi xa nhưng linh <br />
hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết <br />
đi, quê hương ôm anh vào lòng, sông núi hát lên tiễn đưa anh:<br />
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"<br />
<br />
Không hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến <br />
cái chết của anh. Bóng dáng của anh hoà vào núi sông, hòa vào đất mẹ.<br />
<br />
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh không bao giờ mờ phai trong tâm trí <br />
con người. Hình ảnh người lính và những kỷ niệm đậm mãi trong lòng Quang Dũng và <br />
mỗi chúng ta.<br />
<br />
"Tây Tiến người đi không hẹn ước<br />
<br />
Đường lên thăm thẳm một chia phôi<br />
<br />
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy<br />
<br />
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."<br />
<br />
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng <br />
điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã <br />
gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. <br />
Ấy là Tây Tiến!<br />
<br />
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung linh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!<br />
<br />
<br />