Đề bài: Nhà thơ Xuân Diệu có nhận xét về bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng: <br />
“Đọc Tây Tiến, ta có cảm hưởng như ngậm nhạc trong miệng”. Em hãy chứng <br />
minh nhận định trên<br />
<br />
Bài văn mẫu<br />
<br />
Đất nước ơi! Tổ quốc ơi! Ba tiếng đó sao nghe thân thương quá! Đất nước trưởng thành <br />
từ trong những gian khổ, hy sinh. Giọt mồ hôi đầm đìa trên gương mặt người cầm súng. <br />
Giọt nước mắt chan hòa trên mắt lệ nhòa người quê nhà mỏi mắt ngóng vọng tin chồng, <br />
tin con. “Bốn ngàn năm Đất Nước” của tôi, đã bao người đã từng hiên ngang trước quân <br />
thù, đã từng ngã xuống trong tư thế đường hoàng, đĩnh đạc của người lính Vệ quốc. <br />
Trong trải nghiệm văn học song hành cùng một phần ba cuộc đời, hình tượng người lính <br />
Tây Tiến trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng đã để lại trong lòng tôi những dấu ấn <br />
khó phai mờ để rồi mỗi lần đọc lại, tôi lại khẽ thốt lên: “Đất nước ơi” – đất nước của <br />
những con người kiên trung, hào hùng không bao giờ biết cúi đầu chịu khuất. “Tây Tiến” <br />
đi sâu vào lòng người hơn bảy mươi năm chẳng bao giờ vơi nhạt một phần nhờ chất <br />
nhạc trong thơ mà Quang Dũng khéo léo gieo vào. Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận xét: <br />
“Đọc Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong miệng”. Nhạc điệu dường như <br />
bàng bạt khắp bài thơ, nhất là những đoạn thơ tái hiện khung cảnh thiên nhiên núi rừng <br />
Tây Bắc vừa dữ dội, vừa thi vị, nên thơ, thấp thoáng đằng sau là bóng dáng con người âm <br />
thầm dựng xây Tổ quốc. <br />
<br />
Trong văn chương, mỗi nhà văn, nhà thơ đều phải trăn trở, nỗ lực tìm ra một “chất giọng <br />
riêng” cho mình để không trộn lẫn với bất kì giọng điệu của một tác giả nào khác trên <br />
văn đàn. Ở mỗi tác phẩm văn chương, giọng điệu chính là: “một hiện tượng nghệ thuật <br />
toát ra từ bản thân tác phẩm và mang một nội hàm tư tưởng thẩm mĩ” (Trần Đình Sử). <br />
Giọng điệu nghệ thuật bị chi phối từ rất nhiều yếu tố: cảm hứng sáng tác, cái nhìn hiện <br />
tượng, tư tưởng tình cảm của tác giả đối với sự vật, con người, phong cảnh,… Giọng <br />
điệu ấy được cụ thể hóa qua từ ngữ, lời văn, ngữ điệu và các thủ pháp nghệ thuật trong <br />
tác phẩm, để qua đó bộc lộ thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo của nhà văn đối <br />
với các hiện tượng được miêu tả. Mỗi tác phẩm văn chương đều có giọng điệu, sắc thái <br />
riêng. Sắc thái giọng điệu trở thành phương tiện chuyển tải bức tranh hiện thực vào trong <br />
tác phẩm, đồng thời chuyển tải nội dung tư tưởng, tình cảm của nhà thơ đến với người <br />
đọc, thể hiện thái độ của thi sĩ trước cuộc sống. Đó là “nhạc” trong nhận định Xuân <br />
Diệu, những giai điệu khi hùng tráng, khi mềm mại… khiến bài thơ trở nên phong phú và <br />
riêng biệt không lẫn lộn với những thi phẩm cùng thời khi viết về đề tài người lính. <br />
<br />
“Tây Tiến” – thi phẩm xuất sắc cho đời thơ Quang Dũng, bài thơ được viết năm 1948 khi <br />
Quang Dũng đã rời xa đoàn quân Tây Tiến, dòng hồi tưởng đưa Quang Dũng trở về với <br />
những kí ức xa xưa: về những cung đường chiến đấu, về đồng đội của mình… mỗi kí ức <br />
là một mảng màu khác nhau góp phần làm nên muôn mặt sắc thái của bài thơ “Tây Tiến”. <br />
Rời xa đoàn quân Tây Tiến, xa núi rừng Tây Bắc, xa dòng sông Mã thân thương, người <br />
lính năm xưa làm sao quên được một Tây Bắc dữ dội, bí ẩn, đe dọa tính mạng con người. <br />
Vẻ hoang dã, khắc nghiệt được Quang Dũng tái hiện qua hai câu thơ:<br />
<br />
Chiều chiều oai linh thác gầm thét<br />
<br />
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người<br />
<br />
Cái hay của Quang Dũng là đã mở ra được hai chiều không gian và thời gian để gợi lại <br />
bức tranh núi rừng Tây Bắc. Ở những dòng thơ trước đó, người lính Tây Tiến được đặt <br />
trong miền không gian hoang vu, núi cao dốc thẳm “Ngàn thước lên cao ngàn thước <br />
xuống”, người lính mệt nhoài khi hành quân trên cung đường mà một bên là vách đá cheo <br />
leo, một bên là vực thẳm sâu hun hút, mây mờ che cả chóp núi đỉnh đồi, che lấp dáng <br />
người đi trong mờ mịt. Đến đây, thiên nhiên Tây Bắc lại được mở ra theo chiều thời gian: <br />
“Chiều chiều”, “Đêm đêm”. Ta tự hỏi tại sao Quang Dũng lại không chọn mốc thời gian <br />
nào khác mà chọn buổi chiều tà và đêm tối để miêu tả khung cảnh núi rừng? Bởi chỉ có <br />
“Chiều chiều” và “Đêm đêm” mới thấy được hết cái uy lực của núi rừng. Tây Bắc là <br />
chốn non ngàn, rừng thiêng, vùng lam sơn chướng khí nghìn trùng ẩn chứa nhiều điều bí <br />
ẩn mà con người khó lòng khám phá được hết. Ở nơi này thời tiết thất thường, những <br />
cơn thác lũ mưa nguồn thường đổ ầm ầm vào mỗi buổi chiều xám xịt. Biện pháp nhân <br />
hóa “thác gầm thét” nhằm chỉ cái “oai linh” của thiên nhiên. Cảnh tượng ấy thật ghê rợn, <br />
tưởng như thác lũ có thể cuốn nhà cửa bản làng đi bất cứ lúc nào. Ta tưởng đâu Tây Bắc <br />
là chốn núi non ít chịu những cơn lũ quét như dải đất ven biển miền Trung hay đồng bằng <br />
Nam Bộ. Nhưng không, nước lũ Tây Bắc mới thật đáng sợ bởi nó đổ từ trên thác cao <br />
xuống dốc ầm ầm, cuốn trôi mọi thứ. Dòng thơ khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên, <br />
một Tây Bắc với thiên tai bất ngờ đe dọa tính mạng đồng bào và đoàn quân Tây Tiến <br />
trong chiều hành quân vất vả. Và “Đêm đêm”, đâu đó trong rừng Mường Hịch lại văng <br />
vẳng thanh âm rùng rợn của cọp gầm. Tiếng “cọp trêu người” nghe thật xa xót trong lòng. <br />
Người đồng bào phải sống trong thấp thỏm lo âu. Thú dữ là nỗi lo lắng của con người <br />
nơi đây, rừng hoang Tây Bắc nơi hùm thiêng ngự trị biết một lúc nào sẽ cướp đi tính <br />
mạng con người? Từ đây, người đọc nhận ra một hành trình Tây Tiến thật vất vả, gian <br />
nan, vắt kiệt sức người trai trẻ để rồi nhiều người ngậm ngùi “bỏ quên đời” ở cái tuổi <br />
thanh xuân. <br />
<br />
Vẫn là mưa nguồn nước lũ đó thôi, nhưng đến đoạn thơ sau thiên nhiên Tây Bắc lại <br />
khoác lên một nét hoàn toàn mới. Trước mắt người lính, cảnh vật Tây Bắc êm dịu, lãng <br />
mạn, thi vị đến diệu kỳ. Quang Dũng chỉ gợi chứ không tả, qua vài nét đơn sơ mà ghi lại <br />
được linh hồn của cảnh Châu Mộc chiều sương giăng. Sông nước Tây Bắc không giống <br />
như sông nước miệt Cửu Long xa xôi, chất thơ chảy tràn ngấm và từng dòng sông ngọn <br />
cỏ :<br />
<br />
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy<br />
<br />
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ<br />
<br />
Có nhớ dáng người trên độc mộc<br />
<br />
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa<br />
<br />
Ai đi qua Châu Mộc chiều sương mới thấy hết sự quyến rũ, gợi cảm của thiên nhiên nơi <br />
này. Đối với người lính, cảnh và người sơn cước đã để lại ấn tượng khó phai mờ. Bản <br />
làng sương giăng mờ mịt, không gian nửa thực nửa hư ảo, mơ màng. Điệp khúc: “Có <br />
thấy”, “Có nhớ” vừa để hỏi chính lòng mình, vừa là cái cớ để khơi nhắc những hình ảnh <br />
đẹp. Đằng sau mỗi “Có thấy”, “Có nhớ” ấy chính là một nét phác họa không gian thiên <br />
nhiên dựa vào những gì “thấy” và “nhớ” còn sót lại trong dòng hồi ức xuôi chảy. Về Châu <br />
Mộc, người lính “thấy” cỏ lau phơ phất, bến bờ lặng lẽ chìm trong sương chiều. Dòng <br />
sông hiền hòa chảy ngang qua núi rừng về đâu chẳng biết. Người lính Tây Tiến “nhớ” <br />
bóng dáng người thiếu nữ Tây Bắc yêu kiều, thướt tha trên chiếc thuyền “độc mộc”. <br />
Hình ảnh con người hiện lên tùy mềm mại, dịu dàng nhưng khỏe khoắn biết bao, đôi bàn <br />
tay chèo chống con thuyền xuôi ngược trên dòng sông yên ả. Cảnh vật và con người hài <br />
hòa, xen lẫn vào nhau. Con người tuy bé nhỏ so với sông nước, mây trời nhưng con người <br />
chính là nhân vật trung tâm của bức tranh chiều sương Châu Mộc. <br />
<br />
Cảnh Châu Mộc đẹp trong từng đường nét, người Tây Bắc duyên dáng, hồn hậu, chân <br />
tình. Ngay cả dòng nước lũ cũng hiện lên thật thi vị, lãng mạn biết chừng nào: “Trôi dòng <br />
nước lũ hoa đong đưa”. Bằng đôi mắt đa tình của những người lính trẻ trung sôi nổi, cánh <br />
hoa trôi bồng bềnh trên dòng nước lũ trông thật thơ mộng, không giống cái lần đi ngang <br />
qua thác ghềnh oai, nghe tiếng “thác gầm thét” mà bồn chồn trong dạ. Chỉ mấy nét vẽ vời <br />
mà bức tranh thơ đang hiện ra trước mắt người đọc. Đó cũng là những hình ảnh khắc <br />
đậm vào tâm trí người lính Tây Tiến, trong lòng Quang Dũng dẫu xa rời một thời Tây <br />
Tiến lửa máu hào hùng cũng chẳng thể nào quên được nơi đây.<br />
<br />
Cùng là thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, song mỗi đoạn thơ là một nét vẽ khác nhau. Một <br />
bên là Tây Bắc dữ dội, hiểm trở, oai linh rừng núi và sự khắc nghiệt của khí hậu sơn <br />
cước đe dọa tính mạng con người, trở thành nỗi ám ảnh trong lòng người chiến đấu. Một <br />
bên là Tây Bắc thơ mộng, hữu tình, cảnh vật đẹp trong từng đường nét, con người trầm <br />
mặc giữa bức tranh thơ. Cảm hứng lãng mạn đã giúp Quang Dũng nhận ra trong gian lao, <br />
vất vả người lính Tây Tiến vẫn mở rộng tâm hồn nhìn cuộc đời ở góc độ tuyệt mĩ, mộng <br />
mơ. Có một bản tình ca Tây Bắc nào đó len lỏi trong từng dòng thơ, con chữ. Bản trường <br />
ca của thác lũ. Tiếng cọp gầm hung dữ, tiếng hú của rừng thiêng. m thanh dòng nước <br />
chảy róc rách có bông hoa đong đưa làm duyên. Hai đoạn thơ là minh chứng hùng hồn cho <br />
chất nhạc trong thơ Quang Dũng. Quả thật, “Đọc Tây Tiến, ta cảm tưởng như ngậm <br />
nhạc trong miệng”. Thơ giàu chất nhạc, chất họa là phong cách của Quang Dũng không <br />
lẫn lộn vào ai. Nhà thơ Hoàng Cầm từng cho rằng: “Nhạc là cỗ xe chở hồn thi phẩm”. <br />
Chính vì chất nhạc trong thơ đã giúp “Tây Tiến” đi vào lòng người đọc bao thế hệ, để rồi <br />
mỗi lần đọc lại, cái chất nhạc ấy lại vang ra cộng hưởng cùng tiếng nói tâm hồn khiến <br />
lời thơ đọng mãi trong tâm trí.<br />
<br />
Xin hát về Người đất nước ơi<br />
<br />
Xin hát về Mẹ Tổ quốc ơi…<br />
<br />
Xin cảm ơn những người đã không tiếc máu xương để đất nước tôi được thanh bình, <br />
đồng bào tôi được no ấm. Xin cảm ơn người lính năm nào tay súng vững vàng, mắt trừng <br />
trừng hướng về phía quân thù mà lòng mơ về một ngày mai tươi sáng. Xin tri ân những <br />
người bà, những người mẹ, những người dân tình nghĩa nuốt nước mắt vào tim để chồng, <br />
để con ra đi đánh giặc đuổi thù. Thế hệ tôi đã thừa hưởng từ đất nước và những người đi <br />
trước rất nhiều. Trong bối cảnh ngày nay, trước nguy cơ xâm lăng của thế lực bên ngoài, <br />
chúng tôi luôn trăn trở làm thế nào để trọn vẹn bổn phận, thực hiện sứ mệnh của công <br />
dân Việt Nam đối với hình hài Tổ quốc. Dẫu chưa làm được gì vĩ đại cho Tổ quốc máu <br />
xương nhưng tôi biết rằng chỉ khi nào con người có trách nhiệm với non sông, với dân tộc <br />
thì khi đó con người mới trưởng thành, nhất định sẽ trở thành người công dân có ích. “Tây <br />
Tiến” – bài thơ đã giúp thế hệ tôi nhìn nhận lại lịch sử hào hùng của dân tộc, tạo nên <br />
nguồn sức mạnh to lớn để chúng tôi sống tốt hơn, bản lĩnh hơn.<br />