Đề bài: Cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, trong bài "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!... <br />
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ trên<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Tây Bấc mảnh đất xa xôi đã khiến cho rất nhiều thi sĩ phải hạ bút viết về nó. Có lẽ, <br />
mảnh đất miền Bắc địa đầu Tổ quốc ấy có một sức hút kì lạ cho nên bài thơ “Tây Tiến” <br />
của nhà thơ Quang Dũng và “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên đã ra đời. Cùng bộc lộ <br />
nỗi nhớ về Tây Bắc nhưng mỗi nhà thơ lại có những cách thể hiện khác nhau. Chính sự <br />
khác nhau ấy đã tạo nên sự độc đáo khác lạ giữa hai bài thơ.<br />
<br />
Khởi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sự đất nước nhưng Tây <br />
tiến đã được thể hiện theo một cách rất riêng qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng <br />
cụ thể nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến và rộng hơn là nỗi nhớ Tây Bắc. Đặc <br />
biệt là khổ thơ<br />
<br />
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!<br />
<br />
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi<br />
<br />
Sài Khao sượng lấp đoàn quân mỏi<br />
<br />
Mường Lát hoa về trong đêm khơi”<br />
<br />
Khổ thơ nằm ở đầu bài thơ, là nỗi nhớ da diết, bâng khuâng khó tả:<br />
<br />
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!<br />
<br />
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”'<br />
<br />
Văn thơ Việt Nam có không ít những câu hay nói về nỗi nhớ, nhưng nỗi nhớ “chơi vơi” thì <br />
rất có thể Quang Dũng là người đầu tiên. Nỗi nhớ ấy như có dáng hình, bồng bềnh, bồng <br />
bềnh trong không gian, trong thời gian, bâng khuâng, không dễ tả.<br />
<br />
Người đọc như lạc vào chốn Tây Bắc hiểm trở và hùng tráng được dàn trải trong không <br />
gian nhớ mênh mông. Rồi cứ thế, nỗi nhớ đồng đội dần dần lan tỏa, thấm đượm trong <br />
từng câu thơ, khổ thơ. Có thể thấy, bài thơ được xây dựng trên cảm hứng thương nhớ <br />
triền miên, với bao cảm giáo ào ạt xô tới:<br />
<br />
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi<br />
<br />
Mường Lát hoa về trong đêm khơi”<br />
<br />
Nỗi nhớ của Quang Dũng cứ thu hẹp dần, hẹp dần. Những địa danh miền Tây, Sài Khao, <br />
Mường Lát và những địa danh khác có thật khác gợi lên cái âm u, mịt mù của miền đất lạ, <br />
nơi ấy có đoàn quân mệt mỏi đang đi trong sương, lại vừa có vẻ lãng mạn, huyền thoại.<br />
<br />
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”<br />
<br />
Câu thơ quả là độc đáo, “hoa về” mà không phải “hoa nở”, “đêm hơi” mà không phải là <br />
“đêm sương”. Hoa hiện ra mờ mờ ảo ảo trong màn sương, câu thơ đẹp, lung linh, huyền <br />
ảo. Đọc đến đây, cái mỏi của đoàn quân dường như tan biến hết. Quang Dũng đã viết về <br />
nỗi nhớ rất đặc biệt đó là nỗi nhớ về mảnh đất Tây Bắc, nhớ về những địa danh cụ thể <br />
nơi mà binh đoàn Tây Tiến đi qua.<br />
<br />
Nếu nỗi nhớ Tây Bắc là nỗi nhớ về Sài Khao, Mường Lát, nhớ sông Mã..mà Quang Dũng <br />
đã viết thì nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại khác hoàn toàn. Đó là nỗi nhớ quê hương, nỗi <br />
nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Chế Lan Viên đã nhớ Tây Bắc <br />
như vậy:<br />
<br />
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ<br />
<br />
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương”<br />
<br />
Câu thơ như một chân lí. Những bản làng, những núi đèo ẩn hiện qua sương mờ và mây <br />
phủ đã gợi lên trong lòng bạn đọc biết bao miền đất trong đời đã từng đi qua làm sống dậy <br />
vô vàn kỷ niệm. Và chính những miền đất, những kỷ niệm ấy đã nuôi dưỡng, bồi đắp và <br />
làm phong phú lòng yêu quê hương đất nước Việt Nam.<br />
Nói đến tình yêu trong nỗi nhớ, câu thơ Chế Lan Viên lấp lánh, rực rỡ những sắc màu, bồi <br />
hồi, xôn xao những xúc động. Chế Lan Viên đã diễn tả thật hóm hỉnh, độc đáo và sâu sắc <br />
mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những kẻ đang yêu:<br />
<br />
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét<br />
<br />
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng<br />
<br />
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc<br />
<br />
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”<br />
<br />
Tình yêu ở đây không chỉ giới hạn ở tình yêu đôi lứa của anh và em mà còn là sự kết tinh <br />
của những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước với mảnh đất miền Tây. Nhà <br />
thơ đã khẳng định sức mạnh của tình yêu, chính tình quê hương ta đã hóa thành máu thịt <br />
tâm hồn ta. “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. “Tình yêu làm đất lạ <br />
hóa quê hương”. Những câu thơ cô đúc như một châm ngôn chứa đựng những phát hiện <br />
sâu sẩc về quy luật của tình cảm này không xuất phát, không lấy điểm tựa từ trí tuệ sắc <br />
sảo mà chủ yếu được Chế Lan Viên biến tạo trên cái nền của những xúc động của chính <br />
tâm hồn mình, lắng nghe tiếng lòng của chính mình mà châm nghiệm ra một chân lí phổ <br />
quát của đời sống tình cảm con người.<br />
<br />
Hai đoạn thơ trên cùng bộc lộ nỗi nhớ về Tây Bắc, cùng bộc lộ tình yêu quê hương, đất <br />
nước. Nhưng điều đặc biệt không nằm ở nỗi nhớ mà là trạng thái cảm xúc của từng tác <br />
giả, là đối tượng mà hai tác giả nhớ đến. Hai đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một <br />
mảnh đất Tây Bắc, một mảnh đất miền Tây xa xôi nhưng tình cảm giữa người với người <br />
thì sâu nặng vô cùng. <br />