BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH 

NGUYỄN THỊ HOA

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH 

NGUYỄN THỊ HOA

CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành

: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

Mã số

: 9.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học 1.PGS,TS. Nguyễn Văn Dần 2. TS. Vũ Nhữ Thăng

HÀ NỘI - 2022

i

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... ii

DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ v

DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................... vii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án ................................................................... 1

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .............. 3

2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa

chính sách tài khoá nói chung hướng tới tăng trưởng kinh tế ........................... 3

2.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tác động của chính sách thu

ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế ........................................... 7

2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tác động của chi ngân sách

nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế .......................................................... 10

3. Khoảng trống nghiên cứu ............................................................................ 13

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án .................................. 14

5. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án .................................................... 15

6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án ........................................................ 15

7. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 15

9. Kết cấu của luận án ..................................................................................... 18

ii

CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH

TẾ……...………… ......................................................................................... 19

1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ ....................................................................................... 19

1.1.1 Lý luận chung về chính sách tài khóa ........................................... 19

1.1.2 Lý luận về tăng trưởng kinh tế ...................................................... 24

1.2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ ....................................................................................... 31

1.2.1 Cơ chế tác động của chính sách thu ngân sách nhà nước hướng tới

tăng trưởng kinh tế .................................................................................. 31

1.2.2 Cơ chế tác động của chính sách chi ngân sách nhà nước hướng tới

tăng trưởng kinh tế .................................................................................. 34

1.2.3 Cơ chế tác động của chính sách thu ngân sách nhà nước, chính sách

chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ

với chính sách tiền tệ ............................................................................... 37

1.3 KINH NGHIỆM VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI

HỌC CHO VIỆT NAM .................................................................................. 42

1.3.1 Kinh nghiệm về sử dụng chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng

kinh tế của một số nước trên thế giới ...................................................... 42

1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................. 49

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 52

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM .................................................. 55

iii

2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC GIAI ĐOẠN

1991 – 2020 ..................................................................................................... 55

2.1.1 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 1991 – 2000 55

2.1.2 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2001 – 2010 57

2.1.3 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2011 – 2020 60

2.2 THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 – 2020 ................... 63

2.2.1 Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 1991 –

2020....... .................................................................................................. 63

2.2.2 Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1991 –

2020..... .................................................................................................... 84

2.3 NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI

KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN

1991 – 2020 ..................................................................................................... 92

2.3.1 Phát triển mô hình thực nghiệm tác động của thu ngân sách nhà

nước và chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế ............. 92

2.3.2 Phát triển giả thuyết tác động của thu ngân sách nhà nước và chi

ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế................................. 94

2.3.3 Kết quả thực nghiệm tác động của thu ngân sách nhà nước và chi

ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế................................. 98

2.4 ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 – 2020 ..... 114

2.4.1 Những kết quả đạt được .............................................................. 114

2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân .................................................. 116

iv

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 122

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ............................................................. 125

3.1 DỰ BÁO BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030 .................... 125

3.1.1 Dự báo bối cảnh thế giới đến năm 2030 ..................................... 125

3.1.2 Dự báo bối cảnh trong nước đến năm 2030 ................................ 130

3.2 QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI

KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM

2030.................. ............................................................................................. 135

3.2.1 Quan điểm hoàn thiện chính sách tài khóa ở Việt Nam đến năm

2030........ ............................................................................................... 135

3.2.2 Định hướng hoàn thiện chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng

kinh tế ở Việt Nam đến năm 2030 ........................................................ 138

3.3 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG

TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ......................................... 141

3.3.1 Nhóm giải pháp chung ................................................................ 141

3.3.2 Nhóm giải pháp cụ thể ................................................................ 148

3.4 ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP ................................................ 170

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 172

KẾT LUẬN ................................................................................................... 174

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... i

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. xxiv

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ

ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Hoa

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Từ Tiếng Anh

Nghĩa Tiếng Việt

1.

APEC

Asia-Pacific Economic

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế

Cooperation

châu Á – Thái Bình Dương

2. ARDL

AutoRegressive Distributed Lag Mô hình tự hồi quy phân phối

trễ

3. ASEAN Association of South East Asian

Hiệp hội các quốc gia Đông

Nations

Nam Á

An sinh xã hội

4. ASXH

Bảo vệ môi trường

5.

BVMT

Cách mạng công nghiệp

6. CMCN

7. CPTPP

Comprehensive and Progressive

Hiệp định Đối tác Toàn diện

Agreement for Trans-Pacific

và Tiến bộ xuyên Thái Bình

Partnership

Dương

Chính sách tài khóa

CSTK

8.

Chính sách tiền tệ

CSTT

9.

Kinh tế vĩ mô

10. KTVM

11.

ECM

Error Correction Model

Mô hình hiệu chỉnh sai số

12.

EFA

Exploratory Factor Analysis

Phân tích nhân tố khám phá

13.

EU

European Union

Liên minh châu Âu

14. EVFTA

European-Vietnam Free Trade

Hiệp định Thương mại tư do

Agreement

giữa Việt Nam - EU

15.

Gross domestic product

Tổng sản phẩm quốc nội

GDP

16.

Gross national income

Thu nhập quốc dân

GNI

17.

Gross National Product

Tổng sản lượng quốc gia /

GNP

Tổng sản phẩm quốc gia

iii

Gross output

Tổng giá trị sản xuất

GO

18.

Doanh nghiệp

DN

19.

Sản xuất kinh doanh

SXKD

20.

GSO

General Statistics Office

Tổng cục Thống kê

21.

Giá trị gia tăng

GTGT

22.

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FDI

23.

Free Trade Agreement

Hiệp định thương mại tự do

FTA

24.

ICOR

Incremental Capital - Output

tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng

25.

Ratio

thêm

26.

IMF

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

Khoa học và công nghệ

27. KH&CN

Kinh tế - xã hội

28. KTXH

NDI

National disposable income

Thu nhập quốc gia khả dụng

29.

NI

National Income

Thu nhập quốc dân

30.

Ngân sách địa phương

NSĐP

31.

Ngân sách Nhà nước

32. NSNN

Ngân sách Trung ương

33.

NSTƯ

34. OECD

Organization for Economic

Tổ chức Hợp tác và Phát triển

Cooperation and Development

Kinh tế

ODA

Official Development Assistance Hỗ trợ phát triển chính thức

35.

OLS

Ordinary Least Square

Phương pháp bình phương

36.

nhỏ nhất

PTKT

Phát triển kinh tế

37.

RCEP

Regional Comprehensive

Hiệp định Đối tác Kinh tế

38.

Economic Partnership

Toàn diện Khu vực

TFP

Total-Factor Productivity

Năng suất nhân tố tổng hợp

39.

TNCN

Thu nhập cá nhân

40.

iv

TNDN

41.

Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB

42.

Tiêu thụ đặc biệt

TTKT

43.

Tăng trưởng kinh tế

ĐTPT

44.

Đầu tư phát triển

45.

USD

United States dollar

Đô la Mỹ

46. XHCN

Xã hội chủ nghĩa

47.

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới

48. WEF

World Economic Forum

Diễn đàn Kinh tế Thế giới

49. WTO World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000

......................................................................................................................... 65

Bảng 2.2. Tỷ lệ số chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000

......................................................................................................................... 66

Bảng 2.3. Tỷ trọng số chi NSNN thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 1991 – 2000 ............................................................................ 66

Bảng 2.4. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

......................................................................................................................... 70

Bảng 2.5. Tỷ lệ số chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

......................................................................................................................... 72

Bảng 2.6. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

......................................................................................................................... 78

Bảng 2.7. Tỷ lệ số chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

......................................................................................................................... 79

Bảng 2.8. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000 ..................................................... 85

Bảng 2.9. GDP bình quân đầu người của các nước ASEAN giai đoạn 1995

– 2000 .............................................................................................................. 86

Bảng 2.10. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 ..................................................... 88

Bảng 2.11. GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ............................. 89

Bảng 2.12. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ..................................................... 90

Bảng 2.13. Hệ số ICOR theo giá so sánh 2010 ở Việt Nam 2011 – 2020

......................................................................................................................... 91

vi

Bảng 2.14. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của các biến tham gia trong

nghiên cứu ..................................................................................................... 101

Bảng 2.15. Kết quả kiểm định đường bao của các biến tham gia trong

nghiên cứu ..................................................................................................... 101

Bảng 2.16. Ước lượng mô hình ARDL theo độ trễ tối ưu .................... 102

Bảng 2.17. Kết quả kiểm định đường bao của các biến tham gia trong

nghiên cứu ..................................................................................................... 103

Bảng 2.18. Kết quả mô hình ước lượng ARDL sửa lỗi (ECM) trong ngắn

hạn ................................................................................................................. 104

Bảng 2.19. Kết quả kiểm định mô hình ARDL .................................... 106

Bảng 2.20. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của các biến trong nghiên

cứu ................................................................................................................. 107

Bảng 2.21. Kết quả kiểm định đường bao của các biến trong nghiên cứu

....................................................................................................................... 108

Bảng 2.22. Ước lượng mô hình ARDL theo độ trễ tối ưu (4, 3, 4, 4) .. 109

Bảng 2.23. Kết quả kiểm định đường bao của các biến trong nghiên cứu

....................................................................................................................... 110

Bảng 2.24. Kết quả mô hình ước lượng ARDL sửa lỗi (ECM) trong ngắn

hạn ................................................................................................................. 111

Bảng 2.25. Kết quả kiểm định mô hình ARDL .................................... 113

Bảng 3.1. Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới, một số quốc gia và

khu vực kinh tế lớn ........................................................................................ 127

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Tác động của tổng cầu đến sản lượng ..................................... 33

Hình 1.2: Tác động của chi tiêu Chính phủ lên sản lượng của nền kinh tế

......................................................................................................................... 35

Hình 1.3: Luồng thu nhập của các khu vực trong chu chuyển kinh tế ... 36

Hình 1.4. Mô hình đường IS ................................................................... 37

Hình 1.5. Mô hình đường LM ................................................................. 38

Hình 1.6. Chính sách tài khóa mở rộng và sản lượng của nền kinh tế trong

mô hình IS – LM ............................................................................................. 38

Hình 1.7. Chính sách tài khóa mở rộng, lãi suất và sản lượng của nền kinh

tế trong mô hình IS – LM ................................................................................ 39

Hình 1.8. Chính sách tài khóa thu hẹp, lãi suất và sản lượng của nền kinh

tế trong mô hình IS – LM ................................................................................ 39

Hình 1.9. Chính sách tiền tệ nới lỏng và sản lượng của nền kinh tế trong

mô hình IS – LM ............................................................................................. 40

Hình 1.10. Chính sách tiền tệ thắt chặt và sản lượng của nền kinh tế trong

mô hình IS – LM ............................................................................................. 40

Hình 1.11. Chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng và

lãi suất, sản lượng của nền kinh tế trong mô hình IS – LM ............................ 41

Hình 2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thế giới giai đoạn 1991 –

2000 ................................................................................................................. 56

Hình 2.2. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thế giới giai đoạn 2001 –

2010 ................................................................................................................. 57

Hình 2.3. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thế giới giai đoạn 2011 –

2020 ................................................................................................................. 61

Hình 2.4. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000 ............. 64

viii

Hình 2.5. Tỷ trọng số thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 1991 – 2000 ............................................................................ 64

Hình 2.6. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt Nam

giai đoạn 1991 – 2000 ..................................................................................... 67

Hình 2.7. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 ............. 68

Hình 2.8. Tỷ trọng số thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2001 – 2010 ............................................................................ 69

Hình 2.9. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt Nam

giai đoạn 2001 – 2010 ..................................................................................... 74

Hình 2.10. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ........... 76

Hình 2.11. Tỷ trọng số thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020 ............................................................................ 77

Hình 2.12. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020 ............................................................................ 84

Hình 2.13. GDP theo giá thực tế và tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai

đoạn 1991 – 2000 ............................................................................................ 84

Hình 2.14. GDP theo giá thực tế và tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai

đoạn 2001 – 2010 ............................................................................................ 87

Hình 2.15. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình theo tiêu chí AIC ....... 102

Hình 2.16. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy của phần dư ..................... 105

Hình 2.17. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư ... 106

Hình 2.18. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình theo tiêu chí AIC ....... 108

Hình 2.19. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy của phần dư ..................... 112

Hình 2.20. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư ... 112

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hoá

và hội nhập quốc tế đã đem lại nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia nói

chung và Việt Nam nói riêng nhưng đồng thời đặt ra nhiều khó khăn, thách

thức. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của quá trình

phát triển và tăng trưởng kinh tế (TTKT) của mỗi quốc gia là biết lựa chọn và

tận dụng tối đa các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, trong đó chính sách tài khoá

(CSTK) là công cụ phổ biến và có tầm quan trọng rất lớn. CSTK tận dụng chi

tiêu công và hệ thống thuế để đạt được các mục tiêu như TTKT, tạo công ăn

việc làm, ổn định giá cả.

Về mặt lý thuyết, các nhà nghiên cứu cho rằng CSTK có phạm vi tác động

lớn tới nền KTVM thông qua hoạt động huy động và sử dụng nguồn lực NSNN

và được nhận định là “điểm tựa” tốt cho TTKT. Đối với các quốc gia đang phát

triển có nguồn lực ngân sách hạn chế như Việt Nam, việc vận dụng CSTK

hướng tới TTKT cần phải thích ứng với điều kiện và từng giai đoạn phát triển

của đất nước.

Về mặt thực tiễn, nhiều bằng chứng cho thấy CSTK đã có nhiều đóng

góp tích cực vào từng giai đoạn PTKT của Việt Nam. Tuy nhiên, do các mục

tiêu KTXH được Đảng và Nhà nước xây dựng trong 05 năm hoặc 10 năm, nên

CSTK cũng được thực hiện theo hướng mở rộng hoặc thắt chặt theo từng giai

đoạn 05 năm hoặc 10 năm tương ứng. Tuy nhiên, có những thời điểm, CSTK

không thể thực hiện theo đúng định hướng như trước khi có các yếu tố bất ngờ

xuất hiện. Chẳng hạn, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 cùng với nhiều yếu

tố bất ổn khác về địa chính trị, căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn,

dịch bệnh kép trong những năm 2019-2020 đã tác động nghiêm trọng đến

TTKT và các cân đối lớn của nền kinh tế ở các quốc gia và Việt Nam. Khi kinh

2

tế toàn cầu có dấu hiệu suy giảm nhanh chóng do Covid-19 khiến cho hoạt động

SXKD bị ngắt quãng, đình trệ và đời sống của người dân vô cùng khó khăn,

các nước buộc phải khẩn trương thực hiện điều chỉnh CSTK để giảm thiểu tác

động tiêu cực của Covid-19. Điều đặc biệt, đại dịch Covid-19 được coi là một

thảm kịch chưa từng có từ trước tới nay, thậm chí còn tạo ra khủng hoảng gấp

nhiều lần so với nhiều đại dịch mà thế giới đã từng đối mặt và hậu quả trầm

trọng hơn cả Chiến tranh thế giới thứ hai do Covid-19 gây chết người trên diện

rộng chỉ trong thời gian rất ngắn. Có thể nói Covid-19 xuất hiện như một yếu

tố đột biến làm thay đổi toàn bộ cấu trúc tài khóa của một quốc gia, khiến cho

các quốc gia và Việt Nam thường xuyên bám sát tình hình diễn biến của Covid-

19 để đưa ra các biện pháp điều chỉnh CSTK có tính chất khẩn cấp theo hướng

mở rộng, thậm chí là ban hành các chính sách thu và chi chưa từng có tiền lệ

trong lịch sử (liên tục ban hành các chính sách miễn/giảm các loại thuế, đồng

thời tiết giảm tối đa các khoản chi chưa thực sự cần thiết để tập trung nỗ lực

tăng chi cho hoạt động y tế vượt mức quy định thông thường cũng như ưu tiên

dành nguồn lực cho chi đầu tư để ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế). Kết

quả cho thấy, CSTK của Việt Nam đã phát huy được tác dụng thúc đẩy TTKT

phù hợp với từng giai đoạn và ngay cả thời điểm nền kinh tế rơi vào tình trạng

khẩn cấp vì dịch bệnh Covid-19.

Trong thời gian tới, dịch bệnh Covid-19 về cơ bản đã được kiểm soát,

tuy nhiên sự phục hồi của nền kinh tế vẫn chưa thực sự được đảm bảo do sự

biến động của nhiều yếu tố vĩ mô bên ngoài như xung đột quân sự giữa Nga-

Ukraine, các sự kiện cắt giảm nguồn cung xăng dầu và các lệnh cấm vận về

trao đổi năng lượng giữa các quốc gia phát triển… khiến cho lạm phát có xu

hướng tăng (nhất là giá xăng dầu, nguyên vật liệu đầu vào tăng cao) tác động

đến doanh nghiệp và người dân. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh chi đầu tư công

trong nước còn chậm ảnh hưởng đến quá trình phục hồi kinh tế.

3

Từ những phát hiện, phân tích trên, nghiên cứu sinh nhận thấy cần có

những nghiên cứu chuyên sâu về CSTK nhằm hoạch định, thực thi linh hoạt,

có hiệu quả hướng tới TTKT và phù hợp với từng thời kỳ. Do đó, nghiên cứu

sinh lựa chọn tên đề tài luận án là “Chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng

kinh tế ở Việt Nam” có tính cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về mặt khoa

học và thực tiễn.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu thực nghiệm về mối quan

hệ giữa chính sách tài khoá nói chung hướng tới tăng trưởng kinh tế

John Maynard Keynes (1973) chỉ ra rằng khi sản lượng của nền kinh tế

nằm dưới mức tiềm năng do suy thoái, việc áp dụng CSTK theo hướng mở rộng

(tăng chi NSNN hoặc giảm thuế) có thể kích thích đầu tư từ khu vực ngoài nhà

nước, tăng tỷ lệ sử dụng lao động và tăng tổng sản lượng, nhờ đó, tác động đến

chu kỳ kinh tế và khắc phục sự bất cân xứng trong tổng cầu. [149]

David Begg & cộng sự (1987) và Paul A.Samuelson (1997) khẳng định

rằng, chính sách thuế có vai trò quan trọng đến TTKT, việc giảm thuế suất sẽ

tạo động lực cho sản xuất, đầu tư, qua đó thúc đẩy TTKT. Bên cạnh đó, nhóm

nghiên cứu cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc phân tích, đánh giá vai trò

của chính sách thuế và chi NSNN đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy

TTKT. [107][60]

Bùi Đường Nghiêu (2000) đã đánh giá khái quát tình hình tài chính Việt

Nam 10 năm từ 1991 – 2000; nêu lên đặc điểm của nền kinh tế, những vấn đề

đặt ra đối với CSTK nước ta giai đoạn 2001 – 2010, từ đó đưa ra những định

hướng và giải pháp về đổi mới CSTK giai đoạn 2001 – 2010.[40]

Bùi Nhật Tân (2015) đã phân tích diễn biến CSTK của Việt Nam qua

từng giai đoạn khác nhau. Có những năm CSTK được thực hiện theo hướng

mở rộng (tập trung tăng chi đầu tư công) do mục tiêu hàng đầu mà Chính phủ

4

đặt ra là đạt được TTKT cao. Có giai đoạn, CSTK thực hiện theo hướng thắt

chặt nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Có giai đoạn CSTK nới lỏng (ban

hành các gói kích thích với quy mô lớn) để kích thích TTKT khi nền kinh tế có

dấu hiệu đi xuống như sản xuất khó khăn, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng chậm lại,

lao động dư thừa do những tác động của khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy

nhiên, khi thực hiện CSTK nới lỏng trong một thời gian khiến cho lạm phát

tăng cao thì Chính phủ chuyển hướng thực hiện CSTK thận trọng và linh hoạt

(giảm thuế và kiểm soát chi NSNN) và nêu ra các giải pháp đổi mới CSTK

hướng tới TTKT đến năm 2020. [61]

Nguyễn Thanh Giang (2018) đã trình bày lý luận về CSTK và TTKT;

tìm hiểu kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc hoạch định và sử dụng

CSTK, rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam; đánh giá thực trạng

của CSTK và tác động của CSTK trong việc thúc đẩy TTKT ở Việt Nam giai đoạn

1991 - 2017; đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện CSTK trong việc thúc

đẩy TTKT Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.[29]

Nguyễn Thị Nguyệt & nhóm nghiên cứu (2017) đã giới thiệu CSTK và

chu kỳ kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam; đưa ra mô hình đánh giá hiệu quả

CSTK; đánh giá thực trạng CSTK và chu kỳ kinh tế. Từ đó, đề xuất quan điểm

và giải pháp định hướng điều hành CSTK nhằm ổn định chu kỳ kinh tế trong

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. [41]

Đào Mai Phương & nhóm nghiên cứu (2021) đã tổng hợp những vấn đề

chung về cơ sở lý luận đối với CSTK và tăng trưởng toàn diện; kinh nghiệm

thực thi của một số quốc gia về điều chỉnh CSTK hướng đến mục tiêu tăng

trưởng toàn diện, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam; làm rõ

thực trạng tăng trưởng toàn diện, CSTK thúc đẩy tăng trưởng toàn diện ở Việt

Nam giai đoạn 2001 – 2020; đề xuất các khuyến nghị về đổi mới CSTK nhằm

thúc đẩy tăng trưởng toàn diện ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030.[42]

5

Bên cạnh sự phong phú của nền tảng lý thuyết liên quan đến mối quan

hệ giữa CSTK và TTKT, các nghiên cứu thực nghiệm trước đây cũng có nhiều

kết luận đa dạng và khác nhau về mối liên kết này. Norman Gemmell & cộng

sự (2011) nghiên cứu về tác động ngắn hạn và dài hạn của CSTK lên tăng

trưởng GDP ở 17 nước OECD giai đoạn 1970 – 2004, kết quả cho thấy CSTK

có tác động đến TTKT khá rõ trong ngắn hạn, nhưng tác động trong dài hạn lại

khá nhỏ vì CSTK có tính bất ổn và những thay đổi tài khóa về kìm hãm hay

thúc đẩy tăng trưởng thường xảy ra đồng thời [125]. Dimitrios Paparas &

Christian Richter (2015) khi tìm hiểu và xác định các công cụ nào trong CSTK

có tác động đến TTKT ở 15 quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu (EU) đã chỉ ra

những ảnh hưởng đa dạng của chúng, cụ thể, chi tiêu cho nhân lực, cho quốc

phòng và an ninh tác động âm lên TTKT, ngược lại, chi cho phát triển hạ tầng

và thâm hụt ngân sách tác động dương lên TTKT, trong khi đó, không tìm thấy

ảnh hưởng của tốc độ tạo việc làm và độ mở thương mại lên TTKT [112].

Trong khi mối quan hệ giữa CSTK và các biến KTVM được chứng minh

là khá rõ ràng tại các nước phát triển, kết quả nghiên cứu trong bối cảnh của

các nước đang phát triển tồn tại nhiều sự mơ hồ. Chẳng hạn, nghiên cứu của

Baldacci & cộng sự (2004) cho rằng, đối với các nước đang phát triển, không

nên sử dụng chi NSNN làm công cụ để thúc đẩy TTKT, đặc biệt trong trường

hợp hiệu quả chi NSNN không cao, mà thay vào đó, điều chỉnh bằng chính sách

thuế sẽ tốt hơn. Nghiên cứu này còn chỉ ra một thể chế minh bạch và hiệu quả

là yếu tố cần thiết để ổn định vĩ mô, giảm rủi ro và tăng tính bền vững của

CSTK, có lợi cho mục tiêu TTKT [99]. Matthew Kofi Ocran (2011) xem xét

tác động của các công cụ CSTK, bao gồm chi tiêu dùng và chi đầu tư đại diện,

thu thuế và thâm hụt/thặng dư NSNN, đến sản lượng và lãi suất ở Nam Phi giai

đoạn 1990 – 2008 đã cho thấy các công cụ của CSTK có tác động đến sản lượng

ở mức khá khiêm tốn nhưng kéo dài trong dài hạn. [161].

6

Tương tự, Anthony Igwe & cộng sự (2015) phân tích tác động của một

số công cụ CSTK bao gồm chi đầu tư, chi thường xuyên và thuế thu nhập đối

với TTKT ở Nigeria trong giai đoạn 1970 – 2012 và chỉ ra rằng chi đầu tư và

chi thường xuyên có ảnh hưởng tích cực, và thuế thu nhập lại có ảnh hưởng

tiêu cực đến TTKT trong dài hạn. Do đó, họ khuyến nghị áp dụng chính sách

thuế nhằm thúc đẩy TTKT [136]. Kadir Karagöz & Rıdvan Keskin (2016) khi

phân tích tác động của CSTK đối với tổng thể KTVM bao gồm GDP, lạm phát,

chỉ số thị trường chứng khoán, nợ nước ngoài và lãi suất ở Thổ Nhĩ Kỳ giai

đoạn 2003 – 2015 đã nhận thấy rằng tác động của chính sách chi và thu ngân

sách đến các biến số này là khá hạn chế [148]. Nghiên cứu của Ugwuanyi &

Ugwunta (2017) cho thấy các khoản chi NSNN và các loại thuế có tác động

đáng kể đến TTKT, trong khi đó, họ không thể kết luận được về sự tồn tại của

mối quan hệ giữa cân đối NSNN và TTKT do tác động tuy dương nhưng không

có ý nghĩa thống kê đối với các nước châu Phi cận Sahara [191].

Các nghiên cứu trước đây không chỉ phân tích mối liên hệ trực tiếp giữa

các công cụ của CSTK với các biến số KTVM, mà còn xem xét các yếu tố điều

chỉnh/trung gian cho mối quan hệ này, mà phổ biến nhất là yếu tố thể chế. Ví

dụ, Macek & Janků (2015) nghiên cứu ảnh hưởng của CSTK lên TTKT ở các

nước OECD trong giai đoạn 2000 – 2012 đã sử dụng tính minh bạch của thể

chế làm biến điều chỉnh và cho thấy ảnh hưởng ngược chiều của yếu tố này đến

mối quan hệ. Cụ thể, chi NSNN có tác động dương lên TTKT ở các nước có

mức độ minh bạch tài khóa kém hơn do tỷ trọng chi đầu tư trong tổng chi NSNN

ở các nước này cao hơn, và tác động âm lên TTKT ở các nước có mức độ minh

bạch tài khóa cao hơn do sự tồn tại của chi phí phúc lợi. Ngược lại, khi xem xét

công cụ tài khoá là thuế, thuế có tác động âm đến TTKT ở các nước có điều

kiện thể chế kém hơn [158]. Saima Nawaz & M.Idrees Khawaja (2019) nghiên

cứu tác động của CSTK đến TTKT trong khi xem xét mức độ phát triển và

7

kiểm soát đối với trạng thái thể chế của 56 quốc gia đã cho thấy sự tác động

không có ý nghĩa thống kê trong toàn bộ mẫu. Tuy nhiên, khi tách mẫu thành

hai nhóm – các nền kinh tế phát triển và đang phát triển, họ tìm thấy tác động

dương của CSTK đến TTKT ở các nền kinh tế phát triển và tác động âm ở các

nền kinh tế đang phát triển [182].

2.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tác động của chính sách

thu ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

Ngô Văn Khương (2016) đã xem xét số tiền thu thuế và thực trạng của

nền kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 2005 – 2014, xem xét quan hệ giữa cơ cấu

vốn đầu tư phát triển trong các khu vực kinh tế với mức tăng trưởng GDP, mức

tăng trưởng thuế để đúc kết mối quan hệ tương quan giữa tăng trưởng nguồn thu

thuế và tăng trưởng GDP, từ đó đưa ra những giải pháp để thực thi tái cấu trúc thu

NSNN. Luận án cũng cung cấp các nhóm giải pháp mang tính tổng quát và các

nhóm giải pháp mang tính cụ thể đối với từng sắc thuế nhằm hướng nền kinh tế

Việt Nam đạt được phát triển bền vững. [34]

Nguyễn Thị Hoa & nhóm nghiên cứu (2021) đã hệ thống hóa cơ sở lý

luận liên quan đến nội dung quy mô và cơ cấu thu NSNN hợp lý; tìm hiểu

nghiên cứu thực tiễn quy mô và cơ cấu thu NSNN của nhiều quốc gia trên thế

giới, từ đó tìm điểm tương đồng cũng như định hướng quy mô và cơ cấu thu

NSNN ở Việt Nam cần thay đổi thời gian tới; phân tích, đánh giá thực trạng về

quy mô và cơ cấu thu NSNN của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020; nhận định

những ưu điểm và những hạn chế của quy mô và cơ cấu thu NSNN, tìm ra

nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn tới những hạn chế đó; xác định ngưỡng

tối ưu của tỷ lệ tổng thu NSNN trên GDP cho Việt Nam; đánh giá tình hình

phát triển KTXH Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020; tìm hiểu bối cảnh thế giới

và đưa ra những xu hướng phát triển của thế giới trong thập kỉ tới; đề xuất một

số giải pháp để đạt quy mô, cơ cấu thu NSNN hợp lý ở Việt Nam giai đoạn

8

2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030. Cụ thể là: Giải pháp ổn định và mở

rộng số thu nội địa, tăng cường thu NSNN từ nội lực nền kinh tế; giải pháp đối

với các sắc thuế quan trọng có đóng góp nhiều vào NSNN để thúc đẩy TTKT;

xác định hợp lý tỷ lệ thu NSNN so với GDP. Bên cạnh đó, đề tài đưa một số

kiến nghị nhằm góp phần đảm bảo tính hợp lý của quy mô và cơ cấu thu NSNN

thời gian tới, như: (i) Quản lý chi NSNN hiệu quả; (ii) nâng cao chất lượng đội

ngũ cán bộ, công chức – những người thực hiện các chính sách quản lý NSNN

nói chung và quản lý thu NSNN nói riêng; (iii) nâng cao năng lực thanh tra,

kiểm tra. [30]

Các chính phủ cần thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong lĩnh vực

chính trị, xã hội và kinh tế để tối đa hóa phúc lợi xã hội và phát huy vai trò quản

lý KTVM, để thực hiện được những nhiệm vụ và chức năng này, thu NSNN là

một công cụ quan trọng của CSTK vì nó đáp ứng cho chi NSNN (Ahmad, 2010)

[89]. Illyas & Siddiqi (2010), thu NSNN có thể được phân thành hai loại là thu

thuế và thu phi thuế [137].

Chính sách thu NSNN của một quốc gia xác định ai là người trả tiền cho

các dịch vụ và hàng hóa công cộng được cung cấp bởi chính phủ. Nói cách

khác, bằng cách phân chia tỷ trọng thu ở các hoạt động khác nhau, các quốc gia

có thể phân bổ gánh nặng thuế cho các nhóm công dân và các lĩnh vực cụ thể

của nền kinh tế, trong khi vẫn đảm bảo năng lực tài chính để thực hiện các

chương trình phát triển của quốc gia (Ahmad, 2010) [89]. Do đó, thu NSNN

tác động đến TTKT thông qua việc đáp ứng các nhu cầu khác nhau của chính

phủ (Illyas & Siddiqi, 2010) [137], (Abiola & Asiweh, 2012) [85]. Như vậy,

bên cạnh vai trò cơ bản là tạo nguồn thu cho chính phủ, chính sách thu NSNN

còn ảnh hưởng đến mức thu nhập của người tiêu dùng và hoạt động sản xuất

(Emran & Stiglitz, 2005) [114]. Theo Johansson & cộng sự (2008), chính sách

thuế là cơ chế quan trọng nhất của thu NSNN nhằm tác động đến kết quả hoạt

9

động kinh tế, vì thuế ảnh hưởng đến quyết định tiết kiệm và đầu tư [142]. Sự

tác động lên TTKT của các loại thuế có thể rất khác nhau, cho nên, việc thiết

lập một hệ thống thuế phù hợp là rất quan trọng.

Nhiều nghiên cứu ủng hộ ảnh hưởng tích cực của thuế đến TTKT. Engen

& Skinner (1996) đã xem xét tác động của việc cắt giảm 5% thuế suất đối với

TTKT dài hạn và cho thấy rằng TTKT của Mỹ tăng 0,2-0,3% [116]. Mehmet

Serkan Tosun & Sohrab Abizadeh (2005) chỉ ra được sự tồn tại của mối quan

hệ tích cực giữa thuế TNDN, thuế TNCN và TTKT tại 21 quốc gia thành viên

của OECD trong giai đoạn 1980 – 1999 [163]. Trong điều kiện của các nước

đang phát triển, Mashkoor & cộng sự (2010) đã phát hiện ra rằng thuế có tác

động tích cực cả trong ngắn hạn và dài hạn, thậm chí là mối quan hệ nhân quả,

đối với TTKT ở Pakistan [160]. Okafor (2012) cho thấy tác động tích cực và

đáng kể của thuế thu nhập đối với sự phát triển kinh tế tại Nigeria giai đoạn

1981 – 2007 [169], Ofoegbu & cộng sự (2016) sử dụng chỉ số phát triển con

người làm đại diện cho PTKT cũng đưa ra kết luận tương tự đối với nước này

[167]. Gacanja (2012) chứng minh được mối quan hệ tích cực hai chiều giữa

TTKT và thuế TTĐB, mối quan hệ một chiều giữa thuế thu nhập và TTKT,

giữa TTKT và thu NSNN, tuy nhiên, không có mối quan hệ nhân quả nào giữa

TTKT và thuế nhập khẩu [123]. Babatunde & cộng sự (2017) cho thấy rằng thu

từ thuế thúc đẩy TTKT ở các nước châu Phi [98].

Ngược lại, một số nhà nghiên cứu không đồng tình với những kết luận

trên. Chẳng hạn, theo Poulson & Kaplan (2008), Ferede & Dahlby (2012) và

Dackehag & Hansson (2012), mức thuế cao làm tăng chi phí vốn, ngăn cản các

khoản đầu tư trực tiếp trong nước và nước ngoài, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến

TTKT trong dài hạn. Họ cho rằng thuế thu nhập cao ảnh hưởng đến thu nhập

khả dụng, khiến các hộ gia đình chi tiêu ít hơn và tiết kiệm nhiều hơn, làm mất

đi động cơ đầu tư cá nhân, đồng thời, nguồn thu xuất phát từ thuế thu nhập cao

10

ảnh hưởng tiêu cực đến cung lao động và đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực

dẫn đến TTKT thấp hơn [172] [120] [105]. Furceri, D., & Karras, G. (2009)

nghiên cứu trên 26 nền kinh tế châu Âu giai đoạn 1965 – 2007 cho thấy thuế

thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến GDP thực bình quân đầu người trong dài

hạn, cụ thể mức thu thuế tăng lên 2% thì GDP thực bình quân đầu người giảm

từ 0,5% đến 1%. Kết quả này hàm ý rằng GDP bình quân đầu người thực chịu

tác động tiêu cực lớn của sự gia tăng đóng góp ASXH hoặc thuế tiêu dùng hơn

là tăng thuế thu nhập [122]. Tương tự, Irena Szarowská (2010) phát hiện ra tác

động tiêu cực của tăng thuế đối với TTKT tại 24 quốc gia thuộc Liên minh châu

Âu (EU) trong giai đoạn 1995 – 2008, cụ thể tăng 1% thuế làm giảm TTKT

0,43% [142]. Desislava Stoilova (2017) nghiên cứu trên 28 quốc gia thuộc EU

giai đoạn 1996 – 2013 và chỉ ra rằng, thuế TNCN có tác động tích cực đến

TTKT, trong khi thuế TNDN có tác động tiêu cực đến TTKT [109]. Myles, G.

D. (2000) chỉ ra rằng tác động của thuế lên TTKT ở Anh giai đoạn 1950 – 1998

gần như không đáng kể [165]. Ojong, Cornelius & cộng sự (2016) cũng kết

luận rằng sự tác động của thuế đến TTKT ở Nigeria trong giai đoạn 1986 –

2010 là không đáng kể [168].

2.3. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tác động của chi ngân

sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

Phạm Thị Hoàng Phương (2013) đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận

cơ bản về NSNN; cơ cấu chi NSNN; tỷ trọng giữa bội chi NSNN và GDP; mô

hình TTKT qua các thời kỳ, phân tích các yếu tố tác động đến TTKT; các

phương thức đổi mới cơ cấu chi NSNN và vai trò của đổi mới đổi mới cơ cấu

chi thúc đẩy TTKT; nghiên cứu bài học kinh nghiệm của 02 nước là Trung

Quốc và Ấn độ về đổi mới trong cơ cấu chi NSNN nhằm thúc đẩy TTKT để rút

ra những bài học cho Việt Nam. Luận án đã xem xét thực trạng trong cơ cấu

chi NSNN từ năm 2001 đến năm 2010, đồng thời đưa ra những nhận xét về các

11

thay đổi trong cơ cấu chi NSNN, và làm thế nào các thay đổi này có thể tác

động tích cực đến TTKT trong giai đoạn nghiên cứu; từ đó đề xuất các giải

pháp để tiếp tục đổi mới cơ cấu chi giai đoạn 2011 – 2020. [43]

Trần Trung Kiên (2018) đánh giá tác động của cấu trúc chi tiêu công đến

TTKT trong sự ràng buộc ngân sách tại các quốc gia đang phát triển; đánh giá

vai trò của quản trị công trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và TTKT tại các

quốc gia đang phát triển. Kết quả kiểm định cho thấy, các thành phần chi tiêu

công có tác động dương đến TTKT song tác động dương này là chưa đủ bù đắp

tác động âm của các thành phần chi tiêu công khác. Đồng thời nghiên cứu cũng

chỉ ra vai trò quan trọng, tích cực của cân đối ngân sách cũng như tác động tiêu

cực của quy mô nợ công lớn trong việc hiệu chỉnh tác động kinh tế của các

thành phần chi tiêu công tại các quốc gia đang phát triển. Kết quả kiểm định

chỉ ra giá trị ngưỡng ở các thành phần chi tiêu công sản xuất và phi sản xuất

lần lượt là 2,838% GDP và 17,025% GDP. Quản trị công nói chung có tác động

tích cực đến TTKT ở các quốc gia đang phát triển. Bên cạnh đó, sự khác biệt

về thể chế chính trị đóng một vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa chi tiêu

công và TTKT. Nghiên cứu đề xuất hai hàm ý chính sách để cải thiện tác động

của chi tiêu công đến TTKT tại các quốc gia đang phát triển, bao gồm: (1) Kiểm

soát quy mô và cơ cấu lại chi; (2) Nâng cao chất lượng quản trị công. [36]

Lê Hoàng Anh (2019) sử dụng số liệu của 43 quốc gia Châu Á đánh giá

tác động của chi tiêu công, quản trị công đến TTKT tại các quốc gia châu Á.

Trên cơ sở đó, Lê Hoàng Anh đã đề xuất một số hàm ý chính sách bao gồm (1)

Thúc đẩy quản trị công nhằm đạt được mục tiêu TTKT; (2) Nâng cao vai

trò của quản trị công đối với hoạt động chi tiêu công với các giải pháp cụ thể

như: (i) Cần nâng cao trách nhiệm giải trình trong các hoạt động chi tiêu công,

nâng cao sự giám sát của công chúng giúp cho hoạt động chi tiêu công trở nên

hiệu quả hơn; (ii) Cần nâng cao hiệu quả của chính phủ trong các hoạt động chi

12

tiêu công; (iii) Cần nâng cao chất lượng các quy định trong hoạt động chi tiêu

công. Chính phủ cần cải cách công tác lập ngân sách, với trọng tâm là đẩy mạnh

phối hợp giữa lập kế hoạch và lập ngân sách, lồng ghép đầy đủ giữa ngân sách

chi đầu tư và chi thường xuyên, hoàn thiện khuôn khổ tài khóa; (iv) Cần nâng

cao hiệu quả chống tham nhũng trong hoạt động chi tiêu công. [2]

Lê Hoàng Anh & nhóm nghiên cứu (2019) đánh giá dữ liệu tại 13 quốc

gia ASEAN+3 trong giai đoạn 2004 – 2017, bằng phương pháp nghiên cứu

định lượng sử dụng phương pháp EFA và phương pháp GMM sai phân

(DGMM). Kết quả ước lượng mô hình cho thấy trong điều kiện thể chế tốt, việc

gia tăng chi tiêu công tổng thể sẽ có tác động tích cực đến TTKT. Như vậy, có

thể thấy nếu các quốc gia ASEAN+3 chỉ đơn thuần gia tăng chi tiêu công thì

chưa thể thúc đẩy TTKT và để phát huy hiệu quả, các quốc gia cần nâng cao

vấn đề thể chế để kiểm soát tốt và hiệu quả hơn việc quản lý, sử dụng chi tiêu

công để từ đó thúc đẩy TTKT. [3]

Nguyễn Bá Minh & nhóm nghiên cứu (2020) đã hệ thống hóa những lý

luận về TTKT, chi NSNN và mối quan hệ giữa chi NSNN với TTKT; phân tích

thực trạng TTKT và quy mô chi NSNN của Việt Nam giai đoạn từ năm 1986

đến 2018; chạy mô hình xác định quy mô chi NSNN hợp lý cho mục tiêu

TTKT ở Việt Nam cho kết quả tỷ lệ tổng chi NSNN/GDP tối ưu là 24,67%; đề

xuất một số khuyến nghị chính sách về chi NSNN nhằm đảm bảo mục tiêu

TTKT ở Việt Nam đến năm 2030 bao gồm: (1) Trong ngắn hạn, có thể cân nhắc

sử dụng CSTK nới lỏng thông qua tăng chi tiêu NSNN để kích thích TTKT; (2)

Trong dài hạn, sau khi vượt qua được nguy cơ suy thoái cần nghiên cứu đưa tỷ

lệ % tổng chi NSNN/GDP về ngưỡng tối ưu 24,67%GDP để tốc độ tăng trưởng

đạt mức cao nhất; (3) Chính sách giảm chi NSNN phải tiến hành có lộ trình

thích hợp. [39]

13

Trong trường hợp của Việt Nam, các nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ

này đã đưa ra những kết luận không đồng nhất. Phạm Thế Anh (2008) cho thấy

có sự chênh lệch khá lớn về tính hiệu quả giữa các khoản chi NSNN khác nhau

đối với TTKT ở các tỉnh trong giai đoạn 2001 – 2005 [4]. Sử Đình Thành (2011)

với dữ liệu trong giai đoạn 1990 – 2010 đã phát hiện rằng chi tiêu công từ nguồn

thu NSNN và từ vốn ODA có tác động một chiều đến TTKT [63]. Đào Thị Bích

Thủy (2014) phân tích mô hình TTKT Ram (1986) cho nhóm ASEAN-5 bao

gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam trong thời kỳ

1990 – 2012 chỉ ra rằng chi tiêu dùng của chính phủ có tác động tích cực đến

TTKT do hàng hóa và dịch vụ mà Chính phủ mong muốn sử dụng có tác động

ngoại ứng tích cực đáng kể đến sản lượng của khu vực tư nhân, nhờ đó, đóng

góp vào TTKT của các nước này [65]. Nghiên cứu của Trần Trung Kiên (2015)

nhằm xác định ngưỡng chi tiêu công cho 13 nước đang phát triển khu vực châu

Á, trong đó có Việt Nam, giai đoạn 1996 – 2013 đã ước lượng ngưỡng chi tiêu

công là 22,1% GDP để hướng tới TTKT. Khi quy mô chi tiêu công vượt ngưỡng

hoặc dưới ngưỡng trên sẽ có tác động âm/dương đến TTKT [35].

3. Khoảng trống nghiên cứu

Các nghiên cứu trong và ngoài nước nêu trên đã đề cập đến nhiều vấn đề

có liên quan đến CSTK và tác động của CSTK hướng tới TTKT. Tuy nhiên,

tác giả nhận thấy một số khoảng trống nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, chưa có nghiên cứu nào xem xét, đánh giá thực trạng về tác

động tổng thể của CSTK đối với TTKT Việt Nam cũng như tác động riêng biệt

của từng công cụ CSTK đến TTKT trong suốt giai đoạn 1991 – 2020 để từ đó

khuyến nghị giải pháp hoàn thiện CSTK hướng tới TTKT cho Việt Nam trong

thời gian tới.

Thứ hai, kinh tế Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố nội tại

và tình hình kinh tế quốc tế trong giai đoạn 1991 – 2020. Nói cách khác, bên

14

cạnh những thuận lợi, kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi các khó khăn

và thách thức bên trong lẫn bên ngoài trong từng thời kỳ phát triển. Tuy nhiên,

trong sự hiểu biết của tác giả, chưa có những nghiên cứu mới cho trường hợp

của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, các kết quả nghiên cứu hiện có đã mất

đi tính thời đại để làm căn cứ cho những giải pháp khuyến nghị.

Do đó, việc vận dụng CSTK vào thực tế cần được nghiên cứu và đánh

giá một cách thận trọng, khoa học nhưng cần kịp thời để đảm bảo ổn định và

TTKT khi có những biến động xảy ra. Vì vậy, những nghiên cứu về lý luận và

thực tiễn về tác động của CSTK tới TTKT của Việt Nam trong giai đoạn 1991-

2020 là rất cần thiết để đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện CSTK

hướng tới TTKT đến 2030. Nhìn chung, với cách tiếp cận và phạm vi nghiên

cứu về nội dung, không gian, thời gian khác với các đề tài nghiên cứu khác nên

đề tài luận án của tác giả không trùng lặp với các công trình NCKH đã công bố

hoặc các luận án đã được bảo vệ trước đó.

4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận án

Mục tiêu nghiên cứu xuyên suốt của đề tài luận án là đưa ra được giải

pháp hoàn thiện CSTK hướng tới TTKT ở Việt Nam đến năm 2030.

Để đạt được mục tiêu trên, luận án thực hiện 05 nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến CSTK, TTKT và mối

quan hệ giữa chúng; Phân tích những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của từng

công cụ CSTK và đồng thời các công cụ của CSTK hướng tới TTKT.

Thứ hai, tổng kết kinh nghiệm của các nước về CSTK hướng tới TTKT, từ

đó rút ra bài học cho Việt Nam.

Thứ ba, phân tích thực trạng CSTK hướng tới TTKT ở Việt Nam trong

từng thời kỳ của giai đoạn 1991 – 2020, trong đó nêu những mặt đạt được, hạn

chế còn tồn tại, và nguyên nhân hạn chế.

15

Thứ tư, thông qua các phương pháp kiểm định và đo lường tác động của

từng công cụ CSTK (chính sách thu và chính sách chi) hướng tới TTKT ở Việt

Nam trong giai đoạn 1991 – 2020.

Thứ năm, từ kết quả phân tích, luận án đề xuất một số quan điểm, định

hướng và các giải pháp hoàn thiện CSTK hướng tới TTKT ở Việt Nam đến 2030.

5. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn

về CSTK hướng tới TTKT.

6. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án

Do sự giới hạn về thời gian và dữ liệu của luận án, phạm vi nghiên cứu

của CSTK hướng tới TTKT ở Việt Nam được xác định cụ thể như sau:

+ Phạm vi nội dung: chính sách thu NSNN, chính sách chi NSNN và tác

động của các chính sách này hướng tới TTKT.

+ Phạm vi không gian: nước Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước

trên thế giới để rút ra bài học cho Việt Nam.

+ Phạm vi thời gian: giai đoạn 1991 – 2020 và giải pháp đến năm 2030.

7. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng kết hợp phương pháp định tính và phương pháp định

lượng do đây là hai phương pháp có tính bổ trợ cho nhau và có thể tiến hành

nối tiếp nhau trong một nghiên cứu khoa học.

Phương pháp định tính được sử dụng để phân tích các dữ liệu, thông tin

dựa trên các ý nghĩa và được diễn đạt bằng lời hay văn bản. Do đó phương pháp

khái quát quá được tác giả cố gắng sử dụng một cách tối đa mặc dù hạn chế của

phương pháp định tính là các đánh giá khó có thể suy rộng được và thường

mang nhiều tính chủ quan do xuất phát từ những quan sát và nhận định của tác

giả. Tuy nhiên tác giả sử dụng phương pháp định tính chủ yếu với mục đích

góp phần vào sự phát triển của lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu.

16

Các phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong nghiên cứu định

tính bao gồm: (i) phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp đặc trưng

nhất trong luận án của tác giả do tác giả thực hiện phân tích và nghiên cứu các

thông tin, dữ liệu đã có sẵn hoặc có khả năng tìm được (ví dụ các tài liệu có sẵn

như sách, giáo trình, bài báo…), phương pháp nghiên cứu tài liệu được tác giả

lựa chọn và đánh giá là có tính hiệu quả cao do không cần mất quá nhiều thời

gian quan sát; (ii) phương pháp lý thuyết nền mang tính quy nạp (tổng hợp suy

luận từ những cái riêng đến cái chung để phát triển thêm quan điểm lý thuyết

mới); (iii) phương pháp diễn dịch được xây dựng thông qua các khái niệm nhằm

giải thích hiện tượng được nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng được tác giả dựa trên dữ liệu số để

mô tả và kiểm định các mối quan hệ, liên hệ nhân quả được suy diễn từ những

lý thuyết đã có. Cách tiếp cận định lượng cũng là cách tiếp cận tốt nhất cho việc

kiểm định một lý thuyết khoa học.

Phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu định lượng là phương pháp thực

nghiệm sử dụng mô hình hồi quy phân phối trễ (ARDL)

với dữ liệu chuỗi thời gian từ năm 1991 đến năm 2020 để nghiên cứu tác động

của CSTK đối với TTKT. Công cụ để hỗ trợ thực hiện phân tích ARDL là phần

mềm phân tích STATA. Mô hình ARDL được đề xuất và áp dụng dựa trên căn

cứ các nghiên cứu thực nghiệm trước đây và phù hợp để đánh giá thực trạng ở

Việt Nam.

8. Những đóng góp mới của luận án

✓ Luận án đã hệ thống hóa lý luận về CSTK và TTKT cũng như lý thuyết

về tác động của CSTK hướng tới TTKT. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đưa ra

quan điểm nhận thức riêng về CSTK và tác động của CSTK hướng tới TTKT

thông qua từng công cụ của CSTK.

17

✓ Luận án đã chọn lọc các bài học quan trọng về CSTK hướng tới TTKT

khi tìm hiểu kinh nghiệm của các quốc gia, đó là phần lớn các quốc gia có điều

kiện tương đồng với Việt Nam có xu hướng áp dụng CSTK mở rộng nhằm thúc

đẩy TTKT trong bối cảnh TTKT có xu hướng chậm lại do những yếu tố bất ổn

từ kinh tế toàn cầu cùng với những khó khăn, thách thức trong nội tại quốc gia

đó.

✓ Luận án đã tìm hiểu thực tiễn về CSTK hướng tới TTKT của Việt Nam

dựa trên các dữ liệu, thông tin CSTK và TTKT trong giai đoạn 1991-2020.

Bằng cách áp dụng mô hình ARDL, luận án đưa ra kết quả thực nghiệm cho

thấy các điều chỉnh về CSTK đều có tác động hướng tới TTKT cả trong ngắn

hạn và dài hạn. Các biện pháp liên quan đến CSTK buộc phải thay đổi liên tục

để thích ứng với nhiều biến động của yếu tố vĩ mô cũng như phải đáp ứng được

các mục tiêu phát triển KTXH trong từng thời kỳ của giai đoạn 1991-2020.

✓ Luận án đã đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện CSTK hướng tới

TTKT đến năm 2030. Theo đó, CSTK cần được phân chia áp dụng theo các giai

đoạn như sau: (i) Trong giai đoạn đầu của quá trình phục hồi kinh tế 2022-2023,

CSTK cần tiếp tục thực hiện theo hướng mở rộng để hỗ trợ tối đa cho TTKT; (ii)

Những năm tiếp theo cho đến 2030, khi nền kinh tế bắt đầu trở lại quỹ đạo ổn định

thì cần thiết phải áp dụng CSTK thắt chặt nhằm đảm bảo và kiểm soát các cân đối

lớn của nền kinh tế: Đối với chính sách thu, dư địa để thay đổi thuế suất đối với

các loại thuế thu nhập bị hạn chế nhiều hơn so với các loại thuế tiêu dùng, vì vậy

cần phải thực hiện mở rộng cơ sở thuế; Chi ngân sách cần được kiểm soát chặt

chẽ, đánh giá lại hiệu quả chi đầu tư đến sự phục hồi kinh tế để có giải pháp tăng

chi đầu tư theo hướng tập trung vào các dự án trọng điểm và có tính lan tỏa đến

toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề quan trọng là luôn chuẩn bị chiến lược áp dụng CSTK

có tính khẩn cấp để đối phó với các tình huống bất ngờ ảnh hưởng đến TTKT.

18

9. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án

được chia thành 3 chương như sau:

Chương 1: Những lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về chính sách

tài khóa hướng tới tăng trưởng kinh tế.

Chương 2: Thực trạng chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng kinh tế

ở Việt Nam

Chương 3: Hoàn thiện chính sách tài khóa hướng tới tăng trưởng kinh tế

ở Việt Nam

19

CHƯƠNG 1 : NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM

QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ

1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG

TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

1.1.1 Lý luận chung về chính sách tài khóa

1.1.1.1 Khái niệm chính sách tài khóa

Khái niệm về chính sách tài khóa (CSTK) được đề cập ở nhiều tài liệu

về kinh tế. Theo Samuelson & Nordhaus (1997), CSTK là các chương trình,

hoạt động của Chính phủ nhằm: (i) mua bán các hàng hóa và dịch vụ, tiêu dùng

dựa trên các khoản thu nhập chuyển giao và (ii) thu qua các loại thuế [183].

Theo Nguyễn Văn Dần (2008), CSTK là chính sách của Chính phủ nhằm

tác động lên định hướng phát triển KTXH của quốc gia thông qua những thay

đổi trong chi tiêu của Chính phủ và chính sách thuế do các tác động trực tiếp

đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ đó tác động đến TTKT [26].

Đỗ Thiên Anh Tuấn (2009) trong Bài giảng CSTK định nghĩa rằng:

“CSTK là sự thay đổi chính sách thuế và chi tiêu chính phủ nhằm đạt được mục

tiêu KTVM” [67].

David Begg (1987) cho rằng CSTK là việc chính phủ vận dụng chính

sách thuế và chi tiêu công để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế [107].

Mark Horton & Asmaa El-ganainy (2022) đưa ra khái niệm CSTK là

việc chính phủ sử dụng quyền chi tiêu và đánh thuế để thúc đẩy TTKT [159].

Theo quan điểm của tác giả, CSTK là việc tập trung áp dụng hoặc điều

chỉnh các chính sách thu NSNN và chi NSNN để tác động tới TTKT và giải

quyết các vấn đề xã hội. Hay nói cách khác, CSTK là hoạt động Chính phủ

dùng tác động tổng thể của ngân sách nhà nước lên các hoạt động kinh tế.

1.1.1.2. Mục tiêu của chính sách tài khóa

20

CSTK được chính phủ áp dụng nhằm đạt được 4 mục tiêu chủ yếu sau: (i)

Hướng tới TTKT, (ii) Góp phần ổn định KTVM, (iii) Tạo ra nhiều việc làm cho

người lao động và (iv) Phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế.

(i) Hướng tới TTKT

TTKT là một trong những mục tiêu của CSTK trong dài hạn. Để đạt được

mục tiêu này, CSTK thực hiện chức năng điều chỉnh cơ cấu kinh tế nhằm tăng

sản lượng ở mức cao và ổn định nhất có thể.

(ii) Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô

Để đạt mục tiêu ổn định KTVM, CSTK tác động đến sản lượng thực tế

và lạm phát trong ngắn hạn. Công cụ thuế và chi tiêu giúp điều tiết vĩ mô nhằm

tìm điểm cân bằng tốt nhất giữa tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ lạm

phát. Khi đó, nền kinh tế phát triển ổn định trong điều kiện lạm phát và thất

nghiệp thấp.

(iii) Tạo việc làm cho người lao động

Nhờ áp dụng các công cụ thuế có tính chất thúc đẩy đầu tư, sản xuất, từ

đó, tạo thêm nhiều việc làm trong xã hội, người dân có thêm thu nhập. Khi chi

NSNN được sử dụng một cách hợp lý, cơ sở hạ tầng hoàn thiện, là vốn mồi cho

đầu tư tư nhân và các khu vực kinh tế phát triển, từ đó giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Chi ĐTPT ưu tiên cho lĩnh vực KH&CN, phát triển sự nghiệp GD-ĐT sẽ giúp

nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao năng lực người lao động,

dễ dàng đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, từ đó tăng cơ

hội việc làm.

(iv) Phân bổ các nguồn lực nền kinh tế

Việc phân bổ nguồn lực như tài chính, nhân lực, vật lực được phân bổ

hiệu quả, đến đúng khu vực cần là điều rất quan trọng trong nền kinh tế. CSTK

thông qua việc thu NSNN và chi NSNN làm giảm hoặc triệt tiêu thất bại của

thị trường trong việc phân bổ các nguồn lực này.

21

1.1.1.3. Công cụ của chính sách tài khóa

Hai công cụ chính của CSTK là chính sách thu và chinh sách chi ngân

sách, mỗi công cụ có những nội dung cơ bản như sau:

❖ Chính sách thu ngân sách nhà nước

Chính sách thu NSNN có thể hiểu là hệ thống các quan điểm, phương

hướng của nhà nước trong việc động viên nguồn thu vào NSNN thông qua quy

định các hình thức thu, cơ chế động viên nguồn thu phù hợp với đặc thù KTXH

qua từng thời kỳ. Chính sách thu NSNN gồm 02 cấu phần chính là chính sách

thuế và chính sách phí, lệ phí.

Hiện nay các quốc gia thường theo đuổi chính sách thuế với mục tiêu

đem lại nhiều lợi ích cho KTXH, không chỉ để huy động nguồn lực tài chính

cần thiết cho chi tiêu của chính phủ, mà còn hướng tới nâng cao phúc lợi xã

hội, góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ TTKT.

❖ Chính sách chi ngân sách nhà nước

Chính sách chi NSNN là việc phân phối và sử dụng NSNN nhằm bảo

đảm thực hiện các mục tiêu KTXH và có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc

đẩy TTKT. Hiệu quả của chính sách chi ngân sách thường phụ thuộc vào hoạt

động tác nghiệp của cơ quan quản lý của nhà nước.

1.1.1.4. Phân loại chính sách tài khóa

Tùy theo từng căn cứ, CSTK được phân loại khác nhau. Cụ thể:

❖ Căn cứ vào quan hệ của CSTK với mô hình tổng cầu

Xét trong mối quan hệ của CSTK với mô hình tổng cầu, CSTK được chia

thành 3 loại: (i) CSTK mở rộng; (ii) CSTK thắt chặt và (iii) CSTK trung lập.

(i) CSTK mở rộng là việc Chính phủ thực hiện phân phối và sử dụng các

nguồn lực tài chính nhằm mục đích tăng tổng nhu cầu xã hội. Khi nền kinh tế

có dấu hiệu của quá trình suy thoái dẫn đến tổng cầu giảm, Chính phủ thực hiện

CSTK mở rộng để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa tổng cầu và tổng cung.

22

Công cụ chính để thực hiện CSTK mở rộng là giảm thuế và tăng quy mô chi

NSNN. Tăng chi NSNN chủ yếu bao gồm: tăng chi cho các công trình công

cộng, tăng tiêu dùng hoặc sử dụng dịch vụ trực tiếp ảnh hưởng tới các tổng cầu.

Mặt khác, để gián tiếp tăng tổng cầu, Chính phủ có thể thông qua các giải pháp

kích thích tiêu dùng và đầu tư của tư nhân. Đồng thời, có thể thông qua tăng

chi của Chính phủ để tăng việc làm, tiền lương cho người lao động. Tương tự

như vậy, giảm thuế cũng có thể đem lại kết quả mở rộng tổng cầu, chẳng hạn

giảm thuế thu nhập cá nhân dẫn đến cá nhân sẽ còn lại phần thu nhập cao hơn

để chi tiêu, làm tăng tiêu dùng; giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ dẫn đến

tăng vốn đầu tư để lại cho doanh nghiệp, kích thích đầu tư, qua đó góp phần

thúc đẩy TTKT. Tuy nhiên, nếu đồng thời thực hiện việc giảm thuế và tăng chi

tiêu ngân sách, CSTK mở rộng có thể dẫn đến tăng bội chi NSNN. Khi bội chi

tăng cao khó kiểm soát thì Chính phủ buộc phải điều chỉnh lại CSTK theo

hướng thắt chặt để giảm bớt bội chi NSNN, hạn chế bớt sự tăng trưởng nóng

của nền kinh tế.

(ii) CSTK thắt chặt là việc áp dụng chính sách tăng thu và giảm chi ngân

sách để huy động thêm được nguồn lực tài chính cho NSNN tài trợ cho các

khoản chi. Đối với chính sách tăng thu, chính phủ thường tập trung vào việc

tăng thu từ các loại thuế và phí chiếm vị trí quan trọng trong tổng thu NSNN

cũng như có tác động lớn đến KTXH. Giảm chi NSNN sẽ được Chính phủ tính

toán nên giảm chi ở lĩnh vực nào (chẳng hạn, giảm chi ĐTPT ở mức độ hợp lý

để giảm bội chi NSNN hoặc cắt giảm chi thường xuyên để tiết kiệm và dành

nguồn lực cho những khoản chi quan trọng khác, ví dụ như chi trả nợ lãi khi

đến hạn để góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia). Mặc dù tăng thu và

giảm chi ngân sách sẽ khiến cho TTKT giảm nhưng mức độ giảm TTKT mạnh

hay nhẹ phụ thuộc vào các giải pháp tăng thuế cũng như giảm chi các khoản có

tính chất như thế nào.

23

(iii) CSTK trung lập là chính sách cân bằng ngân sách, tức chi tiêu của

chính phủ hoàn toàn được tài trợ từ nguồn thu của chính phủ và nhìn chung là

có tác động trung tính lên mức độ của các hoạt động kinh tế [67]. Với CSTK

trung lập, thì quốc gia không phải vay nợ để bù đắp bội chi do sự cân bằng ngân

sách là mục tiêu xuyên suốt, khi đó các hoạt động sử dụng nguồn lực tài chính

của Chính phủ đóng góp vào nền kinh tế có sự ổn định, khi đó sự tác động lên

TTKT là trung tính. TTKT tăng lên hay giảm xuống lúc này phụ thuộc nhiều

hơn vào các yếu tố khác của phía cầu như nhu cầu và mức độ tiêu dùng, các

hoạt động thương mại…

❖ Căn cứ vào tác động của CSTK đối với chu kỳ kinh tế

Chu kỳ kinh tế được định nghĩa là những biến động có tính chu kỳ của

nền kinh tế (thể hiện qua GDP), thường do những tác động của một loạt các

biến số KTVM. Có những giai đoạn chu kỳ kinh tế rơi vào suy thoái, phục hồi

hoặc hưng thịnh. Với mỗi giai đoạn thì CSTK sẽ được điều chỉnh phù hợp nhằm

tác động đến GDP. [156]

Căn cứ vào xu hướng tác động của CSTK đối với chu kỳ kinh tế, CSTK

được chia thành 2 loại: (i) CSTK thuận chu kỳ và (ii) CSTK ngược chu kỳ.

(i) CSTK thuận chu kỳ là khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, Chính phủ áp

dụng CSTK thắt chặt (tăng thuế và giảm chi), khi nền kinh tế ở trong thời kỳ

thuận lợi thì Chính phủ áp dụng CSTK mở rộng (giảm thuế và tăng chi).

(ii) CSTK ngược chu kỳ là khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, Chính phủ

áp dụng CSTK mở rộng (giảm thuế và tăng chi), khi nền kinh tế ở trong thời

kỳ thuận lợi, Chính phủ áp dụng CSTK thắt chặt (tăng thuế và giảm chi).

❖ Căn cứ vào tính chủ động trong điều hành CSTK

Căn cứ vào tính chủ động trong điều hành CSTK, CSTK được chia thành

2 loại: (i) CSTK bình ổn tự động và (ii) CSTK tùy nghi.

24

(i) CSTK bình ổn tự động là khi chính sách thuế và chi NSNN phụ thuộc

vào sự biến động của chu kỳ kinh tế. Có thể nhận thấy điều này khi nền kinh tế

tăng trưởng hoặc suy thoái. Chẳng hạn, khi nền kinh tế tăng trưởng, thu thuế

của Chính phủ sẽ tăng lên, trong khi nhu cầu chi tiêu hay quy mô của các gói

trợ cấp của Chính phủ sẽ giảm xuống. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái thì

thu thuế của Chính phủ sẽ bị giảm và nhu cầu trợ cấp của Chính phủ tăng lên.

(ii) CSTK tùy nghi là chính sách mà Chính phủ sẽ tùy nghi hành động

nhằm thay đổi các chính sách thuế và chi tiêu tùy theo tình hình thực tế và yêu

cầu quản lý của từng thời điểm mà không phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Một

số nghiên cứu cho rằng, một CSTK tùy nghi là cần thiết, đôi khi để củng cố,

đôi khi để giảm thiểu, khắc phục những hậu quả của các dao động ngắn hạn

trong hoạt động kinh tế.

1.1.2 Lý luận về tăng trưởng kinh tế

1.1.2.1. Quan niệm về tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế (TTKT) là một trong những mục tiêu quan trọng của

các quốc gia trên thế giới do quyết định sự giàu có của các dân tộc (Adam

Smith, 1776) [86]. Do xã hội phụ thuộc vào lượng của cải làm ra, Adam Smith

cho rằng TTKT là sự gia tăng của sản lượng đầu ra theo đầu người bình quân

hoặc sự gia tăng về sản lượng của lao động. Sau đó, khái niệm này được trường

phái tăng trưởng tân cổ điển phát triển và cho rằng TTKT được đo lường bằng

tổng sản lượng đầu ra, là một hàm số phụ thuộc vào sự tích lũy vốn, lao động và

tiến bộ công nghệ. Solow (1956) [185] ngụ ý rằng TTKT liên quan đến tăng

trưởng tiềm năng đầu ra trong thời gian dài. Sự tăng trưởng về sản lượng bình

quân đầu người là một mục tiêu quan trọng của chính phủ bởi vì nó được liên

kết với tăng thu nhập thực trung bình. Sau đó, Harvey & Johnson (1973) định

nghĩa TTKT là sự gia tăng khả năng sản xuất của một nước theo thời gian [134].

Samuelson & Nordhaus (1985) cho rằng TTKT là sự mở rộng GDP hay sản

25

lượng tiềm năng của một nước. TTKT là sự tăng lên về số lượng, chất lượng,

tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Nói

cách khác, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP) trong một thời gian nhất định. [183]

Ho (2001) cho rằng TTKT là sự gia tăng một cách bền vững của sản lượng

bình quân đầu người hay sản lượng trên mỗi lao động [135]. Ayres & Warr

(2010) định nghĩa TTKT là ‘sự gia tăng tổng sản lượng hàng hóa hoặc dịch vụ

được sản xuất bởi một quốc gia’ [97]. Một mặt, khái niệm TTKT thể hiện sự

gia tăng về khả năng sản xuất hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh tế trong

thời kỳ này so với thời kỳ trước đó. Mặt khác, TTKT chỉ đề cập đến số lượng

hàng hóa và dịch vụ được sản xuất, đo lường bằng giá trị danh nghĩa (bao gồm

cả lạm phát) hoặc giá trị thực (được điều chỉnh theo lạm phát). Shanaka (2012)

cho rằng TTKT là việc tăng lên về khả năng sản xuất của một quốc gia theo thời

gian [184]. Grobéty (2018) định nghĩa TTKT là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc

nội (GDP) thực tế, tức là được điều chỉnh theo lạm phát [128].

Mặc dù có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về TTKT, tác giả

cho rằng TTKT về cơ bản là sự gia tăng về số lượng, chất lượng cũng như tốc

độ trong một khoảng thời gian nhất định. Trong khái niệm này, TTKT mô tả

bản chất động của nền kinh tế và là một chỉ tiêu có thể tính toán được. Có thể

nói, TTKT là mục tiêu quan trọng hàng đầu đối với mỗi nền kinh tế (Jackson

& Senker, 2011) [144].

1.1.2.2. Chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế

Thước đo TTKT được xác định theo các chỉ tiêu trong hệ thống tài

khoản quốc gia gồm các chỉ tiêu:

✓ Tổng giá trị sản xuất (GO – Gross Output),

✓ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic Product),

✓ Tổng sản phẩm quốc dân (GNP – Gross National Product),

26

✓ Tổng thu nhập quốc gia (GNI – Gross National Income),

✓ Thu nhập quốc dân (NI – National Income),

✓ Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – National Disposable Income),

✓ Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người; GNP/người.

Tuy nhiên, trong luận án này chỉ đề cập đến 2 chỉ tiêu chủ yếu sau:

GDP là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả

hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một

thời kì nhất định. Tổng sản phẩm quốc nội chủ yếu phản ánh khả năng sản xuất

của một nền kinh tế. Có 02 cách phân loại GDP:

(i) GDP danh nghĩa là giá trị tổng sản phẩm quốc nội tính theo giá hiện

hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy giá của thời kỳ đó.

(ii) GDP thực tế là giá trị tổng sản phẩm quốc nội tính theo giá so sánh

vì những lý do như sự mất giá của đồng tiền để có thể ước lượng chuẩn hơn số

lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP.

Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người): chỉ tiêu này phản ánh

TTKT có tính đến sự thay đổi dân số, nó là những chỉ báo quan trọng phản ánh

và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung.

1.1.2.3. Phương pháp đo lường tăng trưởng kinh tế

Để đo lường TTKT, có thể dùng sự chênh lệch của tổng sản lượng nền

kinh tế của thời kỳ sau so với thời kỳ trước thông qua cách tính mức tăng trưởng

tuyệt đối hoặc tốc độ TTKT.

- Mức tăng trưởng tuyệt đối: sự chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ

cần so sánh (bằng tổng sản lượng kỳ sau trừ đi tổng sản lượng kỳ trước).

- Tốc độ TTKT được tính bằng chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện

tại và quy mô kinh tế kỳ trước, sau đó chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc

độ TTKT được thể hiện bằng đơn vị %. Công thức tính tốc độ TTKT là:

y = dY/Y × 100(%)

27

Trong đó: Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng.

Nếu Y được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng

trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Ngược lại, nếu Y được đo bằng GDP (hay

GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế.

1.1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

Khi bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến TTKT, có nhiều cách tiếp cận

được đưa ra. Lý thuyết của Karl Marx đã chỉ ra các yếu tố như lao động, tư bản,

tiến bộ KH&CN, tài nguyên thiên nhiên (đất đai), cũng như sự phù hợp giữa

QHSX và LLSX. TTKT là kết quả của việc tạo ra giá trị thặng dư từ vốn và lao

động. Đất đai không phải là yếu tố chính của TTKT mà chỉ là nguồn lực phục

vụ quá trình sản xuất. Trong khi đó, lý thuyết Tân cổ điển cho rằng tiến bộ trong

KH&CN và tài nguyên thiên nhiên là các nhân tố góp phần vào TTKT theo

chiều sâu còn sự gia tăng vốn và lao động chỉ giúp TTKT theo chiều rộng và

kém bền vững trong dài hạn. Tuy nhiên sự linh hoạt về giá cả và tiền công là

yếu tố đưa nền kinh tế quay về vị trí sản lượng tiềm năng khi nền kinh tế gặp

biến động. Vì vậy lý thuyết này cho rằng nhà nước không thể tác động vào sản

lượng, mà chỉ có thể tác động vào mức giá của nền kinh tế; và chính phủ không

đóng vai trò quan trọng trong TTKT. Ngược lại với lý thuyết Tân cổ điển, John

Maynard Keynes (1936) [149] cho rằng vai trò của Chính phủ là quan trọng

trong TTKT. Nghiên cứu lập luận rằng, Chính phủ có vai trò điều tiết nền kinh

tế bằng các CSTK (chính sách thu và chính sách chi) nhằm thay đổi và kích cầu

tiêu dùng thúc đẩy TTKT và đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng và thất

nghiệp. Các chính sách được khuyến nghị bao gồm tăng chi tiêu của Chính phủ

(có thể là đầu tư, trợ cấp hoặc thường xuyên) thông qua các đơn đặt hàng nhằm

thúc đẩy các hoạt động của DN. Chính phủ chủ động giảm thuế, giảm lãi suất

và tăng đầu tư cũng như trợ cấp để tăng thu nhập khu vực hộ gia đình, tăng tiêu

dùng cá nhân, hộ gia đình và thu nhập của doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy tổng

28

TTKT. Việc gia tăng đầu tư của Chính phủ vào các công trình công cộng cũng

được ủng hộ và được coi như một loại hỗ trợ bù đắp khi đầu tư tư nhân giảm

sút trong bối cảnh suy thoái kinh tế nhằm phục hồi và thúc đẩy TTKT trở lại.

Các nhà kinh tế học sau đó đã ủng hộ ý tưởng lý thuyết TTKT hỗn hợp,

dựa vào lý thuyết Tân cổ điển và học thuyết Keynes, trong đó thị trường trực

tiếp xác định những vấn đề cơ bản của TTKT, trong khi Chính phủ tham gia

điều tiết để ổn định các nhân tố vĩ mô và hạn chế những mặt tiêu cực của thị

trường (Samuelson, 1985) [183]. Theo lý thuyết TTKT hiện đại, các nhân tố

đóng góp vào TTKT được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất: bao

gồm lao động (L), vốn (K), tài nguyên (R) và khoa học công nghệ (T). Theo

quan điểm này, hàm TTKT được mô tả như sau:

Y = f (K, L, R, T)

Trong đó lao động là nhân tố quan trọng của TTKT, nhưng nhân tố vốn

là yếu tố quyết định. Ông cũng cho rằng tổng cầu là quan trọng trong việc quyết

định sản lượng nhưng chỉ là sản lượng trong ngắn hạn. Trong khi đó, ông lập

luận rằng tổng cung mới đóng vai trò quyết định đối với TTKT trong ngắn hạn

lẫn dài hạn. Đối với TTKT, theo ông nên để nền kinh tế tự vận hành theo cơ

chế thị trường. Ông cũng chưa chỉ ra được vai trò của khoa học kỹ thuật trong

TTKT ở mô hình hiện tại này, tuy nhiên ông cũng lập luận nhân tố tiến bộ công

nghệ sẽ đóng góp vào TTKT bền vững, nhưng chưa chỉ ra được vai trò của

chính sách và hành động của Chính phủ tác động thế nào đến TTKT [185].

Tóm lại các nhân tố về vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ đóng góp

quan trọng vào TTKT. Các nhân tố này có thể được xếp vào 02 nhóm như sau:

❖ Các nhân tố tác động đến tổng cung

* Vốn (K): là yếu tố vật chất (thiết bị, nhà xưởng, cũng như các công cụ

đầu vào khác) của hoạt động SXKD, do vậy có tác động đến TTKT.

29

* Lao động (L): Lao động bao gồm những yếu tố hữu hình như số lượng

(quy mô) lao động và vô hình (vốn nhân lực) như kỹ năng, sức khỏe, sáng

kiến… là nhân tố quan trọng đóng góp vào hoạt động sản xuất của toàn nền

kinh tế. Có những giai đoạn, quy mô lao động được xem là nhân tố chính của

TTKT, nhưng dần dần vốn nhân lực được chú trọng hơn do khi năng suất lao

động tăng lên, sản lượng cũng theo đó được mở rộng, thúc đẩy TTKT. Lý thuyết

TTKT hiện đại khẳng định vốn và lao động kết hợp với nhau tạo ra GDP của

nền kinh tế và đưa nó đến trạng thái ổn định.

* Khoa học và công nghệ (T): là nhân tố làm thay đổi năng suất của lao

động và hoạt động sản xuất, do đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng thúc đẩy

TTKT trong dài hạn (Solow, 1956) [185]. KH&CN được hiểu là kiến thức khoa

học, nguyên lý, quy trình hay thiết bị công nghệ được nghiên cứu, chế tạo, thử

nghiệm và áp dụng vào trong thực tiễn.

* Tài nguyên thiên nhiên (R): bao gồm các yếu tố tự nhiên mà con người

có thể khai thác, chế tạo và sử dụng vào trong hoạt động sản xuất, bao gồm các

nguồn năng lượng, tài nguyên khoáng sản, rừng, đất đai và khí hậu. Vai trò của

tài nguyên thiên nhiên thường rõ nét trong giai đoạn đầu thúc đẩy TTKT. Tuy

nhiên việc sử dụng tài nguyên không hiệu quả tác động lên môi trường sống,

từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến TTKT.

❖ Các nhân tố tác động đến tổng cầu

* Chi tiêu dùng cá nhân (C): bao gồm các khoản chi thường xuyên, chi

cố định và các khoản chi tiêu phát sinh ngoài dự kiến của cá nhân và hộ gia

đình. Chi tiêu dùng cá nhân tăng lên có tác động kích cầu, qua đó góp phần

thúc đẩy TTKT. Chi tiêu dùng cá nhân phụ thuộc và thu nhập khả dụng (sau

khi trừ thuế) và vấn đề tiết kiệm.

* Chi tiêu của Chính phủ (G): bao gồm toàn bộ các khoản chi mua sắm

hàng hóa và dịch vụ của khu vực Chính phủ, bao gồm chi đầu tư và chi thường

30

xuyên. Các lý thuyết kinh tế cho rằng các khoản chi NSNN có thể tạo ra tác

động lấn át lẫn thúc đẩy đầu tư của khu vực tư nhân, tùy thuộc vào độ mở

thương mại, điều hành tỷ giá và đầu tư của Chính phủ. Nguồn phục vụ cho chi

NSNN phụ thuộc vào khả năng thu NSNN và vay nợ.

* Chi đầu tư (I): là các khoản đầu tư của khu vực tư nhân. Về cơ bản, các

khoản chi tiêu này sẽ tác động đến tổng cầu và làm gia tăng sản lượng của nền

kinh tế. Chi đầu tư của khu vực tư nhân do nhiều yếu tố quyết định như vấn đề

thể chế, sự ổn định của nền kinh tế và niềm tin.

* Xuất nhập khẩu ròng (NX = EX - IM): là sự chênh lệch giữa giá trị XK

và giá trị NK, được hiểu là chênh lệch chi phí bỏ ra cho các yếu tố nguồn lực

trong nước và chi phí bỏ ra để sử dụng các loại hàng hóa NK. Nếu hoạt động

NK lấn át XK thể hiện hoạt động sản xuất trong nước chưa thực sự hiệu quả,

hàng hóa và dịch vụ trong nước không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và để

thúc đẩy TTKT thì cần có rất nhiều các chính sách hỗ trợ khuyến khích DN

trong nước SXKD cũng như thu hút được nguồn vốn từ các DN FDI.

Trong mô hình TTKT, được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), sản

lượng kinh tế (Y) = C + I + G + NX. Do đó, bất kỳ sự thay đổi nào của các

nhân tố này đều làm cho Y thay đổi. Dưới tác động của các yếu tố không dự

đoán được, tổng cầu sụt giảm ảnh hưởng đến các yếu tố nguồn lực và hạn chế

sự gia tăng thu nhập. Tuy nhiên, tổng cầu tăng quá mức sẽ làm gia tăng giá cả

của nền kinh tế. Vì vậy, trong mô hình TTKT hiện đại, vai trò của Chính phủ

là thực hiện điều tiết thông qua các hoạt động kinh tế của khu vực Chính phủ,

tức là hoạt động thu và chi tiêu của Chính phủ, để đảm bảo các mục tiêu TTKT

và ổn định các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế.

31

1.2 TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tác động của CSTK hướng tới TTKT thông qua nhiều cơ chế tác động,

chủ yếu thông qua cơ chế tác động của chính sách thu ngân sách để làm tăng

hoặc giảm tổng cầu, đồng thời sử dụng các chính sách chi để kết hợp với các

chính sách thu tạo nên hiệu ứng tác động rõ hơn đối với các yếu tố của TTKT.

Tuy nhiên, CSTK là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô nên thông thường

Chính phủ sẽ xem xét việc áp dụng điều chỉnh CSTK cùng với CSTT để tác

động vào TTKT.

1.2.1 Cơ chế tác động của chính sách thu ngân sách nhà nước hướng

tới tăng trưởng kinh tế

Khi xảy ra một trong hai trường hợp trái ngược nhau: sản lượng thực tế

cao hơn mức sản lượng tiềm năng (nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng

quá nóng) và sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng (nền kinh tế

rơi vào trạng thái suy thoái, khủng hoảng) thì các công cụ của CSTK sẽ được

sử dụng để giải quyết. Lúc này, các công cụ của CSTK sẽ tác động để đưa sản

lượng của nền kinh tế về trạng thái cân bằng, đảm bảo thúc đẩy TTKT và thực

hiện mục tiêu phát triển KTXH quốc gia. Sự tác động này hướng tới việc đảm

bảo sản lượng của nền kinh tế đạt tới mức sản lượng tiềm năng của quốc gia.

Có 02 trường hợp Chính phủ sử dụng công cụ thuế và phí, lệ phí để tác

động tới TTKT, chủ yếu là thông qua tổng cầu (AD) để ảnh hưởng đến sản

lượng. Khi nền kinh tế cho mức sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm

năng, Chính phủ có thể chủ động giảm thuế (giảm thu NSNN) để gia tăng tổng

cầu (AD). Cơ chế này được thực hiện như sau:

Gọi hàm thuế ròng (T) phản ánh mức thuế ròng dự kiến thu của chính phủ

tương ứng ở mỗi mức sản lượng quốc gia (Y), trong đó:

32

Thuế ròng là thuế thực thu của ngân sách, là chênh lệch giữa tổng mức

thuế thu (Tx) với chi chuyển nhượng Tr: T = Tx – Tr

Trong đó tổng mức thuế thu (Tx) là tổng các loại thuế trực thu (Td) và

các loại thuế gián thu (Ti): Tx = Td + Ti

Tổng mức thuế thu là hàm phụ thuộc đồng biến với sản lượng quốc gia

và có dạng: Tx = Tx0 + Tm. Y với Tx0 là thuế tự định, không phụ thuộc vào kết

quả sản xuất gồm thuế môn bài, thuế thổ trạch... Tm hay MPT là thuế biên, là

phần thuế thu tăng thêm khi thu nhập quốc gia (Y) tăng thêm 1 đơn vị.

Ta có , với Tm > 0, trong khi chi chuyển nhượng là

hàm độc lập với (Y) như sau: Tr = Tr0. Như vậy hàm thuế được xác định như

sau: T = Tx – Tr = (Tx0 + TmY) – (Tr0) = T = (Tx0 – Tr0) + TmY = T0 + TmY

(1.1), trong đó T0 là thuế ròng tự định và Tm là thuế biên.

Bởi vì hàm tiêu dùng C = C0 + Cm. YD (1.2), trong đó, C0 là mức tiêu

dùng khi thu nhập khả dụng (YD) = 0, Cm là khuynh hướng tiêu dùng biên phản

ánh phần tăng thêm của tiêu dùng khi YD tăng thêm một đơn vị. Bởi vì nền kinh

tế có thuế, nên YD = Y – T (1.3), kết hợp với phương trình (1.1) ta có C = C0 –

Cm. T0 + Cm. (1 – Tm). Y. Đặt C0’ = C0 – CmT0 và Cm’ = Cm. (1 – Tm) là tiêu

dùng biên theo sản lượng, khi Y tăng thêm 1 đơn vị thì tiêu dùng tăng thêm Cm’

đơn vị. Do đó hàm tiêu dùng C được viết lại C = C0’ - Cm’. Y (1.4).

So sánh (1.2) và (1.4) ta thấy khi gia tăng thuế, tiêu dùng bị giảm đi so

với trước. Ngược lại, khi giảm thuế, tiêu dùng gia tăng so với trước. Về cơ bản,

các chính sách thu của Chính phủ sẽ làm tăng (giảm) thu nhập khả dụng của

các khu vực, từ đó tác động lên mức tiêu dùng và làm thay đổi tổng cầu. Khi

tổng cầu tăng (giảm), đến lượt nó sẽ tác động đến sản lượng của nền kinh tế

theo mô hình sau đây:

33

Trường hợp 1: Y > Y* (nền kinh tế tăng trưởng nóng): Chính phủ tăng

thuế ⇒ tiêu dùng giảm ⇒ tổng cầu giảm ⇒ sản lượng nền kinh tế giảm ⇒ kìm

hãm tăng trưởng

Trường hợp 2: Y < Y* (nền kinh tế suy thoái): Chính phủ giảm thuế ⇒

tiêu dùng tăng ⇒ tổng cầu tăng ⇒ sản lượng nền kinh tế tăng ⇒ kích thích tăng

trưởng.

Như vậy khi tổng cầu (AD) tăng (giảm) thì sản lượng cân bằng (Y) của

nền kinh tế sẽ thay đổi theo cơ chế như sau: Tổng cầu (AD) tăng từ AD0 đến

AD1. Sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y0 lên Y1 (sản lượng tiềm

năng), giá tăng từ P0 đến P1 (giá cân bằng của thị trường). Do giá cả thị trường

tăng, các DN đầu tư nhiều hơn để phát triển sản xuất tìm kiếm lợi nhuận, vì vậy

đã tạo ra nhiều việc làm góp phần làm cho thất nghiệp giảm. Điều này được thể

LAS

hiện qua đồ thị sau:

P

AS0

E0 P1

P0 AD1

AD0 E

1

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

Y1 Y Y0 Hình 1.1: Tác động của tổng cầu đến sản lượng

Hình 1.1. cho thấy nếu Chính phủ giảm mức thuế (T), khi đó sẽ khuyến

khích tiêu dùng của công dân và đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên làm cho

tổng cầu (AD) cũng tăng từ AD0 đến AD1, dẫn đến giá tăng từ P0 đến P1, sản

lượng cân bằng sẽ tăng từ Y0 đến Y1, lượng thất nghiệp giảm đi. Trường hợp

ngược lại cũng được lập luận tương tự.

34

Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ rõ cách thay đổi cơ chế tác động

của chính sách thuế đến tăng trưởng kinh tế. Về cơ bản, đa số nghiên cứu tìm

thấy mối quan hệ ngược chiều giữa thuế và tăng trưởng kinh tế. Khi Chính phủ

thực hiện tăng thuế suất thuế TNDN sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư của DN, khi

đó tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế (Dahlby & Ferede, 2012) [106].

Nếu tăng thuế suất thuế TNCN hoặc điều chỉnh cấu trúc thuế suất theo các bậc

thuế theo hướng thu hẹp các bậc thuế và đẩy mức thuế suất ở bậc thuế cao nhất

sẽ ảnh hưởng đến quyết định tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, thậm chí

muốn giảm giờ làm việc, khiến cho thị trường lao động tham gia vào hoạt động

kinh tế trở nên thiếu động lực hơn, khi đó cũng khiến TTKT suy giảm (Poulson

& Kaplan, 2008) [172].

1.2.2 Cơ chế tác động của chính sách chi ngân sách nhà nước hướng

tới tăng trưởng kinh tế

Trong lý thuyết kinh tế, chi NSNN chủ yếu bao gồm chi thường xuyên

(Cg) gồm trả tiền lương cho đội ngũ công chức, chi cho các khoản mục bảo

đảm hoạt động của Chính phủ như mua hàng hóa, văn phòng phẩm, điện nước,

… trong khu vực công; và chi đầu tư (Ig) dùng cho các hoạt động đầu tư vào

cơ sở hạ tầng, bệnh viện, trường học… của Chính phủ. Ngoài ra còn có các

khoản chi chuyển nhượng (Tr) của Chính phủ cho các đối tượng nhất định như

trợ cấp thất nghiệp, người già, học bổng… Hàm chi tiêu của Chính phủ (G)

trong dài hạn sẽ phụ thuộc vào sản lượng quốc gia (Y) nhưng trong ngắn hạn

sẽ được quyết định bởi nhu cầu và mục tiêu của Chính phủ và không phụ thuộc

vào sản lượng quốc gia. Khi đó, các khoản thâm hụt (nếu có) sẽ được bù đắp

bằng các khoản vay của Chính phủ.

Tuy nhiên, kinh tế học hiện đại đã minh chứng rõ hơn tác động của chi

tiêu Chính phủ đến sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Cân bằng trên thị trường

35

hàng hóa diễn ra khi tổng cung (GDP = Y) bằng với chi tiêu mong đợi (A = C

+ I + G), khi đó Y = A = C + I + G ⇒ Y = (Y – T) – C hay S = I + G – T;

bởi vì C = C0 + Cm. YD (1.2) = C = C0 + Cm. (Y – T), và I = I (𝑅̅) = 𝐼̅, G = 𝐺̅ và T = 𝑇̅.

Ta có Y = A = C0 + Cm. (Y – 𝑇̅) + 𝐼̅ + 𝐺̅.

Giả định rằng có sự gia tăng trong chi tiêu của Chính phủ làm gia tăng G,

khi đó đường cân bằng sẽ dịch chuyển lên trên bởi một lượng G và đưa nên

kinh tế cân bằng tại một mức sản lượng cao hơn (Y**), thúc đẩy kinh tế phát

triển.

AD AD = Y

C

AD1

G

AD0

𝐼̅ + 𝐺̅ − 𝑐𝑇̅

𝐼̅ + 𝐺′̅̅̅ − 𝑐𝑇̅

Y Y* Y**

Hình 1.2: Tác động của chi tiêu Chính phủ lên sản lượng của nền kinh tế

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

Tuy nhiên, lập luận này giả định rằng các yếu tố khác không đổi.. Mặc

dù vậy, các nhà kinh tế đều thống nhất với nhau rằng, trong một số trường hợp

sự cắt giảm chi tiêu chính phủ có thể thúc đẩy TTKT, và trong một số trường

hợp khác sự gia tăng chi tiêu chính phủ cũng có lợi cho TTKT. Trong lý thuyết

kinh tế học, chi tiêu của Chính phủ sẽ tác động đến thị trường hàng hóa và thị

trường các yếu tố sản xuất, từ đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Hình

1.3 dưới đây mô tả các mối quan hệ đó:

36

Hình 1.3: Luồng thu nhập của các khu vực trong chu chuyển kinh tế

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

Hầu hết các nhà kinh tế đã chỉ rõ ra rằng nếu chi tiêu chính phủ bằng

không sẽ dẫn đến TTKT rất thấp, bởi vì việc thực thi các hợp đồng kinh tế, bảo

vệ quyền sở hữu tài sản, phát triển cơ sở hạ tầng… sẽ rất khó khăn nếu không

có chính phủ. Nói cách khác, một số khoản chi tiêu của chính phủ là cần thiết

để đảm bảo cho sự TTKT.

Có những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nếu Chính phủ tăng chi tiêu

cũng có thể là một trong những nguyên nhân làm TTKT chậm lại (Landau, D.

1985) [152]. Chính phủ tăng chi trong giai đoạn đầu của chu kỳ kinh tế có hiệu

quả thúc đẩy đầu tư kéo theo TTKT tốt hơn (Barro, Robert J. 1990) [100].

Chính phủ tăng chi ngân sách có tác động tiêu cực tới đầu tư tư nhân, từ đó làm

giảm tốc độ TTKT (Engen, Eric, M., & Skinner, Janathan., 1991) [115]. Nghiên

cứu của Hsieh & Lai (1994) [117] lại thấy rằng chi tiêu công đóng góp một

phần rất nhỏ vào TTKT do nguyên nhân hiệu quả của chi ngân sách không cao.

37

1.2.3 Cơ chế tác động của chính sách thu ngân sách nhà nước, chính

sách chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế trong mối quan

hệ với chính sách tiền tệ

Thông qua việc sử dụng mô hình đường IS (biểu thị tập hợp các mức lãi

suất và thu nhập tại các điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa vĩ mô) và đường

LM (biểu thị những tập hợp các mức lãi suất và thu nhập thỏa mãn điều kiện

cân bằng của thị trường tiền tệ), chúng ta sẽ thấy được sự thay đổi của thị trường

tiền tệ dưới tác dụng của CSTK của Chính phủ.

Việc xác định đường IS được biểu diễn dưới hình vẽ như sau, trong đó

AD là đường tổng cầu, Y là đường sản lượng, r là lãi suất

AD AD = Y

AD

AD1 (r1) E2

AD0 (r1) E1

Y Y2 Y1

r r1

Y

IS2 (r1)

IS1 (r1)

Y

Y2 Y1 Hình 1.4. Mô hình đường IS

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

38

Trong khi đó, đường LM được xác định như hình vẽ dưới đây, với r là

lãi suất, SM là đường cung tiền, LM là đường cầu tiền, Y là sản lượng của nền

kinh tế:

r SM LM < SM

LM E2 H E2

E1 K

M

L2

(Y2)

E1

LM > SM

M

M Y1 Y Y L1

(Y1)

Hình 1.5. Mô hình đường LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

* CSTK mở rộng:

AD = Y AD AD1 (G1) E2

G

AD0 (G0) AD1

E1 AD0

Y Y0 Y1 r

G

r0 IS1 (r0)

IS0 (r0)

Y0 Y Y1

Hình 1.6. Chính sách tài khóa mở rộng và sản lượng của nền kinh tế

trong mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

39

Thị trường cân bằng ban đầu tại sản lượng Y0 tương ứng với mức lãi suất

r0. Khi chính phủ thực hiện CSTK mở rộng. Khi thu nhập tăng, các khoản chi

tiêu gia tăng làm dịch chuyển đường AD ⇒ đường cân bằng IS dịch chuyển

sang phải IS1. Kết quả là trên thị trường cân bằng IS – LM, sản lượng Y đạt lên

một mức cao (Y1) hơn kéo theo sự gia tăng của lãi suất r.

LM0 r

A’ r1

G

r0 A IS1 (r1)

IS0 (r0)

Y0 Y1 Y

Hình 1.7. Chính sách tài khóa mở rộng, lãi suất và sản lượng của nền kinh

tế trong mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

Nhưng một lần nữa, lãi suất tăng sẽ kéo theo đầu tư và tiêu dùng giảm,

bù trừ lại một phần của CSTK mở rộng.

* CSTK thắt chặt:

r LM0

G

A r0 r1 IS0 (r0) A’

IS1 (r1)

Y Y0 Y1

Hình 1.8. Chính sách tài khóa thu hẹp, lãi suất và sản lượng của nền kinh

tế trong mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

40

Ngược lại, trong bối cảnh CSTK thắt chặt làm dịch chuyển đường AD

sang trái ⇒ đường cân bằng IS dịch chuyển sang trái IS1. Kết quả là trên thị

trường cân bằng IS – LM, sản lượng Y giảm xuống mức thấp hơn kéo theo sự

sụt giảm của lãi suất r. Nhưng một lần nữa, lãi suất giảm sẽ kéo theo đầu tư và

tiêu dùng tăng, bù trừ lại một phần của CSTK thắt chặt.

* Chính sách tiền tệ mở rộng: LM0

MS

r

LM1 A r0

A’ r1 IS0

Y Y0 Y1 Hình 1.9. Chính sách tiền tệ mở rộng và sản lượng của nền kinh tế trong

mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

CSTT mở rộng làm gia tăng cung tiền kéo theo sự dịch chuyển của đường

LM sang phải ⇒ nền kinh tế đạt đến trạng thái cân bằng mới với sự gia tăng về

sản lượng Y và kéo theo lãi suất r giảm xuống.

* Chính sách tiền tệ thắt chặt:

LM1 MS r LM0

A’ r1

A r0

IS0

Y1 Y Y0

Hình 1.10. Chính sách tiền tệ thắt chặt và sản lượng của nền kinh tế trong

mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

41

Ngược lại với CSTT mở rộng, CSTT thắt chặt kéo theo sự dịch chuyển

của đường LM sang trái ⇒ nền kinh tế đạt đến trạng thái cân bằng mới với sự

sụt giảm về sản lượng Y và kéo theo lãi suất r tăng lên.

* Chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng:

LM0 r

LM1 B

r1

r0 A C

IS1

IS0

Y2 Y0 Y1 Y

Hình 1.11. Chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng và

lãi suất, sản lượng của nền kinh tế trong mô hình IS – LM

Nguồn: Giáo trình Kinh tế học - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân [28]

Thị trường cân bằng ban đầu tại sản lượng Y0 tương ứng với mức lãi suất

r0. Khi chính phủ thực hiện CSTK mở rộng (tăng chi tiêu G hoặc giảm thuế T)

làm dịch chuyển đường AD ⇒ tác động của việc này lên sản lượng Y phụ thuộc

vào CSTT.

Nếu ngân hàng trung ương giữ cung tiền không đổi, r tăng, sẽ chèn lấn

đầu tư tư nhân. Nếu ngân hàng trung ương giữ lãi suất là hằng số, khi đó sẽ

phải tăng SM, khi đó sẽ làm dịch chuyển đường LM ra bên ngoài. Tại điểm “C”

chúng ta có tác động kết hợp của CSTK mở rộng và CSTT mở rộng.

Như vậy, cả CSTK và CSTT đều là những công cụ hiệu quả để tác động

lên tổng cầu. Tuy nhiên, tác động tổng hợp thật sự rất phức tạp và còn phụ

thuộc vào mức độ sử dụng của các công cụ này lên nền kinh tế.

42

1.3 KINH NGHIỆM VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA

HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN

THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

1.3.1 Kinh nghiệm về sử dụng chính sách tài khóa hướng tới tăng

trưởng kinh tế của một số nước trên thế giới

Nghiên cứu kinh nghiệm thực hiện CSTK ở một số quốc gia trên thế giới,

tác giả thấy rằng CSTK được áp dụng phụ thuộc vào bối cảnh tình hình KTXH

của từng quốc gia trong một giai đoạn (hoặc thời điểm). Có những giai đoạn,

các nước buộc phải thực hiện CSTK thắt chặt để đảm bảo các mục tiêu về bội

chi ngân sách cũng như vấn đề nợ công (phần lớn các nước ở khu vực Châu Âu

những năm 2010s). Bên cạnh đó có những giai đoạn, đặc biệt trong bối cảnh

gần đây TTKT toàn cầu đang có dấu hiệu chậm lại do tác động của nhiều yếu

tố bất lợi (xung đột chính trị, dịch bệnh) nên nhiều quốc gia thực hiện CSTK

mở rộng để thúc đẩy TTKT.

1.3.1.1. Kinh nghiệm về sử dụng chính sách thu ngân sách nhà nước

hướng tới tăng trưởng kinh tế của một số nước trên thế giới

❖ Giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp

Kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn

cầu 2008-2009, hoạt động đầu tư, kinh doanh suy giảm, DN gặp nhiều khó

khăn, tình trạng thất nghiệp tăng cao ở nhiều nước. Vì vậy, nhiều nước đã thực

hiện giảm thuế suất thuế TNDN theo lộ trình nhằm tạo điều kiện cho DN tích

tụ vốn để hoạt động SXKD, nâng cao cạnh tranh và tạo việc làm cho người lao

động. Úc giảm thuế suất thuế TNDN từ 30% (2014) xuống 28,5% (áp dụng từ

01/7/2015) [139]. Phần Lan giảm thuế suất thuế TNDN từ 24,5% xuống 20%

từ 01/01/2014 [155]. Belarus giảm thuế suất từ 24% (2011) xuống 18% (2012)

[195]. Bồ Đào Nha đã giảm thuế suất thuế TNDN từ 25% xuống 23% (2014)

và 21% từ 01/01/2015 [201]. Anh giảm thuế TNDN từ 28% (2013) xuống 21%

43

(4/2014) và 20% (4/2015), mức điều chỉnh này nhằm đảm bảo mức thuế suất

thuế TNDN của Anh sẽ thấp nhất trong các nước G20 từ đó khuyến khích đầu

tư của các doanh nghiệp [103]. Nam Phi cũng đã giảm thuế suất thuế TNDN từ

34,55% (2012) xuống 28% (2013) [150]. Trong khu vực ASEAN, Thái Lan đã

thực hiện giảm thuế suất thuế TNDN theo lộ trình từ 30% (2011) xuống 23%

(2012) và 20% (2013) [153]. Malaysia giảm thêm 1% thuế suất phổ thông thuế

TNDN từ năm 2016 (mức 24%) [174]. Singapore tiếp tục duy trì mức thuế suất

thuế TNDN thấp nhất trong khu vực là 17% [176]. Tây Ban Nha giảm thuế suất

từ 30% xuống 28% năm 2015 và giảm tiếp xuống 25% từ 01/01/2016 [157]. Ý

từ 31,4% xuống 24% từ năm 2017 [196]. Năm 2017, Mỹ cũng đã quyết định

giảm mức thuế suất thuế TNDN từ 35% xuống còn 21% như là một nỗ lực để

nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước này.

❖ Giảm thuế suất thuế thu nhập cá nhân

Xu hướng phần lớn các nước là cắt giảm thuế đối với thu nhập của người

lao động (sau nhiều năm tăng thuế TNCN vì khủng khoảng kinh tế) để tăng

cường sự công bằng, cải thiện khả năng tham gia của thị trường lao động. Hà

Lan đã công bố cắt giảm thuế suất cao nhất từ 52% xuống 49,5% cho năm 2019

[173], tuy nhiên mức thuế suất đánh vào mức thu nhập lên tới 73.031 Euro sẽ

được giảm từ 37,07% xuống 36,93% từ ngày 1/1/2023 [192]. Latvia là quốc

gia đã đưa ra cải cách lớn về thuế TNCN, thay đổi hệ thống thuế TNCN với

mức thuế suất thống nhất là 23% áp cho tất cả các đối tượng lao động chuyển

sang hệ thống thuế lũy tiến với mức thuế suất là 20% đối với thu nhập lên đến

20.004 Euro; 23% đối với thu nhập trong khoảng từ 20.004 Euro đến 78.100

Euro và 31% thu nhập trên 78.100 Euro để giảm bớt bất bình đẳng về thu nhập.

Trong số các quốc gia cắt giảm thuế suất thuế TNCN thì Đạo Luật cắt

giảm thuế và việc làm của Mỹ đại diện cho cải cách quan trọng nhất. Tại Mỹ,

Đạo Luật tiếp tục duy trì 7 bậc thuế suất thuế TNCN và quy định giảm mức

44

thuế suất thuế TNCN, cụ thể giảm từ mức thuế suất cao nhất là 39,6% xuống

còn 37%, và giảm một số mức thuế suất 15%, 25%, 28%, 33% xuống tương

ứng là 12%, 22%, 24% và 32%; đồng thời tăng ngưỡng thu nhập chịu thuế

tương ứng với từng bậc thuế suất. Quy định này áp dụng từ 31/12/2017 đến

31/12/2025.

❖ Giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng

Tại Hungary, thuế suất thuế GTGT đối với dịch vụ nhà hàng đã được cắt

giảm từ 27% xuống 18% trong năm 2017, tiếp tục giảm xuống còn 5% vào năm

2018 và thực hiện giảm thuế suất thuế GTGT cho dịch vụ truy cập internet từ

18% xuống 5% [179]. Tại Thụy Sỹ, mức thuế suất thuế GTGT đối với sách

điện tử giảm từ 7,7% (mức thuế suất phổ thông) xuống 2,5% [119]. Áo cũng

đã tuyên bố cắt giảm thuế suất thuế GTGT đối với dịch vụ lưu trú từ 13% trở

về mức 10% vào tháng 11/2018 [189]. Ngày 5 tháng 3 năm 2019, Trung quốc

[178] đã công bố thực hiện giảm thuế GTGT cho các ngành công nghiệp sản

xuất từ 16% xuống 13% và cho các ngành xây dựng và vận tải từ 10% xuống

9% từ 1/4/2019.

❖ Miễn giảm hoặc gia hạn thuế cho các cá nhân, doanh nghiệp nhằm

hỗ trợ những khó khăn mà họ gặp phải khi xuất hiện dịch bệnh Covid-19

Tại Trung Quốc, Bộ Tài chính và Cục thuế Nhà nước đã ban hành các

biện pháp thuế mới nhằm chống chọi với dịch bệnh Covid-19. Theo Thông báo

số 09 về chính sách thuế hỗ trợ phòng ngừa và kiểm soát Covid-19 và Thông

báo số 10 về chính sách thuế TNCN để hỗ trợ phòng ngừa và kiểm soát Covid-

19 đã được ban hành vào đầu tháng 2/2020 để hướng dẫn thực hiện thuế TNCN

đối với các khoản phụ cấp được trả trong thời gian dịch bệnh. Các thông báo

này có hiệu lực từ ngày 1/1/2020. Cụ thể: (1) Miễn thuế thu nhập khi nhận các

loại thu nhập sau: (i) trợ cấp tạm thời và tiền thưởng nhận được của nhân viên

y tế và phòng chống dịch bệnh trong các hoạt động phòng ngừa và kiểm soát

45

dịch; (ii) thuốc, vật tư, y tế, thiết bị bảo vệ và các loại lợi ích khác, trừ tiền mặt

do chủ lao động cung cấp cho người lao động để phòng ngừa Covid-19. (2)

Giảm thuế cho các loại quyên góp: (i) quyên góp bằng tiền hoặc hiện vật được

thực hiện bởi các cá nhân thông qua các tổ chức XH phi lợi nhuận hoặc cơ quan

chính phủ ở cấp quận trở lên hoặc các bộ phận trực thuộc của họ; (ii) quyên

góp bằng hiện vật được thực hiện trực tiếp bởi các cá nhân cho các bệnh viện

được chỉ định thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa và điều trị Covid-19. [198]

Tại Indonesia, do Chính phủ ước tính TTKT ở mức 4,7% cho năm 2020

nên vào ngày 13/3/2020, Chính phủ đã ban hành gói kích thích kinh tế thứ hai

nhằm giảm thiểu tác động của Covid-19 trị giá 8 tỷ USD. Gói kích thích chiếm

khoảng 0,8% GDP cung cấp một loạt các ưu đãi tài chính và phi tài chính cho

doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các ưu đãi tài chính chủ yếu dành cho lĩnh vực sản

xuất và bao gồm giảm thuế TNDN và thuế TNCN. Ưu đãi phi tài chính tập

trung vào các hoạt động xuất, nhập khẩu. Gói kích thích trước đó có trị giá 725

triệu USD được công bố vào tháng 2/2020, cung cấp các ưu đãi tài chính để hỗ

trợ các ngành công nghiệp du lịch, hàng không và bất động sản. Gói này cũng

phân bổ 324 triệu USD cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. [95]

Gói kích thích thứ hai cung cấp 04 loại ưu đãi tài chính chủ yếu cho sản

xuất dưới hình thức giảm thuế trị giá 1,4 tỷ USD. Với lĩnh vực mà cung cấp 20

đến 50% nguyên liệu thô từ Trung Quốc, các ưu đãi được thiết kế để cung cấp

cho doanh nghiệp môi trường thuận lợi hơn trong bối cảnh bị gián đoạn chuỗi

cung ứng.

Chính phủ giảm 30% thuế TNDN cho các doanh nghiệp trong 19 ngành

sản xuất được lựa chọn trong 06 tháng tới bao gồm: (i) hóa chất và sản phẩm

hóa học; (ii) thiết bị điện; (iii) các nhà sản xuất xe cơ giới, rơ moóc và sơ mi rơ

moóc; (iv) công nghiệp dược phẩm, hóa dược, y học cổ truyền; kinh loại cơ

bản; sản xuất thiết bị vận tải; giấy và sản phẩm giấy; ngành công nghiệp thực

46

phẩm; máy vi tính, hàng điện tử và quang học; công nghiệp máy móc; sợi; hàng

cao su và nhựa; đồ nội thất, công nghiệp in ấn và ghi âm; khai thác phi kim

loại; công nghiệp nước giải khát; công nghiệp kim loại phi máy móc; thành

phẩm công nghiệp vật liệu; và ngành da cho giày dép.

Tại Malaysia, gói kích thích nhằm chống đỡ với dịch Covid-19 được

tung ra khẩn cấp vào tháng 2 năm 2020 với trị giá là 4,8 tỷ USD. Gói này thực

hiện các chiến lược bao gồm thúc đẩy TTKT, thúc đẩy đầu tư và khuyến khích

các doanh nghiệp áp dụng tự động hóa và số hóa các quy trình của họ. 453 triệu

USD sẽ được hướng tới ngành du lịch, một trong những ngành phải chịu tác

động nặng nề nhất của đại dịch. Các công ty du lịch, khách sạn, hãng hàng

không cũng như các doanh nghiệp trong ngành du lịch sẽ được hoàn trả thuế

hàng tháng trong 06 tháng kể từ ngày 1/4/2020. Khách sạn cũng sẽ được miễn

thuế dịch vụ từ ngày 1/3/2020, cho đến 31/8/2020. Một khoản giảm thuế thu

nhập đặc biệt trị giá 1.000 Ringgit (226 USD) dành cho các cá nhân chi cho du

lịch nội địa từ ngày 1/3/2020 đến 31/8/2020. Việc này được giới hạn ở phí vào

cửa cho các điểm tham quan du lịch và chi phí lưu trú tại các cơ sở đã đăng ký

với Bộ Du lịch, Nghệ thuật và Văn hóa. Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị

và máy móc: Ưu đãi này dành riêng cho các nhà khai thác cảng, những người

cần nhập khẩu máy móc hoặc thiết bị, được sử dụng trong các hoạt động cảng.

Ưu đãi có giá trị từ 1/4/2020 đến 31/3/2023. Malaysia thực hiện giảm đóng góp

của người lao động đối với Quỹ lao động (the Employee Provident Fund

(EPF)). Quỹ lao động là một kế hoạch tiết kiệm và nghỉ hưu bắt buộc đối với

người lao động trong khu vực tư nhân ở Malaysia. Người lao động đóng góp từ

7% đến 11% tiền lương hàng tháng của họ. Điều này hiện đã được giảm xuống

còn 4%, giúp các hộ gia đình tăng được thu nhập ước tính khoảng 10 tỷ Ringgit

(2,2 tỷ USD). [96]

47

1.3.1.2. Kinh nghiệm về sử dụng chính sách chi ngân sách nhà nước

hướng tới tăng trưởng kinh tế của một số nước trên thế giới

Tại một số thời điểm, các quốc gia đã thực hiện tăng chi tiêu công vào các

lĩnh vực như xây dựng cơ sở hạ tầng, các dịch vụ xã hội (Nhật, Phi-lip-pin)

[104], hỗ trợ các doanh nghiệp, đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và an sinh xã

hội (Trung Quốc, Nhật) [94], tập trung ưu tiên vào y tế, an sinh xã hội và các

lĩnh vực khác có tầm quan trọng ảnh hưởng tới đời sống người dân (Trung

Quốc) [143]. Ngân sách trung ương ở Trung Quốc chủ yếu tập trung vào hỗ trợ

các dự án nhà ở, các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng liên quan tới nông nghiệp, thủy

lợi và các mạng lưới tiện ích đô thị, các chương trình xã hội cải thiện phúc lợi

của người dân, bảo tồn năng lượng, giảm phát thải và bảo vệ môi trường [197].

Trung Quốc tiếp tục thực hiện CSTK mở rộng nhằm thúc đẩy TTKT và một

trong những nội dung trong CSTK mở rộng của Trung Quốc là tăng thâm hụt

ngân sách và quy mô nợ Chính phủ. Trung Quốc tăng thâm hụt ngân sách với

mục tiêu là 2% GDP và con số thâm hụt là 1,2 nghìn tỷ Nhân dân tệ (tương

đương với 191 tỷ USD) cho năm 2013 [177]. Trung Quốc cũng tiếp tục gia tăng

trái phiếu chính phủ để phục vụ các kế hoạch chi tiêu, điều này càng làm cho

quy mô nợ chính phủ tăng thêm. Xu hướng này có thể giúp đảm bảo cho Chính

phủ huy động đủ nguồn lực để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực chi tiêu ưu tiên

và trong dài hạn có thể đóng góp vào việc thúc đẩy TTKT. Trung Quốc nhấn

mạnh CSTK mở rộng sẽ được triển khai và đóng vai trò quan trọng hàng đầu

trong việc hỗ trợ thúc đẩy TTKT năm 2022, tuy nhiên cũng dấy lên vấn đề lo

ngại về tính bền vững của nợ công do số thu NSNN giảm vì tăng trưởng có dấu

hiệu chậm lại. [146]

Tại Nhật, dù tỷ lệ nợ công cao nhưng Nhật là một trong số ít quốc gia thực

hiện CSTK mở rộng khi tung ra gói kích thích kinh tế trị giá 10,3 tỷ yên (tương

đương khoảng 116 tỷ USD) trong tháng 1/2013 nhằm phục hồi nền kinh tế và

48

chấm dứt tình trạng giảm phát kéo dài và đây là gói kích thích chi tiêu lớn nhất

từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bao gồm chi cho xây dựng cơ sở hạ

tầng, hỗ trợ các doanh nghiệp, chi cho giáo dục và an sinh xã hội nhiều hơn,

mặt khác cũng hy vọng thu hút thêm 10 nghìn tỷ yên đầu tư từ các chính quyền

địa phương và các doanh nghiệp tư nhân để tăng thêm 2% vào TTKT cũng như

tạo thêm 600.000 việc làm mới. [145]

Khi bệnh dịch Covid-19 mới bắt đầu và tiếp tục có xu hướng lan rộng, khó

kiểm soát thì Chính phủ các quốc gia đều thực hiện tăng chi NSNN cho hoạt

động y tế. Tiếp đến các chính sách hỗ trợ từ NSNN tiếp tục được đề xuất và

thực hiện ở các nước nhằm tạo động lực cho nền kinh tế có khả năng chống

chọi và phục hồi.

Tại Malaysia, để tài trợ thêm cho đào tạo kỹ năng thì Chính phủ sẽ cung

cấp 100 triệu Ringgit (45 triệu USD) để giúp các doanh nghiệp bị ảnh hưởng

bởi Covid-19 nhằm nâng cấp các kỹ năng của công nhân. Điều này bao gồm

các lĩnh vực như bán lẻ, khách sạn, sản xuất điện, điện tử và ô tô. Một khoản

trị giá 50 triệu Ringgit khác (11 triệu USD) sẽ được cung cấp để tài trợ cho các

khóa học ngắn, đặc biệt để cải thiện kỹ năng số của nhân viên và 20 triệu

Ringgit (4,5 triệu USD) sẽ được phân bổ để tài trợ cho các khóa học ngắn hạn

cho nhân viên trong lĩnh vực sản xuất.

Ngoài ra Chính phủ Malaysia thực hiện hỗ trợ tài chính cho các hộ gia

đình thu nhập thấp, thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ, khuyến

khích tăng trưởng đầu tư, tài trợ cho khởi nghiệp. Cụ thể: Các hộ gia đình có

thu nhập thấp sẽ bắt đầu nhận được khoản thanh toán hàng tháng là 200 Ringgit

(45 USD) dự kiến ban đầu vào tháng 5 sẽ được thanh toán vào tháng 3. Các hộ

gia đình cũng sẽ nhận được khoản thanh toán một lần là 100 Ringgit (22 USD).

Chính phủ đã phân bổ 2 tỷ Ringgit (450 triệu USD) cho các dự án cơ sở hạ tầng

như bảo trì đường, cầu, đèn đường, hệ thống thoát nước và nguồn cung cấp

49

nước… ở tất cả các cấp chính quyền. Điều này nhằm mục đích hỗ trợ các nhà

thầu quy mô nhỏ và khuyến khích các hoạt động kinh tế. Khoảng 200 triệu

Ringgit (45 triệu USD) được giao cho việc sửa chữa và bảo trì nhà ở và các tiện

ích công cộng trong khi 150 triệu Ringgit (33 triệu USD) sẽ hướng tới việc duy

trì cung cấp điện và nước thay thế ở khu vực nông thôn. [96]

Để duy trì TTKT và tiêu dùng tư nhân, Chính phủ cung cấp các ưu đãi

nhằm khuyến khích đầu tư tư nhân nhiều hơn, đồng thời đẩy nhanh tiến độ đầu

tư công. Điều này bao gồm việc tăng tốc 3 tỷ Ringgit dự kiến cho Chương trình

kết nối và sợi hóa quốc gia (NCP). NCP nhằm mục đích cải thiện chất lượng

băng thông rộng và vùng phủ sóng cung cấp truy cập internet trên toàn quốc

cho tất cả các nhóm xã hội. Thêm 13 tỷ Ringgit (2,9 tỷ USD) được lên kế hoạch

chi cho việc lắp đặt đèn đường LED, tấm pin mặt trời trên mái nhà và đường

truyền. Chính phủ cũng sẽ mở thầu cho một dự án điện mặt trời 1.400 MW

trong năm 2020 tạo ra 5 tỷ Ringgit (1,1 tỷ USD) trong các khoản đầu tư.

Chính phủ Indonesia thực hiện tăng mạnh chi tiêu cho các chương trình

trợ giúp xã hội (chiếm khoảng 15,6% tổng chi NSNN) trong năm 2019 (trong

nỗ lực tăng cường vốn nhân lực của Indonesia), chính phủ trung ương cũng bổ

sung một số quỹ vào ngân sách phát triển cơ sở hạ tầng (mặc dù mức tăng

không ấn tượng như những năm trước). Trong năm 2019, NSNN cho phát triển

cơ sở hạ tầng tăng 2,4% so với năm trước, lên 420,5 nghìn tỷ IDR (chiếm

khoảng 17,2% tổng chi NSNN). Chính phủ Indonesia tăng NSNN đầu tư cho

cơ sở hạ tầng lên 419,2 nghìn tỷ Rp vào năm 2020 (tăng 4,9% so với năm 2019).

Trong năm 2020, NSNN dành cho cơ sở hạ tầng tăng mạnh nhất cho xây dựng

đường bộ. [138]

1.3.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Theo quan điểm của tác giả, việc nghiên cứu kinh nghiệm các nước về

CSTK thúc đẩy TTKT giúp đưa ra một số bài học cho Việt Nam như sau:

50

Thứ nhất, CSTK mở rộng thông qua việc giảm thuế và tăng chi NSNN đã

được nhiều quốc gia áp dụng nhằm thúc đẩy TTKT. Tuy nhiên việc điều chỉnh

CSTK theo hướng mở rộng phụ thuộc vào bối cảnh nền kinh tế của từng quốc

gia và các mục tiêu mà quốc gia đó theo đuổi trong một giai đoạn, một thời

điểm nhất định. CSTK mở rộng được các quốc gia lựa chọn khi TTKT trong

nước chậm lại do những yếu tố rủi ro từ kinh tế toàn cầu (dịch bệnh, bất ổn

chính trị, các xung đột leo thang, đặc biệt là xung đột thương mại Mỹ - Trung,

xung đột vũ trang giữa Nga-Ukraine trong thời gian gần đây kéo theo các biến

động về giá nhiên liệu, giá vàng…) cùng với những khó khăn, thách thức trong

nội tại quốc gia đó.

Thứ hai, phần lớn các quốc gia trong lựa chọn điều chỉnh CSTK mở rộng

theo hướng cắt giảm thuế nhằm kích thích TTKT, chủ yếu là tập trung vào cắt

giảm thuế thu nhập và thuế tiêu dùng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt

động sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư.

Các quốc gia thực hiện giảm thuế suất thuế TNDN nhằm tạo thuận lợi cho

sự cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như thu hút đầu tư, góp phần giúp doanh

nghiệp có thêm nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, qua đó đóng góp

vào TTKT. Thuế TNCN là một trong những loại thuế quan trọng, có tác động

đến thu nhập (sau thuế) của người dân, do đó cũng góp phần kích thích tiêu

dùng khi người dân ở các nước được giảm thuế, gián tiếp thúc đẩy TTKT. Có

những quốc gia điều chỉnh tăng ngưỡng giảm trừ cá nhân hàng năm để theo kịp

tốc độ tăng lạm phát nhưng cũng có những quốc gia rất hiếm khi điều chỉnh do

một phần để ổn định chính sách trong một thời gian nhất định. Thuế GTGT là

sắc thuế phổ biến áp dụng đối với người tiêu dùng, do đó việc giảm thuế suất

thuế GTGT có tác động rất tích cực đến tiêu dùng của người dân, tiêu dùng

được kích thích giúp thúc đẩy TTKT. Ngoài ra, các biện pháp miễn, giảm và

gia hạn thuế mà Việt Nam cần cân nhắc đối với biện pháp giảm thuế suất thuế

51

TNDN phổ thông vì mặc dù xu hướng phần lớn của các quốc gia là giảm thuế

suất thuế TNDN phổ thông nhưng trong những năm vừa qua Việt Nam cũng đã

nỗ lực cải cách thuế TNDN theo hướng trên và hiện tại mức thuế suất thuế

TNDN phổ thông (20%) cũng khá thấp so với nhiều nước trong khu vực nên

việc tiếp tục giảm mức thuế suất không còn là biện pháp hiệu quả nhất trong

thời điểm hiện nay.

Thứ ba, tăng chi NSNN là một trong những chính sách quan trọng góp

phần lớn vào thúc đẩy TTKT. Tuy nhiên tùy vào từng mục tiêu và kế hoạch

ngân sách thì các quốc gia sẽ thực hiện ưu tiên tăng chi vào lĩnh vực mà các

quốc gia cho rằng có tác dụng kích thích TTKT trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Về cơ bản, các nước thực hiện tăng chi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chi cho các

lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, an sinh xã hội. Các quốc gia như Thái

Lan, Indonesia, Philippines… chủ yếu đẩy mạnh tăng chi cho cơ sở hạ tầng là

do mục tiêu đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, qua đó góp phần TTKT và

tạo ra nhiều việc làm hơn.

Gần đây, khi đại dịch Covid-19 xuất hiện và lan nhanh trên toàn cầu thì

các quốc gia đã ngay lập tức thực hiện tăng chi ngân sách cho các hoạt động

phòng ngừa, kiểm soát dịch, tránh lây lan, nghiên cứu vắc xin. Bên cạnh đó các

nước thực hiện hỗ trợ ở mức tối đa cho cộng đồng doanh nghiệp phải chịu ảnh

hưởng nặng nề từ dịch bệnh khi các hoạt động kinh doanh bị đình trệ, gián

đoạn, khả năng bám trụ yếu ớt, nhiều doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động

và cá nhân thông qua hỗ trợ từ NSNN. Vì vậy các nước cũng tiến hành thực

hiện các biện pháp miễn, giảm, gia hạn thuế nhằm giảm thiểu khó khăn và tạo

động lực để khu vực tư nhân ổn định trở lại.

Thứ tư, CSTK mở rộng giúp các quốc gia có cơ hội đẩy mạnh TTKT, tuy

nhiên mặt trái cho thấy khi thực hiện cắt giảm thuế và tăng chi NSNN có khả

52

năng gây ra rủi ro tài khóa (bội chi tăng cao ảnh hưởng đến tính bền vững của

nợ công).

Thứ năm, mặc dù các quốc gia có xu hướng thực hiện CSTK mở rộng để

thúc đẩy TTKT nhưng Việt Nam vẫn nên tiếp tục thực hiện điều chỉnh CSTK

theo hướng chặt chẽ, siết chặt kỷ luật kỷ cương tài chính-ngân sách… do nhiều

nguyên nhân như TTKT mặc dù khả quan nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro khi

mà tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, chưa thực sự bền vững; hiệu quả chi

NSNN cho thấy vẫn còn hạn chế và nợ công tuy vẫn nằm trong giới hạn cho

phép của Quốc hội nhưng vẫn cần phải kiểm soát chặt chẽ.

Thứ sáu, ngoài các biện pháp giảm thuế và tăng chi NSNN nhằm thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế thì tác giả cũng thấy rằng chính sách tín dụng cũng đóng

vai trò quan trọng trong công tác hỗ trợ người dân và cộng đồng DN. Trong bối

cảnh khó khăn, đặc biệt trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19 tác động tiêu cực

đến kinh tế do hoạt động kinh doanh bị đe dọa, nguồn vốn khan hiếm, do đó

các nước thực hiện điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng hạ lãi suất, cung

cấp các gói vay ưu đãi cho khu vực tư nhân, tính thanh khoản của ngân hàng

cũng được chú trọng khi một số quốc gia đảm bảo khối lượng tiền thanh

khoản.Vì vậy Việt Nam cũng cần phải điều chỉnh và sắp xếp lại các khoản vay,

giảm lãi suất tín dụng để đảm bảo khả năng trả nợ của DN và người dân.

Tiểu kết chương 1

Những lý luận chung về CSTK hướng tới TTKT đã cơ bản được hệ thống

hóa trong chương 1. Bên cạnh đó, tác giả cũng thể hiện quan điểm riêng về

CSTK là việc tập trung áp dụng hoặc điều chỉnh các công cụ chính sách thu và

chi ngân sách để tác động đến TTKT và giải quyết các vấn đề xã hội. CSTK

được chia thành nhiều loại như CSTK mở rộng, CSTK thắt chặt, CSTK trung

lập và mỗi loại CSTK khi áp dụng đều được đặt trong các bối cảnh khác nhau

về tình hình KTXH và các mục tiêu tài khóa trong thời điểm hay giai đoạn mà

53

Chính phủ muốn hướng tới. Sự biến động của TTKT do rất nhiều yếu tố tác

động: các yếu tố từ bên ngoài và các yếu tố nội tại của quốc gia, do đó khi nền

kinh tế rơi vào suy thoái hoặc hung thịnh thì CSTK thuận chu kỳ hoặc CSTK

ngược chu kỳ được các Chính phủ đặc biệt quan tâm. Khi Chính phủ đưa ra

quyết định áp dụng CSTK, các tác động đối với TTKT thường đã được tính

toán khá kỹ. Do đó cơ chế tác động tổng hợp của CSTK cũng như cơ chế tác

động riêng biệt của từng chính sách thu hoặc chính sách chi đối với TTKT cũng

được bàn luận khá kỹ lưỡng và mạch lạc. Việc tăng hoặc giảm thuế suất của

bất kỳ một chính sách thuế nào cũng khiến cho các yếu tố thuộc về TTKT thay

đổi, chẳng hạn tăng thuế suất thuế tiêu dùng sẽ giảm nhu cầu tiêu dùng hàng

hóa của người dân ở một mức độ nào đó, dẫn tới TTKT cũng giảm đi và ngược

lại. Chi ĐTPT được chính phủ đẩy mạnh khi mục tiêu TTKT đưa ra có khả

năng không đạt trong một năm hoặc một vài năm, đây là tác động trực tiếp đến

TTKT của chi ĐTPT về mặt lý thuyết. Chi thường xuyên cho các lĩnh vực như

giáo dục được tăng lên không có tác động trực tiếp đến TTKT mà lại có tác

động gián tiếp thông qua các ảnh hưởng tích cực của nhà nước tới giáo dục con

người nhằm nâng cao chất lượng lao động trong tương lai. Thông thường vấn

đề tăng chi thường xuyên sẽ rất ít được áp dụng để thúc đẩy TTKT trong ngắn

hạn mà sẽ hướng tới TTKT trong dài hạn thông qua việc cải thiện hiệu suất lao

động.

Thực tiễn áp dụng CSTK tác động đến TTKT ở nhiều quốc gia, bao gồm

cả các nước phát triển và đang phát triển đã cho thấy các chính sách thuế khi

được điều chỉnh có tác động mạnh đến TTKT đó là giảm thuế TNDN, giảm

thuế TNCN, giảm thuế GTGT…và tăng chi ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ

tầng, các chương trình an sinh xã hội, cho giáo dục… Tuy nhiên các quốc gia

khi thực hiện điều chỉnh CSTK để thúc đẩy TTKT thì phải chấp nhận cân đối

ngân sách có nguy cơ rơi vào trạng thái thâm hụt ngân sách, kéo theo nợ công

54

tăng cao, khiến cho vấn đề đảm bảo an ninh tài chính công gặp nhiều thách

thức. Khi TTKT đã ổn định nhờ vào các CSTK đã áp dụng trước đó thì nhiều

quốc gia áp dụng CSTK thắt chặt nhằm củng cố nguồn thu NNSN, kiểm soát

chi ngân sách để đảm bảo thâm hụt NSNN trong giới hạn cho phép. Khi đó các

nguồn thu bị sụt giảm ở thời kỳ trước như nguồn thu từ thuế thu nhập sẽ được

bù đắp bởi các nguồn thu khác thông qua các điều chỉnh tăng cường các loại

thuế tiêu dùng kết hợp với giảm chi những khoản không cần thiết để nâng cao

hiệu quả sử dụng nguồn lực ngân sách.

55

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG

TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC GIAI

ĐOẠN 1991 – 2020

2.1.1 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 1991 – 2000

Năm 1991, Liên Xô sụp đổ, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã,

rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cả về KTXH và niềm tin. Mỹ chiếm

ưu thế với sức mạnh quân sự và sức mạnh kinh tế.

Giai đoạn này, kinh tế thị trường được xem là chất xúc tác tạo xung lực

mới thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế phát triển mạnh

mẽ cả về tốc độ, quy mô, bề rộng và chiều sâu, trở thành xu thế khách quan, tất

yếu của các quốc gia. Xu thế hợp tác bên cạnh sự cạnh tranh giữa các nước có

chế độ chính trị khác nhau được đẩy mạnh. Các hiệp định thương mại tự do

(FTA) song phương, đa phương, khu vực,... gia tăng với các thành viên tham

gia rất đa dạng về mô hình, định hướng phát triển. Thành viên của các tổ chức

kinh tế - tài chính quốc tế tăng lên nhanh chóng.

Năm 1993, Liên minh châu Âu (EU) ra đời cùng với đồng tiền chung

châu Âu (EUR) tạo sự lưu hành dễ dàng trong một châu Âu thống nhất và có

giá trị ổn định, tạo nên Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone).

Năm 1997 là một năm đầy biến động trên thị trường tài chính - tiền tệ

thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á và sau đó là Đông Bắc Á với những

cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ nghiêm trọng bắt đầu từ Thái Lan, sau đó

lan sang các nước ASEAN khác rồi tới Hàn Quốc và Nhật Bản. Cuộc khủng

hoảng mang tính khu vực này đã được Chính phủ mỗi nước, các tổ chức quốc

tế đứng đầu là IMF phối hợp ngăn chặn, nhưng thực tế đã lan rộng sang các

khu vực khác và trên phạm vi mang tính toàn cầu.

56

Năm 1998, tốc độ TTKT toàn cầu đạt 2,79%, Thái Lan -7,63%, Hàn Quốc

- 5,13%, Nhật Bản -1,27%.

Thế giới

5,00%

4,50%

3,61% 3,87%

4,00%

3,30%

3,50%

3,00%

3,09%

2,06%

2,79%

2,00%

1,81%

1,00%

1,45%

0,00%

Năm 1991

Năm 1992

Năm 1993

Năm 1994

Năm 1995

Năm 1996

Năm 1997

Năm 1998

Năm 1999

Năm 2000

Tốc độ tăng trưởng GDP

Hình 2.1. Tốc độ TTKT trung bình thế giới giai đoạn 1991 – 2000

Nguồn: WB [199]

Tại Việt Nam, Đại hội Đảng lần thứ VII, năm 1991 đã thông qua Chiến

lược ổn định và phát triển KTXH đến năm 2000 với mục tiêu tổng quát là:

Ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình KTXH. Phấn đấu vượt qua

tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân,

củng cố quốc phòng và an ninh, tạo tiền đề cho đất nước phát triển

nhanh hơn vào đầu thế kỷ 21. Tổng sản phẩm trong nước đến năm

2000 gấp đôi năm 1990. [9]

Năm 1995, Mỹ đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với nước

ta và hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao sau nhiều năm thực hiện chính

sách cấm vận và bao vây kinh tế chống Việt Nam.

Tháng 7 năm 1995 Việt Nam và Liên minh Châu Âu đã ký Hiệp định

chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. Cũng trong tháng

7 năm 1995, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các nước

57

Đông Nam Á. Năm 1998, Việt Nam đã tham gia diễn đàn kinh tế các nước

Châu Á-Thái Bình Dương-APEC.

2.1.2 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2001 – 2010

Đầu năm 2008, cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới vào tháng 8/2008

khởi nguồn từ Mỹ, khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) buộc phải thi hành biện

pháp khẩn cấp nhằm cứu vãn các ngân hàng trước nguy cơ sụp đổ do các khoản

cho vay nợ thế chấp khó đòi. Khủng hoảng kinh tế làm cho các trung tâm kinh

tế thế giới như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản bước vào suy thoái trong năm 2009 và

nền kinh tế thế giới cũng chịu tác động. Các nước phát triển chịu hậu quả nặng

nề nhất từ cuộc khủng hoảng với sự sụt giảm nghiêm trọng của GDP thực tế.

Để chống chọi với khủng hoảng, các nước đã thực hiện hàng loạt các giải pháp

kích thích tiêu dùng, bơm vốn trực tiếp cứu các tập đoàn và các gói giải cứu

kinh tế khổng lồ trị giá hàng nghìn tỷ USD, kinh tế thế giới dù tiếp tục suy thoái

nhưng tốc độ suy giảm bắt đầu chậm lại. Tiếp theo đó, cuộc khủng hoảng nợ

công châu Âu bùng phát năm 2010 trở thành thách thức lớn nhất mà Liên minh

châu Âu phải đối mặt kể từ khi đồng Euro chính thức được sử dụng. Các cuộc

khủng hoảng lớn đã khiến cho nền kinh tế thế giới có những biến chuyển sâu

sắc và tác động xấu tới TTKT. Theo số liệu của WB riêng năm 2009, kinh tế

thế giới đạt mức tăng trưởng -1,31%/năm; Hoa Kỳ -2,54%; khu vực đồng Euro

- 4,52%; Nhật Bản -5,69%.

4,50% 4,44%

4,48%

4,49%

5,00%

3,16%

4,05%

2,00%

2,00% 2,34%

0,00%

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

-1,31%

-5,00%

Tốc độ tăng trưởng GDP

Thế giới

Hình 2.2. Tốc độ TTKT trung bình thế giới giai đoạn 2001 – 2010

Nguồn: WB [199]

58

Tại Việt Nam, mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là:

Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời

sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến

năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng

hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết

cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;

thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ

bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. [10]

Giai đoạn 2001 – 2010, hai cuộc khủng hoảng liên tiếp về kinh tế - tài

chính trên quy mô khu vực và toàn cầu – Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm

2008 và khủng hoảng nợ công Châu Âu năm 2010 – đã tác động tiêu cực đến

kinh tế Việt Nam.

Tháng 11 năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO. Sự kiện này đã kết thúc

hành trình 11 năm đàm phán công nhận Việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ

chức này, đánh dấu một mốc son mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam, Việt Nam đã có đủ năng lực hội nhập, lần đầu tiên tham gia một

sân chơi chung toàn cầu với 150 nước thành viên. Theo các hiệp định với WTO,

các cam kết được đưa vào và thực thi nhiều nhất chủ yếu liên quan đến việc cắt

giảm hàng rào thuế quan. Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong

WTO được thể hiện trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt Nam. Việt Nam

cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành gồm 10.600 dòng

thuế. Những cam kết về cắt giảm thuế quan của Việt Nam với WTO được thực

hiện theo lộ trình 12 năm, từ 2007 đến năm 2019.

Cũng trong năm 2006, Hoa Kỳ đã thông qua Quy chế Thương mại bình

thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam. Sự kiện này được ghi nhận là đòn

bẩy để thúc đẩy thị trường xuất khẩu của Việt Nam mở rộng trong những

năm sau đó.

59

Bước sang năm 2008 kinh tế Việt Nam gặp phải thách thức “kép”: lạm

phát tăng cao từ năm 2007 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã có

tác động xấu lên toàn bộ nền kinh tế.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, nền kinh tế trong nước cũng

gặp nhiều khó khăn, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ tư ngày 06 tháng 11 năm

2008 đã thông qua Nghị quyết số 23/2008/QH 12 về kế hoạch phát triển KTXH

năm 2009 với mục tiêu tổng quát là:

Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng

trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an

sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách

chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc

phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng

lợi kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2006 - 2010. [57]

Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những

giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì TTKT, bảo đảm

an sinh xã hội [19]. Theo đó, Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương

tổ chức triển khai thực hiện ba nhóm giải pháp chính như sau:

Thứ nhất, thúc đẩy mức độ sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu.

Thứ hai, thực hiện các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng.

Thứ ba, chính sách tài chính và tiền tệ.

Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về những giải

pháp chủ yếu, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển KTXH và dự

toán NSNN năm 2009 [20]. Các giải pháp bao gồm:

(a) Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển sản

xuất, kinh doanh, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn

đầu tư phát triển, ngăn chặn suy giảm kinh tế.

(b) Ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát.

60

(c) Thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân

dân, bảo vệ môi trường, triển khai mạnh mẽ các hoạt động xã hội hóa

trong giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.

(d) Tăng cường hoạt động đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế một

cách chủ động, nhằm nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,

bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.

(đ) Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường công tác

phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí.

(e) Tăng cường năng lực điều hành, tổ chức thực hiện.

Trước thực trạng khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế trong

nước, những phản ứng chính sách của Chính phủ là tương đối quyết liệt, linh

hoạt và kịp thời.

2.1.3 Thực trạng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2011 – 2020

Năm 2010, nền kinh tế thế giới sau khi bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng

đạt mức 4,49% đã nhanh chóng giảm sâu xuống còn 3,34% vào năm 2011. Đà

sụt giảm này tiếp tục kéo dài sang hai năm tiếp theo với mức tăng trưởng năm

2012 là 2,67% và năm 2013 là 2,84%. Sau đó, có dấu hiệu phục hồi trở lại với

mức tăng nhẹ đạt mức 3,12% vào năm 2014 và mức 3,17% vào năm 2015. Đến

năm 2016, tốc độ TTKT trung bình của thế giới giảm so với năm 2015, chỉ đạt

2,83%, nhưng đã tăng lên mức 3,39% vào năm 2017. Năm 2018, kinh tế toàn

cầu giảm so với năm 2017, đạt 3,27%. Năm 2019, kinh tế thế giới có sự sụt

giảm so với năm 2018, chỉ đạt 2,6%. Nguyên nhân chính phải kể đến là do

chiến tranh thương mại Mỹ - Trung làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu,

giảm lòng tin của giới đầu tư và kinh doanh, tạo ra những rào cản bất lợi cho

TTKT thế giới. Đến năm 2020, đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng khắp

toàn cầu đã khiến bức tranh kinh tế thế giới suy thoái trầm trọng. Theo số liệu

của WB năm 2020, tốc độ tăng trưởng toàn thế giới ở mức -3,29%; Hoa Kỳ -

61

3,40%; Nhật Bản -4,59%; khu vực đồng Euro -6,39%; tại khu vực Đông Nam

Á thì Indonesia -2,07%; Cambodia -3,15%; Singapore -5,39%; Malaysia -

5,65%; Thailand -6,10%; Philippines -9,57%.

3,34%

3,17%

3,39%

2,84%

2,60%

3,27%

3,12%

2,83%

2,67%

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

-3,29%

Tốc độ tăng trưởng GDP

Thế giới

Hình 2.3. Tốc độ TTKT trung bình thế giới giai đoạn 2011 – 2020

Nguồn: WB [199]

Tại Việt Nam, trước những bất ổn vĩ mô của nền kinh tế, ngày 24/2/2011,

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP về những giải pháp chủ

yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm ASXH. Bên

cạnh đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam

đã đặt ra nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển KTXH thời kỳ 2011 –

2015 là phải cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng

từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và

chiều sâu.

Quốc hội khóa 13 đã ban hành Nghị quyết số 10/2011/QH 13 về Kế hoạch

phát triển KTXH 5 năm 2011 – 2015 với các nhiệm vụ trọng tâm:

Thứ nhất, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo

hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh ở 3 lĩnh vực:

+ Tái cơ cấu đầu tư mà trong đó, đặt đầu tư công làm trọng tâm.

62

+ Tái cơ cấu thị trường tài chính, trong đó, lấy việc tái cơ cấu hệ thống

ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính làm trọng tâm.

+ Tái cơ cấu doanh nghiệp, trong đó, chú trọng vào các tập đoàn kinh tế,

tổng công ty nhà nước theo hướng nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp và

đảm bảo tính công khai, minh bạch.

Thứ hai, tiếp tục kiên trì kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định

giá trị sức mua đồng tiền.

Để thực hiện mục tiêu này nhà nước thực hiện 3 chính sách: Chính sách

tiền tệ với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát để bảo đảm

sự tương thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng dư nợ tín dụng với

tốc độ TTKT và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng. Chính sách tài khóa, thực

hiện cơ cấu lại thu, chi NSNN một cách có hiệu quả, đổi mới và nâng cao chất

lượng công tác lập dự toán NSNN. Chính sách xuất, nhập khẩu theo hướng

khuyến khích xuất khẩu nhưng phải có những biện pháp để kiềm chế nhập siêu.

Thứ ba, tập trung thực hiện 3 đột phá, 12 định hướng chiến lược phát triển

KTXH giai đoạn 2011-2020 bằng việc đổi mới thể chế kinh tế thị trường theo

định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Năm 2020, tại Việt Nam đã xảy ra 576 trận thiên tai, trong đó: 14 cơn bão,

2 áp thấp nhiệt đới; 264 trận dông, lốc, mưa đá bất thường; 132 trận lũ, lũ quét,

sạt lở đất; 90 trận động đất. Cùng với đó là hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm

trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long

[84]. Theo Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống

thiên tai, tính đến ngày 4/12/2020, thiên tai đã làm thiệt hại hơn 35 nghìn tỷ

đồng [76].

Nặng nề hơn, dịch bệnh Covid-19, năm 2020 đã xuất hiện tại Việt Nam.

Để vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã ban hành một loạt

các Chỉ thị, Nghị quyết và Quyết định như Chỉ thị số 11/2020/CT-TTg và Nghị

63

quyết số 84/2020/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp mang tính cấp bách nhằm

tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường giải ngân vốn

đầu tư công, bảo đảm trật tự, an toàn và an sinh xã hội trong đại dịch Covid-

19, Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg và Nghị quyết số 42/2020/NQ-CP về thực

hiện các chính sách và biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch

Covid-19. Những điều hành chỉ đạo của Chính phủ nhằm thực hiện hai mục

tiêu - vừa phòng chống dịch hiệu quả, vừa phục hồi, và thúc đẩy sản xuất trong

nước, giúp tạo ra sự đồng thuận cao của người dân, cộng đồng doanh nghiệp,

ổn định thị trường và ứng phó hiệu quả với đại dịch Covid-19.

2.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 – 2020

2.2.1 Thực trạng chính sách tài khóa ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020

2.2.1.1. Giai đoạn 1991 – 2000

❖ Chính sách thu ngân sách nhà nước

Đây là giai đoạn khi nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự định hướng

của Nhà nước đã được khẳng định, các Luật về thuế đã được ban hành và thực

thi. Năm 1990 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức ra đời. Năm 1991,

ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, có hiệu lực từ 01/03/1992. Năm

1993, ban hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế Doanh thu,

có hiệu lực từ 1/9/1993; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp có hiệu lực từ

1/1/1994. Năm 1994, Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực từ

1/7/1994. Về pháp lệnh, năm 1992 ban hành Pháp lệnh thuế nhà đất có hiệu lực

thi hành từ 1/10/1992. Năm 1996 bắt đầu có Luật NSNN, sử dụng các công cụ

thu, chi, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường. Năm 1998, Việt

Nam thực hiện các cam kết ASEAN về thuế.

64

Hình 2.1. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000

Nguồn: Bộ Tài chính [81][82]

Tổng số thu NSNN của Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020 tăng nhanh qua

các năm. Nếu năm 1991 với số thu được là 10.354 tỷ đồng thì đến năm 2000

đã lên tới 90.749 tỷ đồng, gấp 8,76 lần so với năm 1991.

Hình 2.2. Tỷ trọng số thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 1991 – 2000

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

65

Trong tổng thu NSNN, thu nội địa chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp theo đó

là thu từ xuất nhập khẩu. Khoản thu từ dầu thô có sự thay đổi qua các năm. Cụ

thể, thu từ dầu thô đạt cao nhất vào năm 2000, do sản lượng tăng và do giá tăng

so với năm 1999.

Bảng 2.1. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000

Đơn vị: %

Năm

Tổng thu /GDP

Thu nội địa/GDP

Thu từ dầu thô/GDP

Thu từ hoạt động XNK/ GDP

Thu từ viện trợ/GDP

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

13,50 19,02 22,96 23,82 23,32 22,93 20,84 19,56 19,63 20,55

9,18 12,43 14,02 14,61 14,16 14,12 12,87 12,07 10,72 10,47

2,53 3,84 3,64 2,86 2,65 2,69 2,82 2,38 3,12 5,33

1,43 1,98 4,56 5,61 5,80 5,55 4,32 4,52 5,20 4,29

0,35 0,77 0,73 0,74 0,71 0,57 0,82 0,59 0,59 0,46

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

Mức động viên NSNN so với GDP trung bình giai đoạn 1991 – 2000 đạt

20,89%, trong đó giai đoạn 5 năm từ 1991 – 1995 đạt 21,70%. Có được điều

này là do cải cách thuế bước 1 đã làm cho thuế có cơ sở pháp luật vững chắc,

áp dụng bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thay

thế hẳn hệ thống thu cũ. Các chính sách thuế bước đầu đã phát huy vai trò điều

tiết vĩ mô, tạo nguồn thu ngày càng cao cho NSNN.

❖ Chính sách chi ngân sách nhà nước

Việc kiểm soát chi NSNN một cách chặt chẽ trong thời kỳ 1991 – 1996

đã tác động tích cực đến việc kiềm chế lạm phát.

66

Bảng 2.2. Tỷ lệ số chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2000

Đơn vị: %

Năm

Tổng chi NSNN/GDP

Chi đầu tư phát triển/GDP

Chi trả nợ và viện trợ/GDP

Chi thường xuyên/GDP

3,54 7,37 8,45 5,70 5,86 6,06 6,21 5,68 7,43 6,71

1,78 2,35 4,17 4,80 4,34 3,94 2,97 2,94 3,40 3,00

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

15,87 22,01 29,31 27,89 27,38 25,93 24,89 22,71 24,00 23,90

10,55 12,29 16,69 17,39 17,18 15,94 15,71 14,09 13,17 14,19

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

Cơ cấu chi cụ thể như sau: Bảng 2.3. Tỷ trọng số chi NSNN thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 1991 – 2000

Đơn vị: %

Năm Tổng chi

Chi đầu tư phát triển

Chi trả nợ và viện trợ

Chi thường xuyên

100 100 100 100 100 100 100 100 100 100

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000

11,20 10,69 14,24 17,22 15,85 15,18 11,92 12,96 14,16 12,57

22,31 33,47 28,81 20,43 21,41 23,36 24,96 25,02 30,94 28,06

66,49 55,84 56,95 62,34 62,74 60,85 63,12 61,00 54,26 58,57

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

67

Trong chi thường xuyên thì chi sự nghiệp giáo dục- đào tạo tăng qua các năm từ 7,61 % tổng chi năm 1993 lên 12,01% tổng chi trong năm 2000, trong khí đó chi cho quản lý nhà nước giảm dần, từ 10,60% tổng chi năm 1991 xuống còn 7,66% tổng chi NSNN trong năm 2000.

Hình 2.3. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 1991 – 2000

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

2.2.1.2. Giai đoạn 2001 – 2010

❖ Chính sách thu ngân sách nhà nước

Nhà nước ban hành Luật NSNN năm 2002 có tính đổi mới hơn, triệt để

hơn, cho phép Nhà nước thực hiện CSTK có căn cứ pháp luật đầy đủ hơn, quy

trình chặt chẽ hơn.

Năm 2003, các chính sách đổi mới thuế cụ thể được ban hành như: Nghị

định số 164/2003/NĐ-CP năm 2003 quy định thuế TNDN được áp dụng thống

nhất cho các doanh nghiệp với mức thuế suất 28%; Nghị định số 158/2003/NĐ-

CP năm 2003 bổ sung một số hàng hóa, dịch vụ vào diện chịu thuế GTGT, áp

dụng thuế GTGT ở 3 mức thuế suất 0%, 5% và 10%, bãi bỏ các chế độ ưu đãi

qua thuế GTGT để tăng tính trung lập và nâng cao tính hiệu quả.

68

Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ kí Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg,

tiến hành cải cách thuế để khuyến khích đầu tư trên cơ sở vẫn đảm bảo thu

NSNN, thông qua việc giảm thuế suất, đơn giản hóa hệ thống thuế và mở

rộng đối tượng chịu thuế.

Năm 2009, công bố gói kích cầu bằng việc miễn giảm thuế trị giá 28.000

tỷ đồng cho các đối tượng: (1) Giảm 30% thuế TNDN phải nộp của quý 4 năm

2008 và năm 2009 cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp dệt may,

da giày. (2) Gia hạn nộp thuế TNDN 9 tháng đối với các ngành nghề như sản

xuất tư liệu sản xuất, vật liệu xây dựng, kinh doanh lương thực, phân bón. (3)

Giảm 50% thuế GTGT đối với một số sản phẩm đầu vào và tiêu dùng quan

trọng. (4) Miễn thuế TNCN 6 tháng đầu năm và cả năm 2009 đối với những

ngành nghề nhất định. (5) Gia hạn chậm nộp thuế nhập khẩu lên 180 ngày. (6)

Giảm 50% lệ phí trước bạ cho một số đối tượng chịu thuế

Hình 2.4. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

Nguồn: Bộ Tài chính [81][82]

Trong giai đoạn này, tổng số thu NSNN có sự tăng liên tục qua các năm,

với tổng số thu năm 2010 gấp 5,67 lần so với năm 2001.

69

Hình 2.5. Tỷ trọng thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt Nam

giai đoạn 2001 – 2010

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

Từ giữa năm 2004, giá dầu thô trên thế giới tăng lên do những căng thẳng

địa chính trị trên toàn cầu. Cuộc tấn công vào các khu sản xuất dầu của Iraq,

tình trạng bất ổn xã hội tại 2 nước sản xuất dầu lớn trên thế giới là Nigeria và

Venezuela, những bất ổn gia tăng ở Trung Đông và những thiệt hại sau khi cơn

bão Katrina đổ bộ vào các cơ sở lọc dầu ở Vịnh Mexico đã gây ra cú sốc dầu

lửa cho thị trường năng lượng thế giới. Sự tăng lên về giá xuất khẩu giúp cho

khoản thu từ dầu thô tăng nhanh chóng, tới năm 2005 đạt tỷ trọng 29,16%, năm

2006 đạt 29,82% trong tổng thu NSNN.

Năm 2007, khối lượng dầu thô trong nước có sự sụt giảm do các mỏ dầu

cũ cạn kiệt dần, trong khi công tác thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các

nước khác không đạt nhiều tiến triển. Trữ lượng các mỏ dầu tại Việt Nam phải

cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy lọc dầu, hoạt động kinh doanh điều

chỉnh sang hướng cắt giảm xuất khẩu. Từ cuối năm 2008, sự suy giảm thương

mại toàn cầu bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ khiến cho giá dầu thế

70

giới sụt giảm mạnh. Những ảnh hưởng trên đã làm cho thu NSNN từ dầu giảm

dần qua các năm, tỷ trọng năm 2010 giảm 18,06% so với năm 2006

Tháng 11/2006, Việt Nam được chính thức công nhận là thành viên

thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), giúp mở rộng thị trường,

hạ thấp các rào cản thương mại. Tuy việc gia nhập WTO khiến Việt Nam

phải thực hiện cắt giảm thuế quan nhưng do tổng kim ngạch xuất khẩu tăng rất

nhanh nên số thu thuế từ hoạt động xuất - nhập khẩu vẫn tăng trưởng khá

nhanh, từ 15,32% năm 2006 lên 18,38% năm 2007 và 23,23% năm 2009.

Bảng 2.4. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

Đơn vị: %

Tổng thu/GDP

Thu nội

Thu từ dầu

Thu từ hoạt động

Thu từ viện

Năm

địa/GDP

thô/GDP

XNK/ GDP

trợ/GDP

21,58

10,93

5,46

4,77

0,42

2001

22,72

11,46

4,95

5,89

0,42

2002

24,82

12,83

5,99

5,52

0,48

2003

26,69

14,62

6,79

4,88

0,40

2004

24,98

13,11

7,28

4,17

0,41

2005

26,33

13,70

7,85

4,03

0,74

2006

26,30

14,68

6,31

4,83

0,48

2007

26,64

14,86

5,54

5,66

0,58

2008

25,14

15,48

3,38

5,84

0,44

2009

27,27

17,47

3,21

6,04

0,55

2010

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82], Tổng cục Thống kê [84]

Tỷ lệ thu nội địa trên GDP và tỷ lệ thu từ hoạt động XNK trên GDP tăng

qua các năm. Trong khi đó tỷ lệ thu từ viện trợ trên GDP không dao động nhiều

ở mức từ 0,41% đến 0,58% và riêng năm 2006 đạt tỷ lệ cao nhất là 0,74%.

❖ Chính sách chi ngân sách nhà nước

Cùng với xu hướng chung của thế giới, Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp điều hành quyết liệt nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định nền kinh

71

tế vĩ mô, và định hướng theo tăng trưởng bền vững. Một trong những giải pháp chủ yếu của giai đoạn này là CSTK nới lỏng với các gói kích cầu. Cụ thể:

Năm 2006 và năm 2007: Thực hiện CSTK mở rộng khiến chi đầu tư từ NSNN gia tăng khá mạnh mẽ (thông qua các chương trình kích cầu từ nguồn vốn ngân sách và phát hành trái phiếu chính phủ).

Năm 2008 và năm 2009: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái, nền kinh tế trong nước cũng gặp nhiều khó khăn và chịu ảnh hưởng sâu sắc. Với hiện trạng quy mô nền kinh tế nhỏ và xuất phát điểm thấp, nhưng đã hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới trên tất cả các cấp độ, kèm theo đó, trong năm 2008 và 2009, thiên tai, dịch bệnh lại liên tiếp xảy ra với cường độ và mức độ lớn. Cuộc sống người dân gặp nhiều khó khăn, thất nghiệp nhiều hơn. Nền kinh tế yếu đi, các doanh nghiệp bị suy kiệt. Một số doanh nghiệp bị phá sản, số còn lại liên tục gặp khó khăn. Chính phủ đã huy động mọi lực lượng chống suy thoái và tuyên bố chi 1 tỷ USD hỗ trợ nền kinh tế. Cộng với các khoản hỗ trợ vốn vay ưu đãi, giảm thuế, tổng gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng dự kiến lên tới 6 tỷ USD.

Nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng bền vững và thực thi chính sách an sinh xã hội tại Nghị quyết số 10/2008/NĐ-CP ngày 17/4/2008, Chính phủ Việt Nam đã thực hiện quyết liệt các nhóm giải pháp là (i) rà soát lại chi NSNN, (ii) không tăng chi ngoài dự toán, (iii) dành nguồn kinh phí cho bảo đảm an sinh xã hội, (iv) xem xét điều chỉnh giảm mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bình ổn thị trường, (v) thực hiện các giải pháp hạn chế nhập siêu, (vi) yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cắt giảm, đình hoãn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án đầu tư không có hiệu quả. Các biện pháp này của Chính phủ đã phát huy hiệu quả bước đầu, theo đó kinh tế Việt Nam đã có những kết quả tích cực.

Đáng chú ý, các gói kích cầu là một phần của CSTK mở rộng được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỷ đồng (Gói 1) và khoảng 8 tỷ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất (Gói 2). Thông qua đó, Chính phủ dành sự ưu tiên cho ổn định kinh tế vĩ mô và tạo việc làm, thể hiện vai trò chủ đạo của Chính phủ trong điều hành kinh tế.

72

Kết quả là kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ TTKT năm 2009 đạt 5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008) nhờ thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các CSTK và các chính sách vĩ mô khác. Năm 2010, kinh tế Việt Nam đã hạn chế được đà suy thoái nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Trong đó, đáng chú ý là lạm phát cao quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường trong các năm 2008 – 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi TTKT. Năm 2010 CSTK được thực hiện theo hướng chủ động, linh hoạt, nhưng thận trọng hơn so với năm 2009 nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát nhập siêu và ngăn chặn lạm phát ở mức cao.

Bảng 2.5. Tỷ lệ số chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

Đơn vị: %

Tổng chi

Chi đầu tư phát

Chi trả nợ và

Chi thường

Năm

NSNN/GDP

triển/GDP

viện trợ/GDP

xuyên/GDP

26,52

8,36

3,10

15,05

2001

26,83

8,44

3,70

14,69

2002

29,54

9,72

4,15

15,67

2003

29,94

9,24

4,79

15,91

2004

28,74

8,67

4,42

15,66

2005

29,02

8,32

4,54

16,16

2006

32,03

8,37

4,63

19,04

2007

28,02

7,39

3,61

17,01

2008

31,02

10,02

4,11

16,89

2009

30,47

8,49

4,11

17,87

2010

Nguồn: Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính [81][82], Tổng cục Thống kê [84]

Giai đoạn 2001-2005, theo Kế hoạch phát triển KTXH giai đoạn 2001 –

2005, Tổng chi NSNN 5 năm dự kiến là 720 – 750 nghìn tỷ đồng, trong đó dự

kiến chi đầu tư phát triển chiếm 25 – 26%; chi thường xuyên chiếm 57 – 58%;

chi trả nợ trong, ngoài nước chiếm 17 – 18% tổng chi NSNN. Thực tế, tổng chi

NSNN là 929,45 tỷ đồng, mà trong đó, chi đầu tư phát triển qua các năm đều

trên 30%; chi thường xuyên chiếm trên 53% đến trên 56%. Chi đầu tư phát triển

73

cao hơn dự kiến thể hiện quyết tâm của Chính phủ với việc thực hiện mục tiêu

tăng trưởng cao trong giai đoạn này. Về chi thường xuyên, Quyết định số

139/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc khám, chữa bệnh cho

người nghèo đã đưa đến kết quả là tăng diện được bảo hiểm y tế. Năm 2003,

những thách thức mới về y tế xuất hiện với dịch cúm SARS và dịch cúm gia

cầm, khiến chi NSNN cho lĩnh vực y tế tăng nhanh.

Giai đoạn 2006 – 2010, Chính phủ đã liên tục thay đổi các mục tiêu ưu

tiên nhằm kiềm chế lạm phát, ngăn chặn sự tiếp diễn của suy giảm kinh tế. Chi

NSNN được cơ cấu phù hợp với chủ trương phát triển nhanh, bền vững; tập

trung mở rộng và nâng cao chất lượng hệ thống ASXH và điều hành vĩ mô,

thông qua triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách gồm: (i) Nhóm các chính

sách hỗ trợ, đầu tư trực tiếp xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ vùng khó khăn, (ii)

Thực hiện cải cách lương và (iii) Chuyển từ chi ĐTPT sang chi cho con người.

Giai đoạn 2006-2010, tỷ trọng chi ĐTPT giảm so với giai đoạn 2001-2005.

Ngược lại, tỷ trọng chi thường xuyên có xu hướng tăng lên. Từ 2006 – 2010,

chi NSNN vào các Chương trình mục tiêu quốc gia tăng 22.254 tỷ đồng so với

giai đoạn 2001 – 2005, trong đó tổng chi cho Chương trình xóa đói giảm nghèo

và việc làm khoảng 4.122 tỷ đồng; chi cho Chương trình phát triển KTXH các

xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (Chương trình 135)

tăng 6.075 tỷ đồng, chủ yếu dành cho phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó,

trong vòng 5 năm, lương cơ sở được điều chỉnh 4 lần, từ mức 350 nghìn

đồng/tháng năm 2005 lên 730 nghìn đồng/tháng năm 2010, tương ứng tăng 2,08

lần.

Cả giai đoạn 10 năm, trong chi thường xuyên thì chi sự nghiệp giáo dục –

đào tạo tăng nhẹ từ mức 11% đến 12,63%, chi sự nghiệp kinh tế dao động từ

4% đến 6%, chi đảm bảo xã hội tăng nhiều, với mức thấp nhất 6,76% và cao

nhất 10,90% tổng chi NSNN.

74

Hình 2.6. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2001 – 2010

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

2.2.1.3. Giai đoạn 2011 – 2020

❖ Chính sách thu ngân sách nhà nước

Để nâng cao chất lượng quản lý thu, ngăn thất thu và nợ đọng thuế, Chỉ

thị số 01/CT-BTC ngày 16/3/2012 đưa ra một loạt các biện pháp như đẩy mạnh

các công tác kiểm tra, thanh tra, chống buôn lậu và gian lận thương mại. Ngành

Thuế và Hải quan tổ chức đánh giá công tác hoàn thuế thực tế tại một số địa

phương trọng điểm, tổ chức thực hiện đánh giá chuyên đề về thu, quản lý và sử

dụng phí, lệ phí để kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm, gian

lận, trốn lậu thuế. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước ban hành Luật Đầu tư

công (2014), Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh

doanh tại doanh nghiệp (2014), Luật NSNN (2015), Luật phí, lệ phí (2015).

Nhà nước đã thực hiện điều chỉnh chính sách thu theo hướng tăng cường

tiềm lực tài chính cho doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh,

bằng cách miễn/giảm các nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và cá nhân. Cụ thể:

(i) mức thuế suất phổ thông của thuế TNDN đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

75

giảm từ 25% xuống 22% từ ngày 01/01/2014, tiếp tục giảm xuống mức 20% từ

ngày 01/01/2016, và áp dụng cố định mức 20% từ ngày 01/7/2013; (ii) đối với

thuế TNCN, mức khởi điểm chịu thuế cho bản thân được nâng từ 4 triệu

đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng, mức khấu trừ gia cảnh cho người phụ thuộc

được nâng từ mức 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng; (iii) Thực hiện

miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp, miễn thu thuỷ lợi phí… Những giải

pháp miễn, giảm, gia hạn thuế này được thực hiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp

vượt qua giai đoạn khó khăn và phát triển sản xuất kinh doanh.

Đặc biệt trước diễn biến phức tạp và tác động nghiêm trọng của dịch

Covid-19 trong năm 2020, để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân giảm bớt khó

khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh, và tái khởi động nền kinh tế,

nhiều giải pháp thu NSNN được đề xuất và thực hiện, cụ thể:

Miễn một số loại thuế, phí như: miễn thuế nhập khẩu đối với các loại vật

tư và thiết bị y tế phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19, miễn thuế nhập

khẩu các vật tư, nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp ngành da giày, dệt

may, chế biến nông, lâm, thủy sản, cơ khí, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp ô

tô, thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn kéo dài đến hết năm 2025; đối với

hộ gia đình, cá nhân, nhóm cá nhân lần đầu tham gia hoạt động sản xuất, kinh

doanh trong năm đầu; doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển từ hộ kinh doanh được

miễn lệ phí môn bài.

Hỗ trợ người dân thông qua việc rà soát, cắt giảm một số loại thuế, phí

như nâng mức giảm trừ gia cảnh của thuế TNCN cho người nộp thuế và người

phụ thuộc. Đồng thời, Nghị định về việc giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô

sản xuất hoặc lắp ráp trong nước đến hết năm 2020 được ban hành nhằm tháo

gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước; Giảm 30%

số thuế TNDN phải nộp năm 2020 cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự

nghiệp và tổ chức khác có tổng doanh thu chịu thuế năm 2020 không quá 200

tỷ đồng. Bên cạnh đó, điều chỉnh giảm 30% mức thuế bảo vệ môi trường đối

với nhiên liệu bay từ tháng 8/2020 đến hết năm 2020, và tiếp tục điều chỉnh

76

giảm 30% lần thứ hai đến hết năm 2021, nhằm kịp thời hỗ trợ ngành hàng

không giải quyết khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Ngoài các ưu đãi

về chính sách thuế, phí, Nhà nước còn giảm 15% tiền thuê đất trong năm 2020

cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân bị tác động bởi Covid-19.

Tiếp tục tháo gỡ khó khăn, giúp các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá

nhân chịu tác động của dịch Covid-19 có thêm nguồn lực tài chính để khôi phục

và duy trì sản xuất thông qua việc gia hạn thời hạn nộp thuế và các khoản thu

ngân sách như thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN và tiền thuê đất năm 2020.

Ngoài ra, nhằm kích thích cả sản xuất và tiêu dùng trong nước, gia hạn thời hạn

nộp thuế TTĐB đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước tới hết năm 2020.

Như vậy, dựa trên những chính sách mới ban hành trong năm 2020, tổng

số tiền thu ngân sách được gia hạn/miễn/giảm đạt khoảng 129 nghìn tỷ đồng,

trong đó, số tiền thuế và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 97,5 nghìn tỷ đồng,

số tiền thuế, phí, lệ phí được miễn giảm hơn 31,5 nghìn tỷ đồng.[25]

Nguồn: Bộ Tài chính [81][82]

Hình 2.7. Tổng thu NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Giai đoạn này, tổng số thu NSNN năm 2020 giảm so với năm 2019,

nhưng gấp 2,09 lần so với năm 2011.

77

Hình 2.8. Tỷ trọng số thu các thành phần trong tổng thu NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

Tỷ trọng thu ngân sách nội địa trong tổng thu NSNN ngày càng tăng, cao

nhất trong các thành phần của tổng thu NSNN, đặc biệt từ năm 2016 đến 2020

đều đạt trên 80%. Trong khi đó, tỷ trọng thu từ dầu thô và thu từ viện trợ trên

tổng thu NSNN có xu hướng ngày càng giảm dần.

Năm 2020, tuy chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 và

những diễn biến thất thường của thiên tai, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, nhưng

nhờ các giải pháp CSTK được triển khai có hiệu quả và sự phối hợp chặt chẽ

giữa cơ quan Thuế, Hải quan với các lực lượng chức năng, tập trung làm tốt

các giải pháp thu ngân sách gắn với mục tiêu giải quyết khó khăn trong sản

xuất kinh doanh, đi đôi với tăng cường kiểm tra giám sát, giảm thiểu việc trục

lợi chính sách; đẩy mạnh công tác chống thất thu, chuyển giá, buôn lậu, gian

lận thương mại, trốn thuế; thanh tra, kiểm tra và xử lý thu hồi nợ đọng thuế, các

khoản phải thu vào NSNN theo kết luận của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà

nước đã được đôn đốc thu đầy đủ và kịp thời.

Công tác hoàn thuế GTGT năm 2020 được kiểm soát chặt chẽ theo đúng

quy định của pháp luật, đối tượng và thực tế phát sinh, không gây khó khăn,

78

phiền hà cho doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý đã thực hiện tốt công tác giám

sát hoàn thuế tập trung, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý

hoàn thuế, kết hợp với tăng cường thanh kiểm tra sau hoàn thuế, phát hiện và

xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm.

Kết quả thực hiện thu NSNN cả năm 2020 đạt 1.507,845 nghìn tỷ đồng,

bằng 99,71% so dự toán, giảm 2,79% so với thực hiện năm 2019; tỷ lệ động

viên thu NSNN đạt 23,96% GDP.

Bảng 2.6. Tỷ lệ số thu NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Đơn vị: %

Năm

Thu nội địa/GDP

Thu từ dầu thô/GDP

Thu từ hoạt động XNK/ GDP

Thu từ viện trợ/GDP

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Thu ngân sách/GDP 25,97 22,64 23,11 22,29 23,81 24,59 25,84 25,83 25,69 23,96

15,96 14,70 15,83 15,07 17,88 19,69 20,76 20,84 21,10 20,51

5,60 3,31 3,61 4,39 4,04 3,82 3,94 3,65 3,55 2,82

3,96 4,32 3,36 2,54 1,61 0,89 0,99 1,19 0,93 0,55

0,44 0,32 0,31 0,28 0,28 0,19 0,15 0,14 0,11 0,08 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82], Tổng cục Thống kê [84]

Tỷ lệ thu nội địa trên GDP có xu hướng tăng dần trong khi tỷ lệ thu từ dầu

thô/GDP và Tỷ lệ thu từ viện trợ/GDP có xu hướng giảm dần. Đây là xu hướng

tốt, chứng tỏ thu NSNN giảm sự lệ thuộc vào những khoản thu kém bền vững.

Năm 2020, tỷ lệ thu từ xuất nhập khẩu ròng trên GDP giảm xuống thấp nhất

trong cả giai đoạn, chủ yếu do dịch Covid-19. Các nền kinh tế lớn (Mỹ, Trung

Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc) cũng chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh và

các biện pháp giãn cách xã hội, dẫn đến TTKT suy giảm, kéo theo sự sụt giảm

về cầu nhập khẩu, trong đó có hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam.

79

Năm 2020, IMF đánh giá cao sự thành công của Việt Nam trong kiểm soát

đại dịch Covid-19 với những điều chỉnh linh hoạt và kịp thời về chính sách

công, trong đó có CSTK. Gói hỗ trợ ban đầu khoảng 4,1% GDP thông qua các

biện pháp gia hạn thời gian nộp thuế, tiền thuê đất và đóng bảo hiểm xã hội đã

tập trung hỗ trợ doanh nghiệp và những đối tượng dễ bị tổn thương, bao gồm

các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình và cá thể kinh doanh, lao động bán

thời gian, lao động tự do, lao động phi chính thức, người nghèo và cận nghèo...

❖ Chính sách chi ngân sách nhà nước

Tình hình chi NSNN tại Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 được thể hiện ở

bảng 2.7 dưới đây.

Bảng 2.7. Tỷ lệ chi NSNN trên GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Đơn vị: %

Năm

Tổng chi NSNN /GDP

Chi đầu tư phát triển/GDP

Chi trả nợ và viện trợ/GDP

Chi thường xuyên/ GDP

28,33 30,15 30,36 28,04 30,44 28,83 27,07 25,90 28,95 28,41

4,03 3,26 3,13 3,35 4,01 3,90 1,98 1,95 1,79 1,71

7,49 8,28 7,58 6,31 7,37 6,58 7,45 7,10 7,26 8,74

16,81 18,61 19,65 18,38 19,07 18,35 17,64 16,85 19,90 17,97

2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 Nguồn: Tính toán từ số liệu Bộ Tài chính [81][82], Tổng cục Thống kê [84]

Năm 2011, nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng lạm phát cao, do đó,

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP/2011 về những giải pháp chủ

yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

80

CSTK giai đoạn này được thực hiện theo hướng thắt chặt thông qua các

biện pháp: cắt giảm đầu tư, tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng

còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản

có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi

thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm).

Mặc dù phối hợp CSTK – CSTT được tăng cường nhằm ứng phó với lạm

phát, tuy nhiên, trong giai đoạn này, tốc độ lạm phát vẫn ở mức khá cao, đồng

thời tác động của CSTK – CSTT nới lỏng đã làm giảm tốc độ TTKT. Tốc độ

tăng GDP đã giảm từ mức 6,24% của năm 2011 xuống còn 5,25% vào năm

2012 trong khi một số lĩnh vực sản xuất có dấu hiệu suy giảm, tăng chậm lại và

có nguy cơ nền kinh tế rơi vào thiểu phát. Thực tế này đã buộc CSTK – CSTT

chuyển sang hướng ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp trong các năm tiếp theo

CSTK thắt chặt còn được thể hiện ở việc Chính phủ ban hành Chỉ thị số

1792/CT-TTg, ngày 15/10/2011 về tăng mức độ quản lý các khoản đầu tư sử

dụng vốn NSNN và trái phiếu Chính phủ. Việc ban hành chỉ thị nói trên đã hạn

chế được sự phân cấp quá rộng trong khi thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ

dẫn tới tình trạng số lượng dự án được duyệt vượt quá khả năng cân đối nguồn

vốn từ NSNN và trái phiếu Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu

tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán và lãng phí nguồn

lực của Nhà nước. Trong khi đó, thời gian tới vốn NSNN rất hạn hẹp, vốn trái

phiếu Chính phủ không thể phát hành tăng thêm so với năm 2011 nhằm thực

hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, giảm dần bội chi ngân sách, bảo đảm an ninh

tài chính quốc gia, duy trì nợ công ở mức cho phép.

Năm 2012, Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 03/01/2012 được Chính phủ đã

ban hành để ứng phó với tốc độ tăng trưởng thấp và dấu hiệu suy giảm kinh tế

đầu năm 2012, đưa ra những giải pháp chủ yếu cho việc chỉ đạo, điều hành kế

81

hoạch phát triển KTXH và dự toán NSNN năm 2012, trong đó bao gồm: (i) Tập

trung kiềm chế tỷ lệ lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, trong đó, chú ý thực

hiện CSTT thắt chặt, thận trọng, kết hợp một cách linh hoạt, chặt chẽ và hiệu

quả với CSTK; (ii) Tăng cường kiểm soát giá cả, tổ chức và quản lý tốt thị

trường trong nước, khuyến khích xuất khẩu đi đôi với kiểm soát nhập khẩu, hạn

chế nhập siêu.

Nghị quyết 01/NQ-CP đã giúp kiềm chế lạm phát ở mức thấp; các biến số

kinh tế vĩ mô cơ bản được duy trì ổn định; đảm bảo an sinh xã hội, nền kinh tế

bước đầu đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh

doanh còn vướng nhiều khó khăn, sức mua của thị trường giảm, tốc độ tăng

trưởng của nền kinh tế thấp hơn so với cùng kỳ năm 2011. Do đó, Chính phủ

tiếp tục ban hành Nghị quyết số 13 ngày 10/5/2012, đề ra một số giải pháp giúp

tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, và tiếp tục thực

hiện CSTK - CSTT theo hướng thận trọng.

Chính sách chi NSNN được điều hành chặt chẽ, các nguồn lực được phân

bổ tiết kiệm, có hiệu quả, và kiểm soát chặt chẽ; đồng thời, quá trình tái cơ cấu

đầu tư công đã có kết quả khả quan theo định hướng đề ra. Tổng chi NSNN

trên GDP năm 2011 là 28,33%, năm 2016 là 28,83%, với cơ cấu chuyển dịch

theo hướng tăng chi cho con người. Chẳng hạn, tỷ trọng chi đầu tư trong tổng

chi NSNN đã giảm từ 27,85% năm 2010 xuống còn 22,51% năm 2014, trong

khi tỷ trọng chi thường xuyên năm 2011 là 59,34%, đến năm 2019 là 68,74%,

và năm 2020 là 63,24%. Trong đó, chi NSNN được ưu tiên bố trí cho thực hiện

cải cách tiền lương, chính sách an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo, nhất là

khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn, miền núi,

vùng sâu, vùng xa...

Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, ngày 07/01/2013 đã đưa ra một

số giải pháp chủ yếu trong chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển KTXH và dự

82

toán NSNN năm 2013, nêu rõ việc thực hiện CSTK chặt chẽ và triệt để tiết

kiệm trong năm 2013.

Giai đoạn 2011 – 2015, CSTK đã được điều hành theo hướng thắt chặt chi

tiêu, các khoản chi được sắp xếp lại, tái cấu trúc đầu tư công. Nhìn chung trong

bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, chi thường xuyên tăng nhưng được

kiểm soát theo hướng chỉ tăng quy mô các khoản chi, nhất là chi cho an sinh xã

hội, không tăng chi cho các chính sách.

Để tái cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, nhiều giải

pháp đã được triển khai, đặc biệt Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02

năm 2011 với những giải pháp tập trung vào việc kiềm chế tỷ lệ lạm phát, ổn

định các biến số vĩ mô và an sinh xã hội, Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày

15/10/2011 về tăng cường quản lý nguồn vốn đầu tư từ NSNN và trái phiếu

Chính phủ (TPCP)… nhờ đó, tốc độ tăng chi đầu tư từ NSNN giảm mạnh (từ

29% năm 2012, giảm đi 20% trong năm 2013, và giảm thêm 21% trong năm

2014, riêng năm 2015, dự toán tăng 15% so với ước thực hiện năm 2014).

Kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2016 – 2020 đặt ra tăng

tỷ trọng chi đầu tư phát triển chiếm bình quân khoảng 25 – 26%; giảm tỷ trọng

chi thường xuyên xuống dưới 64% tổng chi NSNN.

Trong giai đoạn này, Nhà nước đẩy mạnh thực hiện các chính sách tinh

giản biên chế, cắt giảm chi trả tiền lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức với Nghị quyết số 39-NQ/TW năm 2015 Bộ Chính trị, Quyết định số

1998/QĐ-TTg năm 2016, Quyết định số 1016/QĐ-TTg năm 2018 của Thủ

tướng Chính phủ, và Nghị định số 113/2018/NĐ-CP năm 2018 của Chính phủ.

Mặc dù vậy, số chi thường xuyên của ngân sách có thể tiếp tục tăng lên sau khi

thực hiện Nghị định số 38/2019/NĐ-CP năm 2019 của Chính phủ, tăng mức

lương cơ sở của cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang từ

1.390.000 đồng/tháng lên 1.490.000 đồng/tháng.

83

Chính sách chi NSNN được thực hiện một cách tiết kiệm, chặt chẽ, đảm

bảo nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch bệnh, an sinh xã hội và thúc đẩy

giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công cho TTKT, bao gồm các

nhóm chính sách sau:

Chính sách phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực được tổ chức triển khai

một cách linh hoạt, chặt chẽ, tiết kiệm. Cụ thể, cắt giảm kinh phí hội nghị, công

tác phí trong và ngoài nước, đồng thời tiết kiệm chi thường xuyên bổ sung

nguồn, phòng chống dịch Covid-19; đồng thời tạm hoãn việc điều chỉnh mức

lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lương

hưu nhằm chia sẻ khó khăn với nhà nước và người lao động.

Ưu tiên phân bổ NSNN cho hỗ trợ phòng, chống dịch bệnh, an sinh xã hội.

NSNN thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với cơ sở y tế, hỗ trợ người dân, hỗ

trợ công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ tham gia phòng chống cách ly dịch

bệnh. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ người dân, người lao động, chủ sở hữu

lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19 được thực hiện ở cả cấp NSTƯ và

NSĐP.

Đẩy mạnh giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, hỗ trợ

tăng trưởng kinh tế. Ngay từ năm 2020, nhiệm vụ thúc đẩy giải ngân vốn đầu

tư công đã được coi là nhiệm vụ quan trọng cấp bách cho mục tiêu phục hồi

nền kinh tế. Ngoài ra, Chính phủ cũng đã ban hành các giải pháp về cắt giảm

chi phí khác như giảm tiền điện, giảm giá nước sinh hoạt, cước viễn thông và

lùi thời điểm đóng kinh phí công đoàn.

84

Hình 2.9. Tỷ trọng số chi các thành phần trong tổng chi NSNN ở Việt

Nam giai đoạn 2011 – 2020

Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính [81][82]

Nhìn chung trong cả giai đoạn 2011 – 2020, tỷ trọng chi thường xuyên

chiếm cao nhất, từ hơn 59% đến hơn 68% tổng chi NSNN. Tỷ trọng chi đầu tư

phát triển từ hơn 22% đến gần 31% ; tỷ trọng chi trả nợ và viện trợ dao động từ

6% đến hơn 14% tổng chi NSNN

2.2.2 Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1991 –

2020

2.2.2.1. Giai đoạn 1991 – 2000

Hình 2.10. GDP theo giá thực tế và tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai

đoạn 1991 – 2000

Nguồn: GSO [84] và WB [199]

85

Từ năm 1991 đến năm 2000, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng liên tục qua các năm. Giai đoạn 1991 – 1995, GDP tăng bình quân hằng năm 8,21% (kế hoạch là 5,5% – 6,5%). Giai đoạn 1996 – 2000 là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.

Bảng 2.8. GDP theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế ở Việt Nam giai

đoạn 1991 – 2000

Đơn vị: %

Nông, lâm nghiệp và

Công nghiệp và

Năm

Tổng số

thuỷ sản

xây dựng

Dịch vụ

1991

100

40,49

23,79

35,72

1992

100

33,94

27,26

38,8

1993

100

29,87

28,9

41,23

1994

100

27,43

28,87

43,7

1995

100

27,18

28,76

44,06

1996

100

27,76

29,73

42,51

1997

100

25,77

32,08

42,15

1998

100

25,78

32,49

41,73

1999

100

25,43

34,5

40,07

2000

100

24,53

36,73

38,74

Nguồn: GSO [84]

Mặc dù cùng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 – 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, đã kéo tốc độ tăng trưởng năm 1998 xuống còn 5,76% và năm 1999 là 4,77%, thấp nhất trong cả giai đoạn, nhưng không bị đảo lộn như các nền kinh tế khác, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 – 2000 đạt 6,96%. Nếu tính cả giai đoạn 1991 – 2000 thì GDP có tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,59%.

Đến năm 2000, GDP theo giá so sánh 2010 là 1.106.020 tỷ đồng; gấp 1,96 lần năm 1991 và gấp 2,07 lần năm 1990, vượt mục tiêu đề ra cho Chiến lược ổn định và phát triển KTXH 1991- 2000 là GDP gấp 2 lần. Đây có thể nói là thành tựu của chính sách chuyển đổi cơ chế kinh tế mạnh mẽ, sự chấp nhận đối

86

với thành phần kinh tế tư nhân. Các đơn vị kinh tế cơ sở đã dần dần thích nghi được với cơ chế quản lý mới, từ đó trở nên hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, cùng với CSTK thận trọng, lạm phát trở về trong tầm kiểm soát, môi trường vĩ mô ổn định tạo điều kiện cho hoạt động SXKD, tạo đà cho TTKT.

Cơ cấu GDP của Việt Nam có sự gia tăng tỷ trọng sản lượng trong các ngành công nghiệp và xây dựng và ngành dịch vụ, phù hợp với mục tiêu CNH- HĐH của nước ta. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người vẫn còn rất thấp so với một số nước xung quanh. Trong 10 nước ASEAN thì năm 1995, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 276,81 USD, xếp thứ 9, chỉ trên Myanmar. Đến năm 2000, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 390,09 USD, đứng vị trí thứ 7, chỉ cao hơn Lào (325,19 USD) Campuchia (300,61 USD) và Myanmar (146,60 USD).

Bảng 2.9. GDP bình quân đầu người của các nước ASEAN giai đoạn

1995 – 2000

Đơn vị: USD

Nước

Brunei

Năm 1995 Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 16.660,15

12.694,15

16.793,39

18.012,50

15.933,45

14.101,17

Cambodia

322,93

268,99

295,90

300,61

Indonesia

1.026,39

319,29 1.137,41

304,76 1.063,71

463,95

671,10

780,19

Lao PDR

363,88

277,81

Malaysia

4.329,71

378,43 4.798,61

345,92 4.637,87

248,84 3.263,33

325,19 4.043,66

3.492,67

Myanmar

111,14

101,14

122,21

Philippines

1.212,94

1.122,03

Singapore

24.914,41

21.796,08

Thailand

2.846,59

129,57 1.325,57 26.233,63 3.043,98

125,10 1.288,58 26.375,97 2.468,18

997,59 21.829,30 1.845,83

2.033,26

146,60 1.072,80 23.852,33 2.007,74

Vietnam

276,81

348,32

362,92

390,09

324,15

348,02 Nguồn: WB [199]

87

2.2.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010

Hình 2.11. GDP theo giá thực tế và tốc độ tăng GDP Việt Nam giai đoạn

2001 – 2010

Nguồn: GSO [84] và WB [199]

Giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam phần nào suy yếu sau hai cuộc khủng

hoảng năm 1997 và năm 2007.

Giai đoạn 2001 – 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều

sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển KTXH 2001 – 2010 và Kế hoạch 5

năm 2001 – 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết

quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực,

năm sau cao hơn năm trước.

Năm 2008, kinh tế nước ta phát triển trong bối cảnh tình hình kinh tế thế

giới và trong nước biến động rất phức tạp và khó lường. Thiên tai, dịch bệnh

liên tiếp xảy ra, nhất là đợt rét đậm lịch sử đầu năm, 10 cơn bão kéo theo lũ lụt

lịch sử kéo dài từ giữa năm đến cuối năm trên diện rộng, từ Bắc vào Nam.

88

Năm 2009, tốc độ TTKT tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng của năm 2008,

nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới

suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ

tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công lớn.

Tính chung cả giai đoạn 2001 – 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi

năm đạt 6,61%. Với tốc độ tăng trưởng như vậy, trung bình mười năm qua, so

với một số quốc gia trong khu vực thì Việt Nam thấp hơn Myanma (12,18%),

Campuchia (8,05%), Lào (7,13%).

GDP năm 2010 theo giá so sánh đạt 2.157.828 tỷ đồng, gấp 1,95 lần so

với năm 2000, cơ bản đạt mục tiêu đề ra là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp

đôi năm 2000. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế có cơ cấu (%) như sau:

Bảng 2.10. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010

Đơn vị: %

Nông, lâm nghiệp

Công nghiệp

Thuế sản phẩm

Năm Tổng số

và thuỷ sản

và xây dựng Dịch vụ

trừ trợ cấp sản phẩm

100

2001

23,24

38,13

38,63

..

100

2002

23,03

38,49

38,48

..

100

2003

22,54

39,47

37,99

..

100

2004

21,81

40,21

37,98

..

100

2005

19,30

38,13

42,57

..

100

2006

18,73

38,58

42,69

..

100

2007

18,66

38,51

42,83

..

100

2008

20,41

37,08

42,51

..

100

2009

19,17

37,39

43,44

..

100

2010

18,38

32,13

36,94

12,55

Nguồn: GSO [84]

89

Trong cơ cấu GDP theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế giai đoạn

này thì ngành dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất, dao động từ 37% đến hơn 43%, tiếp

theo sau là ngành công nghiệp và xây dựng với tỷ trọng cao nhất 40,21% trong

năm 2004 và thấp nhất 32,13% năm 2010.

2.2.2.3. Giai đoạn 2011 – 2020

Mục tiêu của giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7 –

8%/năm; GDP theo giá so sánh năm 2020 bằng khoảng 2,2 lần so với năm

2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. Thực

tế đạt được thể hiện ở bảng 2.11 như sau:

Bảng 2.11. GDP ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Năm GDP theo giá thực tế

Tốc độ tăng GDP (%)

(Tỷ đồng)

GDP theo giá so sánh 2010 (Tỷ đồng)

2011

2.779.880

2.292.483

6,24

2012

3.245.419

2.412.778

5,25

2013

3.584.262

2.543.596

5,42

2014

3.937.856

2.695.796

5,98

2015

4.192.862

2.875.856

6,68

2016

4.502.733

3.054.470

6,21

2017

5.005.975

3.262.548

6,81

2018

5.542.332

3.493.399

7,08

2019

6.037.348

3.738.546

7,02

2020

2,91

3.847.182

6.293.145 Nguồn: GSO [84] và WB [199]

Mặc dù giai đoạn này chỉ có 2 năm 2017 và 2018 có tốc độ tăng trưởng

đạt so với mục tiêu đề ra, nhưng Việt Nam có tốc độ tăng trưởng dương liên

tục. Nếu như năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 5,25%, thấp hơn mức tăng

của năm 2011. Đến năm 2018, đã đạt 7,08%. Năm 2019 giảm nhẹ còn 7,02%.

90

Mức tăng trưởng năm 2019 tuy thấp hơn mức tăng 7,08% của năm 2018 nhưng

cao hơn mức tăng của các năm 2011 – 2017. Năm 2020 chỉ còn 2,19%, nhưng

là một trong số ít các nước có đạt con số dương ấn tượng. Tốc độ tăng trưởng

trung bình giai đoạn này đạt 5,96%, chưa đạt mục tiêu đề ra là 7 – 8%/năm.

Theo số liệu của World Bank, tính theo giá hiện hành, GDP thực của nền

kinh tế từ 135,539 tỷ USD năm 2011 đã lên mức 271,158 tỷ USD năm 2020,

gấp 2 lần. GDP theo giá so sánh năm 2020 là 3.847.182 tỷ đồng, gấp 1,78 lần

GDP năm 2010. GDP bình quân đầu người của Việt Nam, đã tăng hơn 1,83 lần

từ 1.525,12 USD năm 2011 lên mức 2.785,72 USD năm 2020.

Bảng 2.12. Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực

kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

Đơn vị: %

Thuế sản phẩm

Nông, lâm nghiệp

Công nghiệp

trừ trợ cấp

Năm Tổng số

và thuỷ sản

và xây dựng Dịch vụ

sản phẩm

19,57

32,24

36,73

11,46

100

2011

19,22

33,56

37,27

9,95

100

2012

17,96

33,19

38,74

10,11

100

2013

17,7

33,21

39,04

10,05

100

2014

17

33,25

39,73

10,02

100

2015

16,32

32,72

40,92

10,04

100

2016

15,34

33,4

41,26

10

100

2017

14,68

34,23

41,12

9,97

100

2018

13,96

34,49

41,64

9,91

100

2019

14,85

33,72

41,63

9,8

100

2020

Nguồn: GSO [84]

Trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu

vực kinh tế giai đoạn này thì ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất, dao động

91

từ 37% đến hơn 41%, tiếp theo sau là ngành công nghiệp và xây dựng với tỷ

trọng trong khoảng hơn 32% đến hơn 34%, tỷ trọng của ngành nông, lâm

nghiệp, thủy sản có xu hướng giảm dần.

Nếu xét theo loại hình kinh tế thì khu vực kinh tế ngoài nhà nước có sự

đóng góp lớn nhất vào GDP. Kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài có tỷ trọng tăng qua các năm trong khi đó kinh tế nhà nước giảm

nhưng không đáng kể.

Năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ rệt. Năng

suất của các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng bình quân chiếm

33,6% giai đoạn 2011 – 2015, và 45,2% giai đoạn 2016 – 2020, tính chung 10

năm 2011 – 2020 đạt 39,0%, vượt trên mức 35% đề ra trong mục tiêu chiến

lược. Năng suất lao động bình quân có tốc độ tăng trong giai đoạn 2011 – 2015

là 4,3%/năm, và trong giai đoạn 2016 – 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư

được nâng cao, biểu thị bằng sự giảm xuống của hệ số ICOR, từ 6,25 giai đoạn

2011 – 2015 còn khoảng 6,15 giai đoạn 2016 – 2019, tuy nhiên đến năm 2020

tăng cao.

Bảng 2.13. Hệ số ICOR theo giá so sánh 2010 ở Việt Nam 2011 – 2020

Hệ số ICOR theo giá so sánh 2010

Năm

2011

5,72

2012

6,76

2013

6,67

2014

6,29

2015

5,8

2016

6,42

2017

6,11

2018

5,98

2019

6,08

2020

14,28

Nguồn: GSO [84]

92

2.3. NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH

SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT

NAM GIAI ĐOẠN 1991 – 2020

2.3.1. Phát triển mô hình thực nghiệm tác động của thu ngân sách

nhà nước và chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

2.3.1.1. Phát triển mô hình thực nghiệm tác động của thu ngân sách

nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

Các cuộc thảo luận đã cho thấy sự bất đồng từ các học giả và các nhà

hoạch định chính sách với một trường phái giữ quan điểm rằng thu NSNN từ

thuế có hại cho nền kinh tế trong khi trường còn lại cho rằng đánh thuế là tốt

cho nền kinh tế. Mặt khác, một số kết quả từ nghiên cứu thực nghiệm trước đó

cho thấy chính phủ không nên tập trung vào việc tăng thu thuế bằng cách tăng

mức thuế mà thay vào đó sử dụng một cơ cấu thuế nâng cao cơ sở thuế để cải

thiện tốc độ tăng trưởng. Cũng vậy, bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ

giữa chính sách thuế và tăng trưởng dường như không nhất quán trong các kết

luận về tác động của thuế đối với TTKT, ví dụ như nghiên cứu được trình bày

ở trên và nghiên cứu của Lee & Gordon (2005) [154], Arnold & cộng sự (2011)

[92], Takumah (2014) [186] và Takumah & Iyke (2017) [187]. Vì thế, nghiên

𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝐺𝑂𝑉_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝜀𝑡 (2.1)

cứu này xem xét ảnh hưởng của thu NSNN lên TTKT được xác định như sau:

Trong đó, tổng sản phẩm quốc nội theo giá hiện hành (𝐺𝐷𝑃𝑡) đại diện

cho TTKT tại thời điểm t, trong khi tổng thu NSNN (𝐺𝑂𝑉_𝑅𝐸𝑉𝑡) bao gồm thu

ngân sách nội địa (trong đó có thuế), thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất

nhập khẩu. Phương trình này sau đó được tách ra và lấy logarit tự nhiên để làm

trơn và hạn chế các thông tin bị “che giấu những đặc tính” của dữ liệu (Phạm

𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝑙𝑛𝐷𝑂𝑆_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐼𝐸𝑋_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝑂𝐼𝐿_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝜀𝑡 (2.2)

Thế Anh, 2018) [4]. Do đó, phương trình (2.1) được viết lại như sau:

93

Trong đó, (2.2) bao gồm logarit của tổng sản phẩm quốc nội theo giá

hiện hành (𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡) đại diện cho TTKT tại thời điểm t, trong khi tổng thu

NSNN bao gồm logarit của thu ngân sách nội địa (trong đó có thuế)

(𝑙𝑛𝐷𝑂𝑆_𝑅𝐸𝑉𝑡), logarit của thu từ dầu thô (𝑙𝑛𝑂𝐼𝐿_𝑅𝐸𝑉𝑡) và logarit của thu từ

hoạt động xuất nhập khẩu (thu từ các loại thuế xuất nhập khẩu) (𝑙𝑛𝐼𝐸𝑋_𝑅𝐸𝑉𝑡)

đóng vai trò là các biến độc lập. 𝜀𝑡 là sai số của phương trình.

2.3.1.2. Phát triển mô hình thực nghiệm tác động của chi ngân sách

nhà nước tới tăng trưởng kinh tế

Quan điểm của Keynes và trường phái cổ điển và tân cổ điển đưa ra hai

vị trí khác nhau, liên quan đến mối quan hệ nói chung và mối quan hệ nhân quả

nói riêng, giữa chi NSNN và TTKT. Trong khi quan điểm của Keynes cho rằng

quan hệ nhân quả đi từ chi NSNN đến TTKT, thì trường phái cổ điển và tân cổ

điển lại cho rằng quan hệ nhân quả chạy từ TTKT đến chi NSNN. Tuy nhiên,

cả hai nội dung đều có thể đúng theo nghĩa của chúng, tùy thuộc vào bản chất

của nền kinh tế cụ thể. Vì thế, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của chi NSNN

lên TTKT được xác định như sau:

𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝐺𝑂𝑉_𝐸𝑋𝑃𝑡 + 𝜀𝑡 (2.3)

Trong đó, tổng sản phẩm quốc nội theo giá hiện hành (𝐺𝐷𝑃𝑡) đại diện

cho TTKT tại thời điểm t, trong khi tổng chi NSNN (𝐺𝑂𝑉_𝐸𝑋𝑃𝑡) bao gồm chi

đầu tư, chi thường xuyên và chi trả nợ. Phương trình này sau đó được tách ra

và lấy logarit tự nhiên để làm trơn và hạn chế các thông tin bị “che giấu những

đặc tính” của dữ liệu (Phạm Thế Anh, 2018) [4]. Do đó, phương trình (2.3)

𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐼𝑁𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝑃𝐴𝑌𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐶𝐸𝑋𝑡 + 𝜀𝑡 (2.4)

được viết lại như sau:

Trong đó, (2.4) bao gồm logarit của tổng sản phẩm quốc nội theo giá

hiện hành (𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡) đại diện cho TTKT tại thời điểm t, trong khi chi NSNN

bao gồm logarit của chi đầu tư (𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐼𝑁𝑉𝑡), logarit của chi trả nợ

94

(𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝑃𝐴𝑌𝑡) và logarit của chi thường xuyên (𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐶𝐸𝑋𝑡) đóng vai trò là

các biến độc lập. 𝜀𝑡 là sai số của phương trình.

2.3.2. Phát triển giả thuyết tác động của thu ngân sách nhà nước và

chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

2.3.2.1. Phát triển giả thuyết tác động của thu ngân sách nhà nước

hướng tới tăng trưởng kinh tế

Về việc liệu thu nội địa có đủ để thúc đẩy TTKT hay không, Tuffour

(2013) [190] một mặt đã xem xét mối quan hệ giữa viện trợ nước ngoài và thu

nội địa và tác động của chúng đối với TTKT ở Ghana. Sử dụng dữ liệu chuỗi

thời gian kinh tế vĩ mô trong giai đoạn từ năm 1970 đến năm 2011 và phương

pháp sửa lỗi cùng với quan hệ nhân quả Granger, các phát hiện cho thấy rằng

thu NSNN nội địa và viện trợ nước ngoài bổ sung cho nhau cho tài chính phát

triển. Ngoài ra, người ta thấy rằng viện trợ nước ngoài ít quan trọng hơn so với

thu NSNN nội địa để tài trợ cho phát triển trong nước. Nghiên cứu cuối cùng

chỉ ra rằng hướng của quan hệ nhân quả chạy từ thu NSNN nội địa, viện trợ

nước ngoài đến TTKT. Nói cách khác, cả thu trong nước và viện trợ nước ngoài

đều có mối quan hệ nhân quả với TTKT. Do đó, giả thuyết H1 của nghiên cứu

như sau:

H1: thu nội địa có tác động tích cực tới TTKT trong dài hạn

Đối với thu NSNN từ dầu thô, Dreger & Rahmani (2014) [113] đã xem

xét một cách nghiêm túc tác động của thu NSNN từ dầu mỏ đối với nền kinh tế

Iran và các quốc gia vùng Vịnh bằng cách sử dụng kỹ thuật đồng liên kết. Kết

quả của họ cho thấy rằng trong khi thu NSNN từ dầu thể hiện mối quan hệ lâu

dài với TTKT ở Iraq, thì mối quan hệ này không được tìm thấy ở các nước vùng

Vịnh, đặc biệt là trong phương trình đầu tư vì đầu tư không đáp ứng được với

thu NSNN từ dầu trong dài hạn. Tương tự như nghiên cứu này là nghiên cứu

của Hamdi & Sbia (2013) [132] tập trung vào mối quan hệ năng động giữa thu

95

NSNN từ dầu thô, chi NSNN và TTKT ở Vương quốc Bahrain - một quốc gia

mà thu NSNN từ dầu thô là động lực chính của chi NSNN và nhập khẩu hàng

hóa và dịch vụ. Nghiên cứu của họ sử dụng mô hình đồng liên kết đa biến, cơ

chế tự sửa lỗi cũng như hàm phản ứng đẩy cho thấy thu NSNN từ dầu thô vẫn

là động lực thúc đẩy TTKT và là kênh mà chính phủ tài trợ cho chi tiêu của

mình ở Vương quốc Bahrain. Do đó, giả thuyết H2 của nghiên cứu như sau:

H2: thu từ dầu thô có tác động tích cực tới TTKT trong dài hạn

Thu NSNN từ hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc vào hàng rào thuế

quan và mức độ hội nhập của một quốc gia. Các nghiên cứu trước đây về chủ

đề này lập luận rằng các chính sách thương mại của một nhà nước (theo chủ

nghĩa bảo hộ hoặc tự do hóa) có liên quan chặt chẽ với hoạt động kinh tế của

quốc gia đó. McKeown (1984) [162] cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng,

trong giai đoạn 1854-1914, việc tăng thuế quan có liên quan đến tỷ lệ tăng

trưởng thấp ở Đức hoặc chu kỳ kinh doanh đi xuống ở Mỹ. Chủ nghĩa bảo hộ

mậu dịch, được đề xuất bởi các mức thuế quan cao, có liên quan tiêu cực đến

hoạt động kinh tế vĩ mô bởi vì hàng rào thuế quan ngăn chặn các dòng vốn đầu

tư và nhập khẩu công nghệ. Kết quả bảo hộ mậu dịch làm cho hàng hóa nước

ngoài bị hạn chế, và đẩy giá hàng hóa lên cao, làm giảm khả năng cạnh tranh

của nền kinh tế và làm tăng chi phí sản xuất. Phân tích dữ liệu bảng của 60 quốc

gia trong giai đoạn 1975 – 2000, DeJong & Ripoll (2006) [108] nhận thấy rằng

mối quan hệ giữa các mức thuế quan và TTKT là tiêu cực và có ý nghĩa ở các

nước phát triển nhưng tích cực và không đáng kể ở các nước đang phát triển.

Một số nghiên cứu thực nghiệm khác cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng

tự do thương mại gắn liền với TTKT và bảo hộ mậu dịch làm chậm tăng trưởng

(xem Lee, 1993; Sachs & Warner, 1995; Harrison, 1996; Taylor, 1998) [154],

[181], [133], [188].

96

H3: Thu ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu có tác động

tiêu cực tới TTKT trong dài hạn.

2.3.2.2. Phát triển giả thuyết tác động của chi ngân sách nhà nước

hướng tới tăng trưởng kinh tế

Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng

trưởng được phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Aschauer (1989) [93] nhận

thấy rằng chi tiêu cho sản xuất của chính phủ có thể kích thích mở rộng sản

lượng. Trong khi Devarajan & cộng sự (1996) [110] đồng ý rằng chi NSNN có

mối quan hệ với TTKT, mỗi thành phần của nó có tác động khác nhau đến tăng

trưởng. Đặc biệt, chi tiêu thường xuyên NSNN có liên quan đến tăng trưởng

cao hơn trong khi chi đầu tư NSNN về vốn, giao thông, thông tin liên lạc, y tế

và giáo dục có tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Ngoài ra Angelopoulos &

cộng sự (2007) [91] nhận thấy rằng TTKT không chỉ phụ thuộc vào sản xuất

vật chất của các thành phần tiêu biểu của chi tiêu công, mà còn phụ thuộc vào

tỷ lệ chi NSNN phân bổ cho chúng. Trong một bảng dữ liệu cho 30 quốc gia

đang phát triển trong những năm 1970 và 1980, Bose, Haque & Osborn (2007)

[101] tập trung vào các khoản chi NSNN với phương pháp được sử dụng SUR.

Nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ trọng chi NSNN trong GDP là dương và có tương

quan đáng kể với TTKT nhưng bằng chứng thực nghiệm của chi thường xuyên

là không có ý nghĩa. Ngoài ra, ở cấp độ phân tách, đầu tư NSNN cho giáo dục

và tổng chi tiêu cho giáo dục là những chi tiêu duy nhất có liên quan đáng kể

đến tăng trưởng do hạn chế ngân sách và các biến số bị bỏ sót được xem xét

(Bose & cộng sự, 2007 [101]). Mặc dù chi NSNN là tích cực trong nghiên cứu,

nhưng nó không thể phản ánh các đặc điểm cụ thể của quốc gia khiến nó có

mối tương quan thuận với TTKT giữa các quốc gia riêng lẻ được sử dụng cho

nghiên cứu. Trong số 48 quốc gia châu Á, Lahirushan & Gunasekara (2015)

[151] đã thực hiện một nghiên cứu tương tự để ước tính tác động của chi NSNN

97

đối với TTKT từ năm 1970 đến 2013. Sử dụng dữ liệu bảng thứ cấp, phương

pháp luận mà nghiên cứu đã áp dụng là đồng liên kết, mô hình tác động cố định

và kiểm tra quan hệ nhân quả với mô hình tác động ngẫu nhiên. Kết quả, nó

cho thấy tác động tích cực của chi NSNN đối với tổng sản phẩm quốc nội ở

khu vực Châu Á. Ngoài ra, có mối quan hệ nhân quả một chiều từ TTKT đến

chi NSNN và từ chi NSNN đến TTKT, do đó xác nhận lý thuyết Keynes và

Định luật Wagner. Như vậy, kết luận rằng vai trò của chi NSNN là rất quan

trọng đối với TTKT giữa các nước Châu Á.

Ngược lại, trong một nghiên cứu về tác động tăng trưởng của chi NSNN

và thuế ở các nước phát triển bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của các nước giàu

trong giai đoạn 1970 – 1995, Fölster & Henrekson (2001) [121] đã tìm thấy

mối quan hệ tiêu cực giữa chi tiêu công và TTKT. Hơn nữa, Gupta (2005) [131]

chỉ ra rằng ở các nước có thu nhập thấp, cơ cấu tổng thể của chi tiêu công cho

mục đích sử dụng sản xuất là đặc biệt quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng và

việc giảm chi tiêu thường xuyên có xu hướng tạo ra tốc độ tăng trưởng cao hơn

so với điều chỉnh dựa trên tăng thu và cắt giảm chi tiêu sản xuất. Adu & Ackah

(2014) [87], người đã điều tra chi NSNN. Nghiên cứu được thực hiện để điều

tra mối quan hệ giữa TTKT và chi NSNN ở Ghana bằng mô hình ARDL với

dữ liệu hàng năm kéo dài từ năm 1970 đến năm 2010. Nghiên cứu kết luận rằng

trong cả dài hạn và ngắn hạn, chi NSNN có tác động tiêu cực đáng kể đến

TTKT nhưng chi thường xuyên lại có tác động tích cực đến TTKT trong cả dài

hạn và ngắn hạn. Nó tiếp tục gợi ý về một kỷ luật tài khóa và hiệu quả trong

việc giải ngân chi đầu tư để tạo ra những lợi ích tích cực trong tương lai. Ngoài

ra, Okafor & cộng sự (2012) [169] nhắc lại trong một tài liệu thực nghiệm gần

đây ở Nigeria, tách chi NSNN thành chi đầu tư và chi thường xuyên và ước tính

mối quan hệ của chúng với TTKT từ năm 1987 đến năm 2010. Kết quả nghiên

98

cứu cho thấy chi thường xuyên có tác động tích cực đến TTKT trong khi chi

đầu tư có tác động tiêu cực và không đáng kể đến TTKT.

Tóm lại, các nghiên cứu trước chỉ phân tích từng nhân tố một cách riêng

lẻ và chưa cung cấp bằng chứng thực nghiệm thống nhất về vai trò của các nhân

tố này trong mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng, và vì thế cần phải

tiếp tục được khám phá ở các bối cảnh riêng lẻ từng quốc gia. Nghiên cứu cũng

nhận định rằng, tác động của chi tiêu công và TTKT ở các quốc gia đang phát

triển vẫn chưa đánh giá một cách toàn diện. Theo đó, làm rõ hơn nghiên cứu

của Halkos & Paizanos (2016) [126], luận án phân tích và kiểm định vai trò của

chi NSNN đến TTKT tại Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020. Giả thuyết của

nghiên cứu là:

H4: Chi đầu tư NSNN có tác động tích cực tới TTKT trong dài hạn.

H5: Chi thường xuyên NSNN có tác động tích cực tới TTKT trong dài

hạn.

2.3.3. Kết quả thực nghiệm tác động của thu ngân sách nhà nước và

chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng trưởng kinh tế

2.3.3.1. Phương pháp ước lượng

Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các phương pháp nghiên cứu khoa học

khác nhau để giải quyết và tìm hiểu nhiều vấn đề mà các tác nhân kinh tế gặp

phải trong xã hội. Trong khi những người khác đã sử dụng kỹ thuật dữ liệu

bảng, những người khác đã áp dụng kỹ thuật chuỗi thời gian để ước tính mối

quan hệ giữa các biến số kinh tế. Tuy nhiên, quyết định áp dụng bất kỳ phương

pháp nghiên cứu thay thế nào có thể có phần lớn phụ thuộc vào tính sẵn có của

dữ liệu, độ tin cậy và tính thay đổi của nghiên cứu cũng như các mục tiêu mà

nghiên cứu đề ra. Các lược khảo lý thuyết trước đây cho thấy có mối quan hệ

nhân quả giữa các biến vĩ mô trong dài hạn. Do đó, Theo Pesaran (1997) [170],

phương pháp ARDL mang lại nhiều lợi thế (ưu điểm) hơn so với các phương

99

pháp ước lượng chuỗi thời gian khác: (1) ARDL là cách tiếp cận có ý nghĩa

thống kê hơn nhằm thực hiện các kiểm định tính đồng liên kết trong trường hợp

số quan sát là nhỏ; (2) ARDL ước tính một phương trình duy nhất thay vì ước

tính hệ phương trình nhằm tìm kiếm mối quan hệ dài hạn; (3) trong cách tiếp

cận ARDL để thực hiện đồng liên kết, các biến hồi quy có thể dung nạp các độ

trễ tối ưu khác nhau; (4) ARDL sử dụng ước lượng bình phương nhỏ nhất

(OLS) để tìm kiếm các quan hệ đồng liên kết khi độ trễ của mô hình được xác

định. Vì vậy, trong các điều kiện hạn chế về số quan sát, phương pháp ARDL

trở nên tối ưu hơn các phương pháp ước lượng chuỗi thời gian khác.

Phương trình ARDL tổng quát được biểu diễn dưới dạng như sau:

𝑛 𝑌𝑡 = 𝛼 + ∑ 𝛼𝑖 𝑌𝑡−𝑖 𝑖=1

𝑛 𝑖=1

+ ∑ 𝛽𝑖𝑋𝑡−𝑖 + 𝜑1𝑌𝑡−1 + 𝜑2𝑋𝑡−1 + 𝑡 (2.1)

Trong đó: 𝑌𝑡 và 𝑋𝑡 là các biến dừng, và 𝑡 là phần nhiễu trắng 𝑌𝑡−𝑖 và 𝑋𝑡−𝑖 là các biến dừng ở các độ trễ phù hợp.

𝑌𝑡−1 và 𝑋𝑡−1 là các biến độc lập chưa lấy sai phân ở độ trễ 1 - tác động

dài hạn nếu có

❖ Kiểm định nghiệm đơn vị

Các biến trong mô hình (1) – (4) được kiểm tra nghiệm đơn vị nhằm xem

xét dừng ở bậc gốc (ký hiệu I(0)) hay dừng ở bậc 01 (ký hiệu I(1)) để tránh kết

quả hồi quy giả (Gujarati, 2017 [117]), sử dụng phương pháp Augmented

Dickey-Fuller (ADF) của Dickey & Fuller (1979) [111] và phương pháp

Phillips Perron (PP) của Phillips & Perron (1988) [171]. Trong các kiểm định

này, nếu giá trị t của độ trễ là một lượng nhỏ hơn giá trị tới hạn thì giả thuyết

H0 (các biến là không dừng) được chấp nhận.

❖ Kiểm định đường bao ARDL

Kiểm định đường bao trong phương pháp ARDL để tìm kiếm mối quan hệ dài hạn giữa các biến của nghiên cứu bằng cách như sau: (i) ước lượng

100

phương trình ARDL thông qua OLS; (ii) thực hiện kiểm định F đối với các hệ số của các biến ở trạng thái trễ của chúng với giả thuyết như sau:

H0 λ0 = λ1= λ2 = λ3 = ∂0 (không tồn tại mối quan hệ giữa các biến) H1 λ0 ≠ λ1≠ λ2 ≠ λ3 ≠ ∂0 (tồn tại mối quan hệ giữa các biến) Khi giá trị F lớn hơn giới hạn trên (upper), giả thuyết không H0 bị bác bỏ có nghĩa là có thể kết luận rằng có sự đồng liên kết giữa các biến. Kiểm định đường bao nhằm áp đặt một giới hạn đối với ARDL để ước lượng mối quan hệ dài hạn giữa các biến.

❖ Ước lượng mô hình ARDL

Theo Pesaran (1997) [170], ARDL được tiến hành như sau:

+ Thứ nhất, xác định đồng liên kết (mối quan hệ dài hạn) giữa các biến

thông qua kiểm định đường bao (Bound test).

+ Thứ hai, thông qua tiêu chí SBC hoặc AIC để xác định độ trễ tối ưu

của các biến trong ARDL.

+ Thứ ba, ước lượng ARDL dài hạn với các độ trễ đã được xác định

thông qua ước lượng OLS.

+ Thứ tư, dựa trên cách tiếp cận ARDL đối với đồng liên kết để xem xét

tác động ngắn hạn của các biến bởi mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM).

2.3.3.2. Kết quả thực nghiệm của chính sách tài khóa hướng tới tăng

trưởng kinh tế tại Việt Nam giai đoạn 1991 – 2020

➢ Tác động của chính sách thu ngân sách nhà nước hướng tới tăng

trưởng kinh tế

Xét mô hình:

𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝑙𝑛𝐷𝑂𝑆_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐼𝐸𝑋_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝑂𝐼𝐿_𝑅𝐸𝑉𝑡 + 𝜀𝑡

(2.2)

Mô hình nghiên cứu (2.2) được áp dụng các thủ tục kiểm định nghiệm đơn vị

ADF và PP để kiểm tra tính dừng. Kết quả được trình bày trong Bảng 2.14 dưới đây:

❖ Kiểm định nghiệm đơn vị

101

Bảng 2.14. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của các biến tham gia

Giá trị kiểm

Giá

trị

tới

Giá trị kiểm

Giá

trị

tới

Kết

Biến

định ADF

hạn mức 5%

định PP

hạn mức 5%

luận

lnGDP (0)

-1.5013

-2.9719

-2.7095

-2.9678

Không dừng

lnGDP (1)

-3.4195**

-2.9719

-3.4160**

-2.9678 Dừng

Không

lnDOS_REV (0)

-2.604224

-2.9719

-1.979877

-2.9678

dừng

lnDOS_REV (1)

-5.0802***

-2.9719

-5.0906***

-2.9678 Dừng

lnIEX_REV (0)

-4.4667***

-2.9719

-3.9905***

-2.9678 Dừng

lnIEX_REV (1)

-3.2999**

-2.9719

-3.1916**

-2.9678 Dừng

Không

lnOIL_REV (0)

-2.3170

-2.9719

-2.8949

-2.9678

dừng

lnOIL_REV (1)

-3.6642**

-2.9719

-3.6121**

-2.9678 Dừng

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Nguồn: Kết quả từ mô hình

Đối với cả kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP, chúng ta không thể bác bỏ giả thuyết H0 về sự hiện diện của nghiệm đơn vị, ngoại trừ biến lnIEX_REV. Trong khi đó, giá trị tuyệt đối của giá trị thống kê nhỏ hơn các giá trị tới hạn tương ứng của nó ở chuỗi sai phân bậc 1 I(1).

Do đó, ta có thể kết luận rằng, ngoại trừ biến lnIEX_REV dừng ở bậc gốc, các biến còn lại đều dừng ở sai phân bậc 1, ở mức ý nghĩa 5%. Do đó, các biến dừng ở các bậc khác nhau là phù hợp để sử dụng ARDL.

❖ Kiểm định đường bao ARDL

Bảng 2.15. Kết quả kiểm định đường bao của các biến tham gia

Giá trị giới hạn của các đường bao theo Pesaran (1997), trường hợp Restricted constant và no trend

90%

95%

97,5%

99%

Số bậc (k)

Giá trị thống kê F

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

3

8.7976

2.37

3.20

2.79

3.67

3.15

4.08

3.65

4.66

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Nguồn: Kết quả từ mô hình

102

❖ Các giả thuyết kiểm định:

Kết quả kiểm định đường bao (Bảng 2.15) cho thấy giả thuyết H1 được chấp nhận, nghĩa là tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến bởi vì giá trị thống kê F lớn hơn giá trị giới hạn đường bao trên (mức ý nghĩa 5%).

❖ Lựa chọn độ trễ và ước lượng ARDL

Dựa vào các tiêu chí AIC và SBC, Hình 2.15 và Bảng 2.16 thể hiện độ trễ

tối ưu của mô hình ARDL là (4,2,3,4).

Hình 2.12. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình theo tiêu chí AIC

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Bảng 2.16 dưới đây thể hiện ước lượng ARDL theo độ trễ tối ưu, giá trị của AIC được lựa chọn là -5,037111 đạt giá trị nhỏ nhất trong toàn bộ các mô hình ước lượng với các độ trễ khác nhau.

Bảng 2.16. Ước lượng mô hình ARDL theo độ trễ tối ưu

Biến phụ thuộc lnGDP Hệ số

Độ lệch chuẩn Thống kê t

Giá trị p

LNGDP(-1)

0.217612

0.232324

0.936674

0.3734

LNGDP(-2)

-0.243440

0.183122

-1.329383

0.2164

LNGDP(-3)

0.625880

0.173794

3.601273

0.0057

LNGDP(-4)

-0.291255

0.105766

-2.753779

0.0223

LNGOVDOM

-0.031962

0.116376

-0.274643

0.7898

LNGOVDOM(-1)

0.327300

0.122808

2.665138

0.0258

103

0.1948

LNGOVDOM(-2)

0.178805

0.127639

1.400863

0.3516

LNGOVEXIM

0.040435

0.041161

0.982378

0.9238

LNGOVEXIM(-1)

-0.004270

0.043420

-0.098339

0.1707

LNGOVEXIM(-2)

0.077832

0.052273

1.488968

0.1288

LNGOVEXIM(-3)

-0.059733

0.035724

-1.672063

0.0004

LNGOVOIL

0.104356

0.018887

5.525230

0.2863

LNGOVOIL(-1)

-0.041833

0.036903

-1.133578

0.0422

LNGOVOIL(-2)

0.087135

0.036825

2.366179

0.2177

LNGOVOIL(-3)

-0.055951

0.042210

-1.325524

0.2575

LNGOVOIL(-4)

0.031540

0.026087

1.209033

0.0024

C

1.946752

0.466372

4.174252

-5.037111

Hệ số R2

0.999912 Akaike info criterion

-4.214510

Hệ số R2 hiệu chỉnh

0.999755 Schwarz criterion

-4.800232

Durbin-Watson stat

2.892880 Hannan-Quinn criter.

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%. Nguồn: Kết quả từ mô hình

❖ ARDL trong dài hạn

Mối quan hệ dài hạn giữa biến phụ thuộc (TTKT) và biến độc lập (thu NSNN phân theo các thành phần) được ước lượng bằng ADRL. Độ co giãn trong dài hạn được biểu thị bằng các hệ số của biến phụ thuộc.

Bảng 2.17. Kết quả kiểm định đường bao của các biến tham gia trong

nghiên cứu

Mô hình phân phối trễ

Thống kê t

Giá trị p

Biến phụ thuộc (lnGDP)

Hệ số dài hạn

Độ lệch chuẩn

lnDOS_REV

0.6860***

0.0428

16.0297

0.0000

lnIEX_REV

0.0785

0.0707

1.1103

0.2957

lnOIL_REV

0.1812***

0.0284

6.3865

0.0001

C

2.8165***

0.0544

51.8204

0.0000

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

104

Dựa trên kết quả Bảng 2.17 ở trên, thu từ nội địa và thu từ dầu thô có quan hệ tích cực dài hạn và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Cụ thể, thu NSNN từ nội địa tăng 1% sẽ làm TTKT lên mức 0,6860%, trong khi thu từ dầu thô tăng lên 1% sẽ thúc đẩy TTKT lên 0,1812%, đồng thời khẳng định tồn tại mối quan hệ tích cực dài hạn giữa TTKT (GDP) và thu NSNN của Việt Nam. Đáng lưu ý là thu NSNN từ hoạt động xuất nhập khẩu thông qua thuế quan không có tác động dài hạn đến TTKT, ngụ ý các hoạt động bảo hộ mậu dịch không phải là tác nhân của TTKT trong dài hạn. Ngoài ra, hệ số tác động của các biến độc lập trong dài hạn có khuynh hướng lớn hơn hệ số điều chỉnh trong ngắn hạn.

❖ ARDL sửa lỗi trong ngắn hạn

Bảng 2.18. Kết quả mô hình ước lượng ARDL sửa lỗi (ECM) trong

ngắn hạn

Độ lệch chuẩn Thống kê t

Giá trị p

Biến phụ thuộc lnGDP Hệ số

-0.091185

0.094820

-0.961665

0.3613

lnGDP(-1)

-0.334624

0.089522

-3.737919

0.0046

lnGDP(-2)

0.291255

0.067893

4.289886

0.0020

lnGDP(-3)

-0.031962

0.056791

-0.562799

0.5873

lnDOS_REV

-0.178805

0.093648

-1.909324

0.0886

lnDOS_REV(-1)

0.040435

0.024738

1.634569

0.1366

lnIEX_REV

-0.018099

0.023396

-0.773613

0.4590

lnIEX_REV(-1)

0.059733

0.017427

3.427616

0.0075

lnIEX_REV(-2)

0.104356

0.011684

8.931342

0.0000

lnOIL_REV

-0.062724

0.018060

-3.473144

0.0070

lnOIL_REV(-1)

0.024411

0.019191

1.271992

0.2353

lnOIL_REV(-2)

-0.031540

0.016103

-1.958700

0.0818

lnOIL_REV(-3)

EC(-1)*

-0.691204

0.113821

-6.072701

0.0002

Hệ số R2

0.970490

Akaike info criterion

-5.344804

Hệ số R2 hiệu chỉnh

0.943250

Schwarz criterion

-4.715756

Durbin-Watson

2.892880

Hannan-Quinn criterion

-5.163661

EC = lnGDP-(0.6860*lnDOS_REV+0.0785*lnIEX_REV+ 0.1812*lnOIL_REV + 2.8165)

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Nguồn: Kết quả từ mô hình

105

Trong phần này, nghiên cứu ước tính cơ chế hiệu chỉnh bằng cách sử dụng phương pháp ADRL sửa lỗi để kiểm tra mối quan hệ ngắn hạn giữa các biến. Kết quả được trình bày trong Bảng 2.18. Có thể quan sát thấy rằng các hệ số của ECT tuân theo kỳ vọng tiên nghiệm, không chỉ âm mà còn có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Điều này cho thấy rằng có một sự điều chỉnh động trong ngắn hạn hướng tới trạng thái cân bằng trong dài hạn. Cụ thể là sự thay đổi trong thu từ nội địa kỳ trước đó sẽ kéo giảm sự thay đổi của TTKT về 0,1788%, trở lại trạng thái cân bằng. Tương tự, sự thay đổi của thu từ xuất nhập khẩu cách đó 2 kỳ và thu từ dầu thô cách đó 2 và 3 kỳ sẽ kéo TTKT quay trở lại trạng thái cân bằng. Hệ số của mỗi biến cũng có thể được giải thích theo độ lớn co giãn, điều này cho thấy sự trở lại trạng thái cân bằng dài hạn nhanh hơn trong trường hợp có sự mất cân bằng trong hệ thống.

❖ Kiểm định chẩn đoán lỗi mô hình

Hình 2.16 và Hình 2.17 dưới đây cho thấy tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư (CUSUMSQ: Cumulative Sum of Square of Recursive Residuals) và tổng tích lũy của phần dư (CUSUM: Cumulative Sum of Recursive Residuals) đều nằm trong dải tiêu chuẩn (mức ý nghĩa 5%). Do đó ta có thể kết luận phần dư có tính ổn định và mô hình là ổn định.

Hình 2.13. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy của phần dư

Nguồn: Kết quả từ mô hình

106

Hình 2.14. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Bảng 2.19 trình bày kết quả của các kiểm định chẩn đoán lỗi cho mô hình ARDL được ước tính ở trên. Các kiểm định được thực hiện bởi vì tính hợp lệ của kết quả ARDL dựa trên sự thỏa mãn các giả định của OLS cổ điển như tính phân phối chuẩn, tính tuyến tính, không có tự tương quan và đa cộng tuyến. Có thể thấy rằng các giá trị thống kê đều lớn hơn mức 1%, xác nhận rằng mô hình không bị vi phạm các lỗi ước lượng, và vì vậy mô hình có độ tin cậy. Điều này ngụ ý rằng các mô hình là tuyến tính trong tham số, thường được phân bổ với giá trị trung bình bằng 0 và phương sai không đổi, đồng biến (có phương sai bằng nhau) và không có tự tương quan. Do đó, các mô hình này đáng tin cậy và có thể được sử dụng để hoạch định chính sách kinh tế, dự báo và sự dự đoán.

Bảng 2.19. Kết quả kiểm định mô hình ARDL

Giá trị p

Kiểm định

Thống kê

Giá trị thống kê

1.1772

0.4155

Phương sai thay đổi

Tự tương quan

2.8949

0.1213

Heteroskedasticity Test: Breusch-Pagan-Godfrey (H0: Homoskedasticity) Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test (H0: No serial correlation at up to 2 lags)

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%

Nguồn: Kết quả từ mô hình

❖ Kết luận Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn, thu từ nội địa và thu từ dầu thô có tác động cùng chiều lên TTKT. Trong khi đó, thu NSNN từ hoạt động

107

xuất nhập khẩu không được tìm thấy là có ý nghĩa thống kê lên TTKT. Xét trong ngắn hạn, thu từ dầu mỏ tác động làm tăng TTKT trong kỳ đầu tiên, trước khi suy giảm vào các kỳ sau đó. Điều này cho thấy rằng nguồn thu từ dầu mỏ không nên được xem là nhân tố dài hạn cho sự gia tăng của TTKT. Nguồn thu từ xuất nhập khẩu gần như không tác động lên TTKT, ngoại trừ hiệu ứng tích cực ở độ trễ 3 kỳ sau đó. Điều này cho thấy rằng, trong ngắn hạn ảnh hưởng của thu xuất nhập khẩu có thể có tác động tích cực đến TTKT tuy nhiên nó có mức độ trễ nhất định. Cuối cùng, sự gia tăng nguồn thu nội địa trong ngắn hạn trước mắt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến TTKT bởi vì sự sụt giảm trong thu nhập khả dụng sẽ tác động làm suy giảm tổng cầu. Nhưng về dài hạn thì sự gia tăng nguồn thu sẽ mang lại hiệu ứng tích cực cho TTKT. Ngoài ra, phương trình ARDL sửa lỗi cho thấy trong ngắn hạn, các biến số có khuynh hướng tự điều chỉnh để tiến tới cân bằng trong dài hạn. Kết quả này phù hợp với cơ sở lý thuyết và khung phân tích ở trên và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

➢ Tác động của chính sách chi ngân sách nhà nước hướng tới tăng

Xét mô hình:

trưởng kinh tế 𝑙𝑛𝐺𝐷𝑃𝑡 = 𝛽1 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐼𝑁𝑉𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝑃𝐴𝑌𝑡 + 𝛽2𝑙𝑛𝐺𝑂𝑉_𝐶𝐸𝑋𝑡 + 𝜀𝑡 (2.3)

❖ Kiểm định nghiệm đơn vị

Mô hình nghiên cứu (2.3) được kiểm định nghiệm đơn vị bằng phương pháp

ADF và PP. Kết quả được trình bày trong Bảng 2.20 dưới đây:

Bảng 2.20. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị của các biến

Biến

Kết luận

lnGDP (0) lnGDP (1) lnGOV_INV (0) lnGOV_INV (1) lnGOV_PAY (0) lnGOV_PAY (1) lnGOV_CEX (0) lnGOV_CEX (1)

Giá trị kiểm định ADF -1.5013 -3.4195** -1.703749 -8.5497*** -3.8225*** -3.6686** -0.9316 -3.2850**

Giá trị tới hạn mức 5% -2.9719 -2.9719 -2.9719 -2.9719 -2.9719 -2.9719 -2.9719 -2.9719

Giá trị kiểm định PP -2.7095 -3.4160** -3.2682** -8.5496*** -3.8225*** -3.6286** -2.4837 -3.2849**

Giá trị tới hạn mức 5% -2.9678 Không dừng -2.9678 Dừng -2.9678 Dừng -2.9678 Dừng -2.9678 Dừng -2.9678 Dừng -2.9678 Không dừng -2.9678 Dừng

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

108

Thông qua ADF và PP, các biến đều không dừng ở bậc gốc I(0) mức ý

nghĩa 1% hoặc 5%, ngoại trừ biến lnGOV_INV và lnGOV_PAY. Trong khi

đó, kiểm định ADF và PP cho thấy rằng, ngoại trừ biến lnGOV_INV và

lnGOV_PAY dừng ở bậc gốc, các biến còn lại đều dừng ở sai phân bậc 1, ở

mức ý nghĩa 5%. Do đó, các biến dừng ở các độ trễ khác nhau là phù hợp để sử

dụng ARDL.

❖ Kiểm định đường bao ARDL

Bảng 2.21. Kết quả kiểm định đường bao của các biến

Giá trị giới hạn của các đường bao theo Pesaran (1997), trường hợp Restricted constant và no trend

Số bậc

Giá trị thống

(k)

90%

95%

97,5%

99%

kê F

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

I(0)

I(1)

3

3.2275 2.37

3.20

2.79

3.67

3.15

4.08

3.65

4.66

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

❖ Các giả thuyết kiểm định:

Kết quả kiểm định đường bao tại Bảng 2.21 cho thấy giả thuyết H1 được chấp nhận, nghĩa là tồn tại mối quan hệ đồng liên kết giữa các biến bởi vì giá trị thống kê F lớn hơn giá trị giới hạn đường bao trên (mức ý nghĩa 5%).

❖ Lựa chọn độ trễ và ước lượng ARDL

Dựa vào các tiêu chí AIC và SBC, Hình 2.18 và Bảng 2.22 thể hiện độ

trễ tối ưu của mô hình ARDL là (4,3,4,4).

Hình 2.15. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình theo tiêu chí AIC

Nguồn: Kết quả từ mô hình

109

Bảng 2.22 dưới đây thể hiện ước lượng ARDL theo độ trễ tối ưu, giá trị

của AIC được lựa chọn là -4,021221 đạt giá trị nhỏ nhất trong toàn bộ các mô

hình ước lượng với các độ trễ khác nhau.

Bảng 2.22. Ước lượng mô hình ARDL theo độ trễ tối ưu (4, 3, 4, 4)

Độ lệch chuẩn Thống kê t

Giá trị p

Biến phụ thuộc lnGDP lnGDP (-1)

Hệ số 0.209141

0.334890 0.624507 0.5521

-0.556410 0.329156 -1.690417 0.1348 lnGDP (-2)

1.227240 0.388769 3.156734 0.0160 lnGDP (-3)

-1.402139 0.455688 -3.076971 0.0179 lnGDP (-4)

0.324528 0.165392 1.962175 0.0905 lnGOV_INV

0.171138 0.095208 1.797522 0.1153 lnGOV_INV (-1)

-0.042482 0.105661 -0.402058 0.6996 lnGOV_INV (-2)

0.252850 0.118427 2.135072 0.0701 lnGOV_INV (-3)

-0.097779 0.064589 -1.513867 0.1738 lnGOV_PAY

0.061501 0.056615 1.086304 0.3133 lnGOV_PAY (-1)

-0.180316 0.077553 -2.325065 0.0530 lnGOV_PAY (-2)

0.116573 0.069975 1.665917 0.1397 lnGOV_PAY (-3)

-0.151377 0.109944 -1.376850 0.2110 lnGOV_PAY (-4)

0.529893 0.196149 2.701485 0.0306 lnGOV_CEX

-0.232859 0.247550 -0.940654 0.3782 lnGOV_CEX (-1)

0.005169 0.187495 0.027571 0.9788 lnGOV_CEX (-2)

0.241689 0.274413 0.880749 0.4077 lnGOV_CEX (-3)

0.431691 0.201535 2.142015 0.0694 lnGOV_CEX (-4)

3.379542 0.956098 3.534725 0.0095 C

Hệ số R2 0.999791 Akaike info criterion -4.021221

Hệ số R2 hiệu chỉnh 0.999253 Schwarz criterion -3.101843

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Durbin-Watson stat 1.972897 Hannan-Quinn criter. -3.756473

110

❖ ARDL trong dài hạn

Mối quan hệ dài hạn giữa biến phụ thuộc (TTKT) và biến độc lập (thu

NSNN phân theo các thành phần) được ước lượng bằng ADRL. Độ co giãn

trong dài hạn được biểu thị bằng các hệ số của biến phụ thuộc.

Bảng 2.23. Kết quả kiểm định đường bao của các biến

Hệ số dài hạn

Thống kê t

Giá trị p

Mô hình phân phối trễ Độ lệch chuẩn

Biến phụ thuộc (lnGDP) lnGOV_INV lnGOV_PAY lnGOV_CEX C

0.4638*** -0.1652 0.6409*** 2.2202***

0.1338 0.0872 0.0808 0.1560

3.4663 -1.8930 7.9265 14.2339

0.0105 0.1002 0.0001 0.0000

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Dựa trên kết quả Bảng 2.23 ở trên, chi đầu tư chính phủ và chi thường

xuyên có quan hệ tích cực dài hạn và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Cụ thể,

chi đầu tư chính phủ tăng 1% sẽ làm TTKT lên mức 0,4638%, trong khi chi

thường xuyên tăng lên 1% sẽ thúc đẩy TTKT lên 0,6409%, đồng thời khẳng

định tồn tại mối quan hệ tích cực dài hạn giữa TTKT (GDP) và chi NSNN tại

Việt Nam. Đáng lưu ý là chi hoạt động trả nợ không có tác động dài hạn đến

TTKT, ngụ ý các hoạt động này không là tác nhân của TTKT trong dài hạn.

Ngoài ra, hệ số tác động của các biến độc lập trong dài hạn có khuynh hướng

lớn hơn hệ số điều chỉnh trong ngắn hạn.

Phát hiện của nghiên cứu này tại Việt Nam phù hợp với quan điểm của

Aschauer (1989) [93] nhận thấy rằng chi tiêu cho sản xuất của chính phủ có thể

kích thích mở rộng sản lượng. Nghiên cứu cũng ủng hộ phát hiện của Devarajan

và cộng sự (1996) [110] khi đồng ý rằng chi NSNN có mối quan hệ với TTKT,

mỗi thành phần của nó có tác động khác nhau đến tăng trưởng. Như vậy, kết

luận rằng vai trò của chi NSNN là rất quan trọng đối với TTKT tại Việt Nam.

111

❖ ARDL sửa lỗi trong ngắn hạn

Bảng 2.24. Kết quả mô hình ước lượng ARDL sửa lỗi (ECM) trong ngắn

hạn

Giá trị p

Độ lệch chuẩn Thống kê t

0.193559 0.200747 0.217226 0.091277 0.090091 0.084328 0.034387 0.040349 0.035853 0.033149 0.102212 0.177835 0.171866 0.116012 0.302271

3.778224 0.871240 6.454750 3.555416 -2.335066 -2.998400 -2.843512 5.331450 0.970728 4.566610 5.184245 -3.815609 -3.918045 -3.721097 -5.035776 Akaike info criterion Schwarz criterion Hannan-Quinn criter.

0.731309 0.174899 1.402139 0.324528 -0.210368 -0.252850 -0.097779 0.215120 0.034804 0.151377 0.529893 -0.678549 -0.673379 -0.431691 -1.522168 0.930120 0.841182 1.972897

0.0069 0.4125 0.0003 0.0093 0.0522 0.0200 0.0249 0.0011 0.3640 0.0026 0.0013 0.0066 0.0058 0.0074 0.0015 -4.328913 -3.603088 -4.119902

Biến phụ thuộc lnGDP Hệ số lnGDP (-1) lnGDP (-2) lnGDP (-3) lnGDP lnGOV_INV (-1) lnGOV_INV (-2) lnGOV_PAY lnGOV_PAY (-1) lnGOV_PAY (-2) lnGOV_PAY (-3) lnGOV_CEX lnGOV_CEX (-1) lnGOV_CEX (-2) lnGOV_CEX (-3) EC (-1)* Hệ số R2 Hệ số R2 hiệu chỉnh Durbin-Watson stat EC = lnGDP-(0.4638* lnGOV_INV-0.1652* lnGOV_PAY+0.6409* lnGOV_CEX+ 2.2202)

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%.

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Trong phần này, nghiên cứu ước tính cơ chế hiệu chỉnh bằng cách sử

dụng phương pháp ADRL sửa lỗi để kiểm tra mối quan hệ ngắn hạn giữa các

biến. Kết quả được trình bày trong Bảng 2.24. Có thể quan sát thấy rằng các hệ

số của ECT tuân theo kỳ vọng tiên nghiệm, không chỉ âm mà còn có ý nghĩa

thống kê ở mức ý nghĩa 1%. Điều này cho thấy rằng có một sự điều chỉnh động

trong ngắn hạn hướng tới trạng thái cân bằng trong dài hạn. Cụ thể là sự thay

đổi trong thu từ nội địa kỳ trước đó sẽ kéo giảm sự thay đổi của TTKT về

1,5222%, để trở lại trạng thái cân bằng. Tương tự, sự thay đổi của chi đầu tư

112

và chi trả nợ cách đó 2 và 3 kỳ và chi thường xuyên ở cả 3 kỳ sẽ kéo TTKT

quay trở lại trạng thái cân bằng. Hệ số của mỗi biến cũng có thể được giải thích

theo độ lớn co giãn, điều này cho thấy sự trở lại trạng thái cân bằng dài hạn

nhanh hơn trong trường hợp có sự mất cân bằng trong hệ thống.

❖ Kiểm định chẩn đoán lỗi mô hình

Hình 2.19 và Hình 2.20 dưới đây cho thấy tổng tích lũy hiệu chỉnh của

phần dư (CUSUMSQ: Cumulative Sum of Square of Recursive Residuals) và

tổng tích lũy của phần dư (CUSUM: Cumulative Sum of Recursive Residuals)

đều nằm trong dải tiêu chuẩn (mức ý nghĩa 5%). Do đó ta có thể kết luận phần

dư có tính ổn định và mô hình là ổn định.

Hình 2.16. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy của phần dư

Nguồn: Kết quả từ mô hình

Hình 2.17. Kết quả mô phỏng tổng tích lũy hiệu chỉnh của phần dư

Nguồn: Kết quả từ mô hình

113

Bảng 2.25 trình bày kết quả của các kiểm định chẩn đoán lỗi cho mô hình

ARDL được ước tính ở trên. Các kiểm định được thực hiện bởi vì tính hợp lệ

của kết quả ARDL dựa trên sự thỏa mãn các giả định của OLS cổ điển như tính

phân phối chuẩn, tính tuyến tính, không có tự tương quan và đa cộng tuyến. Có

thể thấy rằng các giá trị thống kê đều lớn hơn mức 1%, xác nhận rằng mô hình

không bị vi phạm các lỗi ước lượng, và vì vậy mô hình có độ tin cậy. Điều này

ngụ ý rằng các mô hình là tuyến tính trong tham số, thường được phân bổ với

giá trị trung bình bằng 0 và phương sai không đổi, đồng biến (có phương sai

bằng nhau) và không có tự tương quan. Do đó, các mô hình này đáng tin cậy

và có thể được sử dụng để hoạch định chính sách kinh tế, dự báo và sự dự đoán.

Bảng 2.25. Kết quả kiểm định mô hình ARDL

Kiểm định

Thống kê

Giá trị p

Giá trị thống kê

Phương sai thay đổi

0.5090

0.8824

Tự tương quan

0.0422

0.9591

Heteroskedasticity Test: Breusch-Pagan-Godfrey (H0: Homoskedasticity) Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test (H0: No serial correlation at up to 2 lags)

Ghi chú: ***, ** và * tương ứng với mức ý nghĩa 1%; 5% và 10%

Nguồn: Kết quả từ mô hình

❖ Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn, các khoản chi đầu tư và chi

thường xuyên có vai trò thúc đẩy TTKT. Tuy nhiên, xét trong dài hạn chi trả

nợ không phải là một khoản chi có tác động làm thay đổi tổng cầu trong dài

hạn, và vì vậy nó không được xem là nhân tố ảnh hưởng đến TTKT trong dài

hạn.

Kết quả thực nghiệm cũng chỉ ra rằng cải thiện đầu tư có thể thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế; điều này cũng đúng với chi tiêu thường xuyên của Chính

114

phủ. Theo trường phái Keynes, đầu tư công và chi tiêu thường xuyên của chính

phủ tăng làm tăng cầu về lao động, dẫn đến tiền lương thực tế tăng, từ đó dẫn

đến cầu tiêu dùng tăng. Như vậy, tổng cầu trong nền kinh tế được thúc đẩy bởi

sự gia tăng chi tiêu theo CSTK mở rộng (Galí & cộng sự, 2007) [124]. Hơn

nữa, sự gia tăng đầu tư công mang lại cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ, thúc

đẩy năng suất của các yếu tố đầu vào khác, chẳng hạn như lao động và vốn tư

nhân. Kết quả là nó làm giảm chi phí đầu ra đơn vị, tăng khả năng hoàn vốn và

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Cohen & Paul, 2004; Agénor, 2004). [102] [88]

Chi đầu tư trước mắt được tìm thấy là tiêu cực với TTKT ở cả 03 kỳ, có

thể là kết quả của hiệu ứng chèn lấn đầu tư của khu vực tư như đã được chỉ ra

ở phần lý thuyết. Theo các thực nghiệm trước đây của Ahmed & Miller (2000)

[90], Farla & cộng sự (2016) [118], Nguyen & Trinh (2018) [166], đầu tư công

có thể lấn át các hình thức đầu tư vốn khác trong nền kinh tế, vì vậy việc kiểm

soát chi tiêu đầu tư của chính phủ trở nên cần thiết. Cuối cùng, chi trả nợ được

tìm thấy có tác động tích cực lên TTKT trong ngắn hạn, bởi vì các hoạt động

trả nợ sẽ giúp Chính phủ đảm bảo được các xếp hạng tín dụng đối với các nhà

đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy các hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế.

Điều này sẽ mang lại thêm các nguồn lực trong ngắn hạn của Chính phủ.

Cuối cùng, các phương trình ARDL sửa lỗi ở tất cả các mô hình cho thấy

trong ngắn hạn, các biến số có khuynh hướng tự điều chỉnh để tiến tới cân bằng

trong dài hạn. Kết quả này phù hợp với cơ sở lý thuyết và khung phân tích ở

trên và phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG

TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1991 – 2020

2.4.1. Những kết quả đạt được

Từ xuất phát điểm thuộc nhóm các nước nghèo với mức thu nhập bình

quân đầu người thấp trong những năm 1986, Việt Nam đã vươn lên với nhiều

115

thành tựu vượt bậc trong giai đoạn 1991 – 2020, trở thành quốc gia thuộc nhóm

có thu nhập trung bình, mà yếu tố có đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng

mạnh mẽ này là CSTK – tổ chức và thực hiện ngân sách theo hướng hỗ trợ tăng

trưởng kinh tế và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lành mạnh. Các phân tích về thực

trạng và kết quả thực nghiệm từ các mô hình phân tích định lượng đã cho thấy

các chính sách thu NSNN, chính sách chi NSNN đóng vai trò quan trọng đối

với tốc độ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế trong dài hạn.

Về công tác xây dựng và ban hành chính sách, nhìn chung, hệ thống các

chính sách tài khoá của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện theo hướng

nâng cao tính pháp lý: các văn bản luật quan trọng như Luật NSNN, các luật

Thuế đều được nghiên cứu và hoàn thiện; các chính sách thu – chi NSNN được

liên tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quá trình cải cách nền kinh tế và đổi

mới công tác quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, nhờ

đó, trở thành nguồn động viên tốt cho nguồn thu của NSNN, cũng như công cụ

có hiệu quả trong điều tiết kinh tế vĩ mô [32].

Quá trình cải cách hệ thống thuế, với sự ra đời và hoàn thiện của các sắc

thuế, luật thuế, nghị định và thông tư, vừa giúp tạo nên sự thống nhất giữa các

thành phần kinh tế trong tình hình mới (bình đẳng về thuế giữa các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế), vừa bao quát hết các nguồn thu chủ yếu

cho NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong khi vẫn đảm bảo tuân

thủ các nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường, từng bước hoà nhập với

các quy tắc và thông lệ quốc tế, đồng thời, thích ứng với mục tiêu TTKT trong

thời kỳ đổi mới [62].

Cơ cấu thu NSNN đã có nhiều cải thiện theo hướng bền vững hơn: tỷ trọng

thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng dần, mà trong đó, các khoản thu có tính

chất một lần như thu từ đất, tài nguyên… giảm dần và được thay thế bằng các

khoản thu gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa như thuế

GTGT, thuế TNDN; giảm dần tỷ trọng các nội dung thu từ nước ngoài như dầu

116

thô, xuất nhập khẩu ròng trong tổng thu NSNN [62] [32], giảm bớt sự phụ thuộc

của thu NSNN vào sự biến động của thị trường quốc tế.

Về quá trình thực hiện chính sách, nhờ hệ thống chính sách về quản lý NS

từng bước được hoàn thiện, thông qua những lần sửa đổi Luật NSNN, sự phân

định về nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp chính quyền, thẩm quyền của

các cơ quan nhà nước trong việc lập, phê chuẩn, quyết toán NSNN càng ngày

rõ ràng [62], đáng chú ý là sự phân cấp, phân quyền này được triển khai sâu

rộng đến các địa phương, cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp. Nhờ đó, kỷ

luật ngân sách được thiết lập và duy trì ở mức cơ bản.

Các thủ tục hành chính được cải cách, đổi mới theo hướng đơn giản hoá

(quy chế một cửa, tự kê khai nộp thuế). Chính sách quản lý cũng được đơn giản

hoá, minh bạch và dân chủ hoá, tạo điều kiện cho các đối tượng thuộc phạm vi

điều chỉnh có thể dễ dàng thực hiện. [32]

2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Giai đoạn 1991 – 2000:

❖ Hạn chế:

Chính sách chi NSNN trong giai đoạn này tập trung quá nhiều vào chi

thường xuyên (luôn chiếm trên 50% tổng chi NSNN). Tuy cơ cấu của chi

thường xuyên có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng dần tỷ lệ chi sự

nghiệp cho giáo dục – đào tạo, và giảm dần tỷ lệ chi cho bộ phận quản lý nhà

nước, nhưng vẫn lấn át tỷ trọng chi NSNN cho các hoạt động đầu tư phát triển,

làm hạn chế hiệu quả của đầu tư công đến TTKT.

❖ Nguyên nhân khách quan:

Những khó khăn trong giai đoạn Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế kế

hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận

hành theo cơ chế bán thị trường, bắt đầu từ những năm 1986-1990, tiếp tục gây

ảnh hưởng đến TTKT trong giai đoạn này. Tuy sản xuất và lưu thông hàng hoá

có nhiều động lực phát triển mới, tình trạng thiếu lương thực căn bản được giải

117

quyết, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành trái phiếu phục vụ cho chi

thường xuyên đã chấm dứt, lạm phát phi mã được đẩy lùi, nhưng tỷ lệ lạm phát

vẫn còn ở mức cao [62]. Các thành phần kinh tế tiếp tục được định hình, các

hoạt động kinh tế có nhiều sự thay đổi mạnh mẽ, khiến cho chính sách thu

NSNN chưa bắt kịp với thực tiễn.

Trên thế giới, một số diễn biến quan trọng: cuộc khủng hoảng tài chính

châu Á năm 1997, chính sách cấm vận và bao vây kinh tế của Mỹ và các thế

lực thù địch, sự tan rã của Liên Xô và khối các nước XHCN ở Đông Âu, đã gây

ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng đến nền kinh tế trong nước: thị trường xuất

nhập khẩu của Việt Nam bị thu hẹp đáng kể, tổng mức lưu chuyển ngoại thương

với khu vực đồng Rúp giảm rõ rệt, nhiều chương trình hợp tác liên doanh bị

phá vỡ, các khoản viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi đột ngột chấm dứt

[66]. Vì vậy, NSNN cho chi thường xuyên giai đoạn này phụ thuộc nhiều vào

thu ngân sách nội địa (luôn chiếm tỷ lệ trên 50% tổng thu NSNN) và thu từ dầu

thô (dao động trong khoảng 11,36% đến 25,93% tổng thu NSNN).

Do đó, để thực hiện mục tiêu kép, đối phó với ảnh hưởng của khủng hoảng

tài chính và kiểm soát lạm phát, Chính phủ thực hiện CSTK thắt chặt. Tuy

nhiên, trong điều kiện bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, cần nhiều nguồn

lực để duy trì hoạt động, việc tiêu tốn vào hoạt động chi thường xuyên sẽ làm

giảm nguồn lực dành cho hoạt động đầu tư.

❖ Nguyên nhân chủ quan:

Một mặt, nhà nước thực hiện nhiều chính sách cải thiện mức sống của

người dân như phổ cập giáo dục, xoá đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng

chăm sóc y tế, đòi hỏi các khoản chi lớn cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo và y

tế trong chi thường xuyên của NSNN. Mặt khác, tuy NSNN đã dành một khoản

chi không nhỏ (700 nghìn tỷ đồng, tương đương 27,7% trên GDP trong 10 năm)

cho hoạt động đầu tư phát triển, nhưng do lựa chọn cơ cấu đầu tư chưa hợp lý,

bị dàn trải, lãng phí, và thất thoát, nên hệ số ICOR tăng nhanh chóng [66]. Nói

118

cách khác, trong giai đoạn này, hiệu quả tác động của chi ĐTPT đối với TTKT

thấp và sụt giảm nhanh chóng.

2.4.2.2. Giai đoạn 2001 – 2010

❖ Hạn chế:

Hạn chế nổi bật trong suốt giai đoạn này là mức thâm hụt ngân sách vẫn

có xu hướng tăng cao và kéo dài. Chi NSNN diễn biến theo hướng giảm chi

đầu tư công và tăng chi thường xuyên. Trong khi đó, với mô hình tăng trưởng

theo chiều rộng của Việt Nam giai đoạn này, việc thu hẹp đầu tư công sẽ tạo ra

nhiều hạn chế cho mục tiêu TTKT nhanh [32]. Đồng thời, đối với các nước

đang phát triển và thực hiện công nghiệp hoá như Việt Nam, sự sụt giảm chi

đầu tư công là dấu hiệu không tốt, bởi nó vốn được xem là công cụ để cải thiện

cơ sở hạ tầng kỹ thuật và nền tảng xã hội, tạo nên điểm thu hút đầu tư tư nhân,

vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực cho TTKT [37].

Bên cạnh đó, hệ thống các CSTK thường xuyên thay đổi, thiếu sự ổn định

trong trung hạn và bền vững trong dài hạn, vừa khiến cho doanh nghiệp liên

tục gặp khó khăn để ứng phó với sự thay đổi của chính sách, vừa làm giảm tính

hiệu lực, hiệu quả của chính sách [32].

❖ Nguyên nhân khách quan:

Sau khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại quốc tế, đặc biệt

là gia nhập WTO (07/11/2006) phải cắt giảm và điều chỉnh hàng loạt các biện

pháp thuế quan. Trong khi đó, quá trình cải cách hành chính thuế còn chậm,

khiến cho số thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh [37].

Chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 2007 – 2010, sự bất ổn của thị

trường dầu thế giới, và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009, tăng trưởng kinh

tế Việt Nam có xu hướng giảm, tình trạng lạm phát có xu hướng tăng cao hơn,

biên độ dao động lơn hơn, và kéo dài lâu hơn so với các nước trong khu vực và

trên thế giới [32]. Vì thế, Chính phủ đứng trước các quyết định khó khăn cho

chính sách tài khoá: thực hiện CSTK mở rộng, đồng nghĩa với tăng chi NSNN,

119

để vừa chăm lo đời sống, an sinh xã hội cho người dân, vừa tạo nền tảng kích

cầu đầu tư, kích thích TTKT, hay CSTK thắt chặt để kiểm soát thâm hụt ngân

sách và kiềm chế lạm phát, nhưng đồng nghĩa với thu hẹp đầu tư công và hạn

chế tốc độ TTKT.

❖ Nguyên nhân chủ quan:

Bên cạnh khoản thu từ khu vực kinh tế nhà nước, cơ cấu thu theo lĩnh vực

trong giai đoạn này thiên về thu từ khai thác dầu khí và xuất nhập khẩu ròng

(chiếm gần 40% tổng thu NSNN hàng năm), nhưng hai khoản thu này thiếu

tính vững chắc vì chịu nhiều ảnh hưởng từ sự nhiễu động của thị trường hàng

hoá thế giới [32]. Mặt khác, mặc dù tổng thu NSNN thực hiện được vượt trên

21% so với dự toán ngân sách hằng năm, cao hơn mức vượt của tổng chi NSNN

thực hiện so với dự toán (khoảng 14%), nhưng số tiền tổng chi NSNN qua các

năm luôn cao hơn số tiền tổng thu NSNN, nên số tuyệt đối về thâm hụt ngân

sách vẫn hầu như tăng cao và kéo dài trong suốt giai đoạn. [32]

Giữa các nội dung chi thường xuyên, tuy tỷ trọng chi đầu tư phát triển trên

GDP tăng, tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN giảm do trong

giai đoạn này, Nhà nước dành sự ưu tiên chi thường xuyên cho chương trình

cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội, với mức tăng chi bình

quân trên 33%/năm, cao hơn tốc độ tăng của thu NSNN, chi NSNN, đồng thời,

thực hiện bốn lần điều chỉnh tiền lương tối thiểu với tốc độ tăng cao hơn tốc độ

tăng giá cùng thời kỳ [37] [62]. Bên cạnh đó, nhằm chặn đà suy giảm kinh tế

và ổn định các biến số vĩ mô, Chính phủ đã triển khai CSTK mở rộng, bao gồm

các gói hỗ trợ lãi suất (gói 17.000 tỉ đồng, và gói 8 tỉ USD) nhằm kích cầu đầu

tư và phát triển sản xuất. Tuy chính sách này đã giúp cải thiện tốc độ TTKT

(đạt 5,4% năm 2009) và đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát (từ 23% năm

2008 giảm còn 6,88% năm 2009) [38], nền kinh tế vĩ mô tiềm ẩn nhiều yếu tố

bất ổn: nguy cơ lạm phát cao quay trở lại do lượng cung tiền khá lớn đã được

bơm vào thị trường năm 2008, 2009; nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán do

120

tình trạng nhập siêu trong hai năm trước đó, nếu kết hợp với tái lạm phát cao

thì có thể gây ra tình trạng lạm phát kép - vừa lạm phát trong nước, vừa nhập

khẩu lạm phát.

Trong khi những sự thay đổi của CSTK xuất phát từ mục đích xử lý các

vấn đề thực tiễn, chúng lại không phù hợp với trạng thái chu kỳ kinh tế: “…Đến

những năm 2000 - 2002, nền kinh tế chỉ mới đang trên đà phục hồi (vẫn còn ở

mức thấp hơn tiềm năng), thì trạng thái tài khóa liên tục kiềm chế ở mức 3%

GDP. Bắt đầu từ năm 2005, nền kinh tế tăng trưởng nhanh (trên mức tiềm

năng), thì trạng thái tài khóa lại liên tục mở rộng ở mức rất cao từ 4% đến 6%

GDP. Kết quả, trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, lượng tiền trong lưu

thông tăng tới 135%, trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam chỉ ở mức 27%.

Điều này có nghĩa, Nhà nước đã phát hành thêm một lượng tiền lớn hơn gấp

nhiều lần trị giá của cải mà xã hội làm ra được trong 3 năm trên…” [38]. Hệ

quả là hệ số ICOR của Việt Nam tăng rất cao (trên 5), tức là khả năng hấp thụ

vốn cho TTKT rất yếu, do đó, khi tổng cầu đầu tư tăng do được kích thích tài

khoá, chỉ có giá cả tăng chứ không làm tăng sản lượng. Như vậy, CSTK thay

đổi không những không mang đến hiệu quả giảm biến động của chu kỳ kinh tế

mà còn làm tăng nguy cơ bất ổn trong tương lai.

2.4.2.3. Giai đoạn 2011 – 2020

❖ Hạn chế:

Cơ chế giám sát thu NSNN, chi NSNN chưa được cải thiện. Các chính

sách ưu đãi vẫn còn dài trải và thiếu hiệu quả nên hoạt động thu NSNN chưa

phát huy được vai trò phân bổ nguồn lực xã hội của NSNN. Cơ cấu chi NSNN

và kỷ luật tài khóa không được cải thiện, nhu cầu chi tiêu vượt xa so với khả

năng thu. [33]

Tỷ lệ thâm hụt NSNN vẫn ở mức cao, nhiều năm trên 5% (6,1% trên

GDP giai đoạn 2011 - 2015, và khoảng 4% giai đoạn 2016 – 2019) [37]. Trong

bối cảnh các khoản thu NSNN sụt giảm mạnh do những điều kiện bắt buộc khi

121

gia nhập thị trường thế giới và các hiệp định hợp tác, cũng như ảnh hưởng của

đại dịch Covid-19, thâm hụt NSNN có xu hướng trầm trọng hơn, các hạng mục

đầu tư được thực hiện bằng nguồn vốn đầu tư công sẽ khó đảm bảo được tính

ổn định và liên tục để thúc đẩy TTKT.

❖ Nguyên nhân khách quan:

Giai đoạn 2019 - 2020, nước ta phải đối mặt với nhiều thiên tai, dịch bệnh

gây thiệt hại nặng nề, đặc biệt là đại dịch Covid-19. Sự bùng phát nhanh chóng

của dịch bệnh và các hoạt động phong tỏa, giãn cách để phòng chống dịch bệnh

đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống KTXH của cả nước cũng như sự

biến động của thị trường nước ngoài, các nguồn thu lớn cho NSNN sụt giảm

mạnh. Đồng thời, chi thường xuyên tăng chủ yếu là do tăng chi để thực hiện

các chính sách về an sinh xã hội trong bối cảnh dịch bệnh.

❖ Nguyên nhân chủ quan:

Nhìn vào số liệu về tỷ lệ thâm hụt NSNN, tuy mức thâm hụt có giảm

xuống, nhưng nhìn chung cấu trúc thu - chi NSNN chưa có cải thiện nhiều so

với giai đoạn trước đó. Phần lớn sự cải thiện trong số liệu về thâm hụt NSNN

kể từ năm 2017 là do việc thay đổi cách hạch toán (không tính chi trả nợ gốc),

không phải xuất phát từ việc cải thiện cơ cấu chi NSNN và kỷ luật tài khoá.

Hệ thống thuế có nhiều ưu đãi, đặc biệt là trong giai đoạn bùng phát Covid-

19 và hậu Covid, nên tổng thu NSNN sụt giảm. Tuy nhiên, hiệu quả của một

số chính sách ưu đãi thuế còn hạn chế trong thúc đẩy phát triển sản xuất kinh

doanh. Các sắc thuế phải đảm nhận nhiều chức năng, nhiều mục tiêu làm giảm

tính trung lập của thuế.

Tốc độ tăng thu NSNN trong những năm đầu khá cao nhưng vẫn thấp hơn

tốc độ tăng GDP [32], và ngày càng giảm trong những năm cuối của giai đoạn,

do đó, tỷ lệ thu NSNN trên GDP có xu hướng giảm [37]. Tốc độ tăng chi NSNN

tuy có giảm [33]), nhưng quy mô chi trên GDP vẫn lớn và có xu hướng tăng

[37]), khiến cho tỷ lệ thâm hụt NSNN ngày càng cao [32]. Riêng năm 2020,

122

hoạt động SXKD bị đình trệ do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nguồn thu

NSNN giảm mạnh, trong khi các khoản chi NSNN để ứng phó với đại dịch lại

tăng, do đó, thâm hụt NSNN tăng lên [37]. Nhìn chung trong suốt giai đoạn

này, cơ cấu chi NSNN chưa hợp lý, trong tổng chi NSNN, tỷ trọng chi thường

xuyên cao (gần như không có năm nào dưới 60%) và có xu hướng tăng, chi đầu

tư phát triển còn thấp (dưới 30%) và duy trì ổn định qua các năm. Tình trạng

thâm hụt NSNN kéo dài vừa làm gia tăng nợ công và áp lực trả nợ hàng năm,

vừa hạn chế mức tích lũy ngân sách cho đầu tư phát triển. Do đó, quá trình đầu

tư phát triển các hạ tầng kỹ thuật xã hội bị chậm trễ, kéo dài, làm giảm sự hấp

dẫn đối với đầu tư tư nhân, kéo theo sự giảm tốc của TTKT.

Tiểu kết chương 2

Thực trạng CSTK hướng tới TTKT của Việt Nam giai đoạn 1991-2020

được tác giả đánh giá dựa trên các thông tin, dữ liệu thu thập và quan sát được.

Cụ thể, trong những giai đoạn 10 năm gắn với những định hướng mục tiêu phát

triển kinh tế khác nhau thì CSTK cũng được điều chỉnh để kịp thời đáp ứng các

định hướng đó.

Giai đoạn 1991-2000 là giai đoạn đánh dấu phát triển kinh tế theo cơ chế

thị trường có sự định hướng của Nhà nước, do đó CSTK cũng buộc phải có sự

điều chỉnh cải cách cho phù hợp với cơ chế mới. CSTK được điều hành theo

hướng thận trong, tương đối thắt chặt. Theo đó, các loại thuế góp phần thúc đẩy

phát triển KTTT theo các nguyên tắc cơ bản được ban hành và thực hiện bao

gồm thuế lợi tức, thuế TTĐB, thuế XK, thuế NK, thuế SDĐNN, thuế chuyển

quyền sử dụng đất…Chi ngân sách thực hiện theo hướng giảm bớt các khoản

chi cho QLNN.

Đến giai đoạn 2001-2010, mục tiêu của Đảng và Nhà nước là đưa GDP

năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, nâng cao hiệu quả hoạt động của nền

kinh tế thông qua các biện pháp CSTK hỗ trợ, thúc đẩy sức cạnh tranh của

doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu sản xuất hướng tới

123

đẩy mạnh xuất khẩu và tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. CSTK được

thực hiện tập trung theo hướng mở rộng, cụ thể giảm thuế suất thuế TNDN và

thuế TNCN, đơn giản hóa hệ thống thuế…và tăng chi ĐTPT thông qua các

chương trình kích cầu từ nguồn vốn ngân sách và phát hành trái phiếu chính

phủ. Tuy nhiên không thực hiện tăng chi ĐTPT một cách quá tràn lan mà vẫn

kiểm soát và cắt giảm các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và không có hiệu

quả rõ rệt. Khi TTKT đạt tích cực nhưng do lượng cung tiền khá lớn được Nhà

nước bơm vào nền kinh tế những năm 2008-2009 khiến cho lạm phát tăng cao.

Khi đó CSTK được điều chỉnh theo hướng thắt chặt giảm chi ĐTPT, tăng chi

cho con người (tập trung chi cho các chương trình xóa đói giảm nghèo và việc

làm, chi lương…).

Sang đến giai đoạn 2011-2020, mục tiêu tốc độ TTKT khá cao 7-8% và

nâng cao chất lượng TTKT theo hướng đẩy mạnh tỷ trọng đóng góp vào GDP

của các ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng như công nghiệp, công nghệ và dịch

vụ. CSTK tiếp tục được thực hiện theo hướng thắt chặt trong những năm đầu

của giai đoạn 2011-2020 (chẳng hạn tăng thuế suất thuế TTĐB theo lộ trình đối

với một số loại hàng hóa nhất định, cắt giảm chi đầu tư, tiết kiệm chi thường

xuyên, tinh giản biên chế…). Tuy nhiên, khi dịch bệnh Covid-19 xuất hiện, mọi

hoạt động của nền kinh tế bị tác động nghiêm trọng và bất ngờ, do đó CSTK bị

thay đổi hoàn toàn và đột ngột (không như định hướng ban đầu của Đảng và

Nhà nước), thay vào đó CSTK buộc phải thực hiện theo hướng mở rộng một

cách linh hoạt và kịp thời thông qua các gói hỗ trợ lớn. Cụ thể miễn/giảm các

nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp và cá nhân nhằm tăng cường tiềm lực tài chính

cho doanh nghiệp tái đầu tư và mở rộng SXKD và tăng chi cho y tế trong các

hoạt động chữa, phòng và kiểm soát dịch bệnh.

Tác giả áp dụng mô hình ARDL để kiểm định tác động của CSTK hướng

tới TTKT của Việt Nam dựa theo chuỗi số liệu thời gian 1991-2020. Kết quả

124

thực nghiệm cho thấy các điều chỉnh về CSTK đều có tác động hướng tới TTKT

cả trong ngắn hạn và dài hạn.

Trong ngắn hạn, khoản thu từ dầu thô tăng lên giúp tạo thêm nguồn lực

cho NSNN, qua đó thúc đẩy TTKT nhưng về dài hạn thì thu từ dầu thô lại

không có tác động tích cực đến TTKT do khoản thu từ dầu thô không có tính

chất ổn định, do đó thu từ dầu thô dần được coi là khoản thu đáp ứng tạm thời

cho nhu cầu chi ngân sách ở những thời điểm nhất định. Thu nội địa trong ngắn

hạn lại có ảnh hưởng tiêu cực đến TTKT do sự sụt giảm trong thu nhập khả

dụng làm suy giảm tổng cầu, tuy nhiên xét về dài hạn, thu nội địa có hiệu ứng

rất tích cực đến TTKT. Thu từ xuất nhập khẩu trong ngắn hạn không có nhiều

tác động đến TTKT nhưng trong dài hạn lại có tác động.

Trong dài hạn, chi đầu tư và chi thường xuyên từ NSNN có vai trò rất lớn

trong việc thúc đẩy TTKT, còn chi trả nợ không có tác động đến TTKT, nguyên

nhân do chi đầu tư và chi thường xuyên làm tăng cầu về lao động, dẫn đến tiền

lương thực tế tăng, nhờ đó cầu tiêu dùng tăng. Như vậy phát hiện có ngụ ý rằng,

trong dài hạn CSTK mở rộng sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy

TTKT. Tuy nhiên trong ngắn hạn, chi đầu tư được tìm thấy là không có tác

động tích cực đến TTKT do khi Chính phủ tăng chi đầu tư quá mức khiến cho

đầu tư từ phía khu vực tư nhân bị hạn chế, thậm chí bị lấn át, do đó dường như

chi đầu tư của Chính phủ được cho rằng sẽ thúc đẩy TTKT nhưng thực tiễn cho

thấy khi tính cả hiệu ứng kết hợp với khu vực tư nhân thì hoạt động của tư nhân

không phát huy được thế mạnh khiến cho TTKT có xu hướng giảm. Ngược lại,

chi trả nợ được tìm thấy có tác động tích cực lên TTKT trong ngắn hạn do hoạt

động trả nợ giúp Chính phủ đảm bảo được các xếp hạng tín dụng, từ đó thúc

đẩy hoạt động đầu tư.

125

CHƯƠNG 3 : HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG

TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

3.1 DỰ BÁO BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC TÁC

ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030

3.1.1 Dự báo bối cảnh thế giới đến năm 2030

Bối cảnh thế giới trong một thập kỷ tới sẽ tiếp tục thay đổi nhanh chóng.

Diễn biến khó lường của đại dịch Covid-19 đã và đang gây ra nhiều sự suy

thoái trong xã hội và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, buộc thế giới phải thay đổi

phương thức quản trị, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội.

Cục diện chính trị, kinh tế, xã hội được dự báo sẽ trải qua giai đoạn phát triển

mới với những điều chỉnh căn bản. Kinh tế thế giới đang chuyển sang chu kỳ

tăng trưởng mới với nhiều rủi ro tiềm ẩn, trong đó, châu Á - Thái Bình Dương

và Ấn Độ Dương tiếp tục là trung tâm kinh tế phát triển năng động và trở thành

trung tâm quyền lực mới của thế giới. Tính phức tạp của cạnh tranh kinh tế sẽ

ngày càng tăng và có sự đan xen giữa các lĩnh vực. Các nước lớn sẽ tiếp tục gia

tăng cạnh tranh nhằm tập hợp lực lượng thông qua đẩy mạnh các sáng kiến liên

kết kinh tế.

Đẩy mạnh tái cơ cấu, chuyển đổi chiến lược và mô hình tăng trưởng vẫn

là xu thế chung trong thay đổi tư duy kinh tế và phát triển của nhiều nền kinh

tế. Sự phát triển của KH&CN tiếp tục tái định hình nền kinh tế toàn cầu.

KH&CN sẽ tiếp tục phát triển nhanh, vượt bậc trong một số lĩnh vực, điển hình

là công nghệ thông tin, công nghệ chế tạo và tự động hóa. Thay đổi về công

nghệ góp phần làm tăng hiệu suất nhưng cũng là thách thức đối với các mô hình

kinh doanh hiện nay. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, tác

động ngày càng sâu rộng đến đời sống KTXH toàn thế giới cũng như phương

thức quản lý KTXH ở các quốc gia.

126

Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF (2018), cuộc CMCN 4.0 dự kiến sẽ

tạo ra tới 3,7 nghìn tỷ đô la giá trị vào năm 2025 nhờ các công nghệ IoT, robot

và in 3D giúp năng suất tăng, TTKT thông qua việc tối ưu hóa nguồn lực, thúc

đẩy lưu thông vốn và hàng hóa, tăng cường vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và

phát triển công nghệ sẽ được thúc đẩy bởi sự phát triển của kinh tế chia sẻ,

chiến lược Made in China 2025 của Trung Quốc và xu hướng tăng cường ký

kết FTA tại các nền kinh tế đang phát triển.

Nhiều hình thái kinh tế mới đang được định hình như kinh tế mạng, kinh

tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn. Cùng với đó, các chuỗi giá trị toàn cầu, chuỗi cung

ứng toàn cầu mở rộng nhanh chóng.

Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế nổi trội trong quan hệ

quốc tế. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là xu hướng tiến bộ nhưng gặp nhiều

trở ngại, thách thức: các nước lớn trong khu vực và trên thế giới thực hiện nhiều

sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ có xu hướng

lan rộng và diễn biến khó lường. TTKT thế giới, thương mại và đầu tư quốc tế

có xu hướng giảm trong bối cảnh nợ công toàn cầu tăng, những rủi ro tài chính

trên thị trường quốc tế gia tăng. Xu hướng dịch chuyển các dòng vốn đầu tư ra

khỏi một số nền kinh tế mới nổi và đang phát triển (điển hình là Trung Quốc)

đã và đang được thực hiện như một chiến lược dài hạn nhằm đa dạng hoá nguồn

cung, thị trường, phân tán rủi ro không chỉ của các doanh nghiệp toàn cầu mà

còn là của các Chính phủ.

Thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều vấn đề như biến đổi khí hậu, ô nhiễm

môi trường, an ninh năng lượng, lương thực, nguồn nước, an ninh mạng, dịch

bệnh, đặc biệt là trong thời gian gần đây, các dịch bệnh liên quan tới người và

gia súc có tính chất lây nhiễm cao có ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống

KTXH đang diễn biến phức tạp như đại dịch Covid-19, bệnh bạch hầu,...(đối

với người), cúm gia cầm, lở mồm long móng,... (đối với gia súc, động vật,...);

127

tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, vấn đề người di cư. Bên cạnh đó, dân số

thế giới tăng và cơ cấu dân số thay đổi theo hướng già hóa, quá trình đô thị hóa

diễn ra nhanh, mạnh, đặc biệt ở các nước đang phát triển, tiếp tục đặt ra những

thách thức về tạo công ăn việc làm, đảm bảo phúc lợi, phát triển hệ thống an

sinh xã hội, tiếp cận chăm sóc y tế, giáo dục, di cư bên trong và ngoài các quốc

gia.

Bảng 3.1. Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới, một số quốc

gia và khu vực kinh tế lớn

Đơn vị: %

Nước/nhóm nước IMF WB

Năm 2021 2022f 2023f 2022f 2023f

Thế giới 5,8 3,2 2,7 2,8 2,3

Các nền kinh tế phát triển 5,1 2,4 1,1 2,6 2,2

Các thị trường mới nổi và 6,3 4,4 3,6 3,4 4,4 quốc gia đang phát triển

Khu vực đồng EURO 3,1 0,5 2,5 2,1 5,4

Một số quốc gia ASEAN 5,3 4,9 5,1 5,2 5,8

Mỹ 1,6 1 2,5 2,6 5,7

Nhật Bản 1,7 1,6 1,7 1,2 1,6

Trung Quốc 3,2 4,4 2,8 5,3 8,1

Ghi chú: f = forecast = dự báo

Nguồn: IMF [140] [141]; WB [199]

Ấn Độ 6,8 6,1 8,7 6,8 8,9

Việt Nam hiện là một trong số các quốc gia có độ mở lớn khi tổng giá trị

kim ngạch XNK xấp xỉ 2 lần GDP. Điều này khiến Việt Nam chịu tác động

trực tiếp, mạnh mẽ trước những biến động từ bên ngoài theo cả chiều tích cực

và tiêu cực. Qua đó, tác động đến việc ban hành và thực thi các chính sách về

128

kinh tế - tài chính. Với xu hướng biến động trong thời gian tới của địa chính trị

thế giới, một số cơ hội và thách thức đặt ra cho CSTK có thể nhận diện như

sau:

3.1.1.1. Cơ hội

Thứ nhất, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài, mang lại khả năng mở rộng

cơ sở thu NSNN.

Hiện Việt Nam được đánh giá là địa điểm đầu tư được quan tâm của các

nhà đầu tư quốc tế. Với lợi thế về môi trường chính trị ổn định, vị thế ngày càng

được nâng cao, hệ thống cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là

môi trường pháp lý ngày càng cải thiện, Việt Nam đang thu hút mạnh mẽ các

nhà đầu tư toàn cầu. Thời gian qua, các cuộc xung đột kinh tế, chính trị, xu

hướng dịch chuyển vốn đầu tư khỏi các nước mới nổi và đang phát triển đã

mang lại cho Việt Nam khả năng thu hút được các dòng vốn đầu tư quốc tế đến

từ các nhà đầu tư lớn như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…

Bên cạnh thu NSNN trực tiếp từ thuế do hoạt động của các doanh nghiệp

FDI, các doanh nghiệp này còn đóng góp trong việc phát triển hệ thống các

doanh nghiệp nội địa, nâng cao thu nhập cho người lao động. Qua đó, góp phần

nâng cao mức động viên từ thuế cho NSNN.

Thứ hai, yêu cầu huy động nguồn lực cho NSNN phù hợp với bối cảnh

vị thế, cạnh tranh của Việt Nam.

Trong xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới, đòi hỏi Việt Nam cần

có sự thay đổi trong các chính sách phát triển KTXH nhằm đảm bảo khả năng

cạnh tranh quốc gia. Việt Nam mới chỉ gia nhập các nước có thu nhập trung

bình vào năm 2008, và hiện là nước thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp.

Trong điều kiện là quốc gia còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, trình độ

KH&CN, chất lượng nguồn nhân lực, nguồn tài chính đầu tư, việc gia tăng

nguồn lực tài chính đầu tư cho các lĩnh vực trên đặt ra yêu cầu cấp thiết với

129

chính sách thu thuế, nhất là trong bối cảnh thu từ thuế luôn chiếm tỷ trọng lớn

cơ cấu thu NSNN.

Việc tăng khả năng huy động nguồn lực tài chính là việc làm cần thiết,

tuy nhiên việc này cần thực hiện theo hướng hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của

từng thời kỳ nhất định. Đặc biệt, huy động cần đặt trong mối quan hệ với thực

trạng hoạt động của nền kinh tế, chiến lược phát triển chung, phát triển ngành,

lĩnh vực của đất nước.

3.1.1.2. Thách thức

Thứ nhất, độ mở cao của nền kinh tế khiến kinh tế trong nước và thu

NSNN chịu ảnh hưởng lớn bởi yếu tố bên ngoài.

Với việc nền kinh tế chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố bên ngoài như

những biến động kinh tế, chính trị, xã hội thế giới, sẽ khiến hoạt động kinh tế

của các doanh nghiệp trong nước bị chi phối ngày càng mạnh, kéo theo đó là

tính hiệu quả và khả năng đóng góp cho NSNN.

Việc khối các doanh nghiệp FDI đóng góp ngày càng quan trọng cho

kinh tế trên các khía cạnh đóng góp vào tăng trưởng, thu NSNN và xuất nhập

khẩu. Việc này sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu thu NSNN Việt

Nam trong giai đoạn tới, nhất là khi dòng vốn này có những biến động lớn do

sự biến động của tình hình thế giới. Do vậy, đặt ra nhiều yêu cầu đối với tính

linh hoạt, phù hợp và tính bền vững của hoạt động thu NSNN.

Thứ hai, việc ký kết nhiều FTA đặt ra nhiều thách thức cho thu NSNN

từ thuế.

Hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới,

với việc ký kết và đang đàm phán 17 FTA, trong đó có các FTA thế mới

(CPTPP, EVFTA, RCEP), những cam kết miễn, giảm thuế sâu (nhiều loại thuế

về 0%) trong các lộ trình dẫn đến giảm thu NSNN từ thuế. Đây rõ ràng đặt ra

nhiều thách thức cho hoạt động thu NSNN.

130

Bên cạnh đó, thu từ hoạt động của các doanh nghiệp trong nước có thể

giảm sút khi các doanh nghiệp này có thể giảm về số lượng và khả năng hoạt

động do không cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Việc áp thuế

ở mức 0%, trong khi chất lượng, mẫu mã, thương hiệu tốt hơn, nguồn lực tài

chính và khả năng quản lý hiệu quả hơn của các doanh nước ngoài sẽ khiến

nhiều doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn nếu không thay đổi và nâng cao

hiệu quả hoạt động.

3.1.2 Dự báo bối cảnh trong nước đến năm 2030

Trong thời gian tới, bối cảnh KTXH Việt Nam sẽ có một số điểm nổi

bật:

Thứ nhất, kinh tế vĩ mô tiếp tục được đảm bảo ổn định đặc biệt là các

các cân đối lớn của nền kinh tế, an ninh tài chính được bảo đảm. Môi trường

kinh doanh, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện, trong khi mô

hình tăng trưởng được chuyển đổi theo hướng phát triển hài hoà giữa chiều

rộng và chiều sâu. Cùng với đó, thể chế kinh tế tiếp tục được kiện toàn, thực

hiện đồng bộ, hiện đại; hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và sẽ có

nhiều ảnh hựởng sâu sắc đến nền kinh tế trong nước.

Thứ hai, cuộc CMCN 4.0 với đặc trưng của công nghệ vật lý, công nghệ

số, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo… hình thành nên những công nghệ mới

giúp nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động của con người tăng

nhanh, tạo nền tảng cho sự vận động và phát triển các quan hệ kinh tế, quan hệ

xã hội, quan hệ quốc tế… theo hướng thông minh, tốc độ cao, năng suất lao

động cao.

Kinh tế số đang được nhiều quốc gia tập trung phát triển. Tốc độ phát

triển của kinh tế số tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ ở mức cao. Theo ước

tính của Google và Temasek trong Báo cáo Kinh tế số Đông Nam Á E-conomy

năm 2020 thì nền kinh tế internet của Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 16 tỷ

131

USD, năm 2021 là 21 tỷ USD và dự báo đến năm 2025 sẽ đạt mức 54 tỷ USD.

[127]

Thứ ba, ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19 với nhiều khó khăn nhưng

cũng là cơ hội cho Việt Nam khẳng định vai trò và vị thế trên trường quốc tế.

Năm 2020, mặc dù chịu tác động lớn của đại dịch Covid-19, nhưng nhờ sự vào

nỗ lực của Đảng, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp, nhân dân cả nước,

TTKT Việt Nam được xếp vàp nhóm cao nhất trong khu vực và thế giới, là một

trong số ít quốc gia đạt mức tăng trưởng dương trong khu vực Đông Nam Á

nói riêng cũng như khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, và là một

trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trong bối cảnh dịch bệnh.

Thứ tư, các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ giúp thúc đẩy tự do hóa

thương mại đồng thời với khả năng gia tăng các hàng rào bảo hộ thương mại

phi thuế quan. Xu hướng ký kết các FTA song phương đang và sẽ tiếp tục trong

giai đoạn tới. Phạm vi điều chỉnh của các FTA cũng rộng hơn, không chỉ là cắt

giảm thuế quan và thuận lợi hóa thương mại mà còn các lĩnh vực liên quan đến

cách thức sản xuất hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh

tranh, mua sắm công; mức độ tự do hóa cao và hình thành trên cơ sở liên kết

giữa các đối tác thuộc các khu vực địa lý khác nhau, đặc biệt là giữa các nước

phát triển và đang phát triển.

Việt Nam đã tham gia ngày càng sâu vào thị trường thế giới, việc tham

gia vào các FTA này mang lại nhiều cơ hội cho việc phát triển thị trường tiêu

thụ hàng hóa, dịch vụ cũng như cơ hội để tiếp thu những thành tựu KH&CN,

quản lý, vốn từ thế giới nhưng cũng mang lại không ít thách thức. Bên cạnh đó,

việc ký kết các FTA đồng nghĩa với việc Việt Nam phải tiến hành mở cửa hơn

nữa thị trường, cơ chế, chính sách quản lý cũng cần thực hiện theo các quy

định, chuẩn mực của thế giới. Hội nhập sâu rộng hơn, đòi hỏi các chính sách

của Việt Nam cần linh hoạt hơn, mở hơn và tương thích nhiều hơn với thế giới.

132

Điều này cũng đặt ra nhiều thách thức với công tác quản lý nhằm giữ vững

được định hướng XHCN.

Thứ năm, các thách thức đến từ cơ cấu kinh tế, an ninh tài chính và xu

hướng già hoá dân số. Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, hình thành các động lực

tăng trưởng mới diễn ra còn chậm trong khi động lực tăng trưởng chủ yếu dựa

vào các nguồn lực đầu vào đã đi đến giới hạn. Các yếu tố kinh tế vĩ mô những

năm gần đây tuy sẽ được cân đối để ổn định hơn nhưng chưa đạt được tính bền

vững thực sự, trong đó có các cân đối liên quan đến tài chính công. Hiệu quả

sử dụng nguồn lực công còn thấp và chậm được cải thiện. Sự phụ thuộc của

TTKT vào khu vực FDI ngày càng cao.

Cùng với đó, Việt Nam còn phải đối mặt với những rủi ro tài chính và

sức ép nợ công gia tăng, các thách thức về nhân khẩu học trong dài hạn, dân số

Việt Nam có tốc độ già hoá nhanh và nhu cầu chi tiêu liên quan đến tuổi ước

tính sẽ tăng 8% GDP vào năm 2050 (IMF, 2018). Dự báo đến năm 2030, tỷ

trọng người cao tuổi Việt Nam chiếm 17% và năm 2050 là 25%.

Với bối cảnh KTXH trong nước hiện tại và những nền tảng phát triển

như trên, Việt Nam đặt ra một số mục tiêu tăng trưởng đến năm 2030 là tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân đạt khoảng 7%, GDP bình quân đầu người đạt

khoảng 7.500 USD, tổng đầu tư xã hội trên GDP bình quân đạt 33-35%, nợ

công trên GDP không vượt quá 60%, bội chi NSNN trên GDP duy trì khoảng

3% [9]. Các mục tiêu này đặt ra cho hoạt động huy động nguồn lực tài chính

nhiều cơ hội, kèm theo đó là các thách thức không nhỏ.

3.1.2.1. Về cơ hội

Thứ nhất, khả năng tăng thu NSNN khi kinh tế được dự báo tiếp tục tăng

trưởng ổn định, vị thế Việt Nam ngày càng cao trên thế giới.

Với việc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trở thành trung tâm trong

xu hướng PTKT thế giới tới, trong đó khu vực ASEAN và Việt Nam đã nổi lên

133

như khu vực năng động và giàu tiềm năng. Các hoạt động thương mại, đầu tư,

sản xuất được thúc đẩy mạnh mẽ trong khu vực sẽ dẫn tới khả năng phát triển

sản xuất trong nước (bao gồm cả hoạt động của khu vực FDI), đồng thời hoạt

động ngoại thương được tăng cường cũng mang lại khả năng mở rộng đối tượng

thu thuế, tăng thu NSNN.

Xu hướng dịch chuyển vốn đầu tư sang Việt Nam đang làm tăng cơ hội

thu hút FDI, qua đó tăng mức động viên vào NSNN. Với lợi thế về môi trường

chính trị ổn định, an toàn, đặc biệt sau những thành tựu quan trọng trong công

tác phòng, chống đại dịch Covid-19 được thế giới ghi nhận trong thời gian qua.

Nhiều nhà đầu tư quốc tế đã chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư mới hoặc thay

thế/bổ sung cho các thị trường trước đây.

Thứ hai, các hình thái kinh tế mới ra đời tạo ra khả năng tăng thu cho

NSNN.

Với sự phát triển của KH&CN hiện đại và xu hướng phát triển của thế

giới kéo theo sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các hình thái kinh tế mới

(kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn…), sẽ mở rộng đối tượng chịu

thuế, cho phép khả năng mở rộng cơ sở thu NSNN.

Nền kinh tế số thế giới hiện có trị giá hơn 3.000 tỷ USD trong khi kinh

tế số của Việt Nam trị giá 12 tỷ USD, đóng góp 5% GDP quốc gia trong năm

2019, nâng lên 14 tỷ USD vào năm 2020 và được dự báo sẽ tăng lên mức 52 tỷ

USD vào năm 2025. Tiềm năng từ các hoạt động trên là rất lớn, điều quan trọng

là Nhà nước cần phải xây được chính sách thu phù hợp, đồng thời là các biện

pháp quản lý thu hiệu quả.

Thứ ba, các thành tựu của KH&CN được áp dụng mạnh mẽ trong lĩnh

vực quản lý nhà nước, nhất là trong lĩnh vực thuế tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động thu, nộp thuế cũng như giảm các hiện tượng trốn, tránh thuế.

134

Với việc tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào hoạt

động của ngành thuế đã tạo ra hiệu ứng tích cực. Việc kê và nộp thuế được thực

hiện thông qua các ứng dụng trên mạng internet, người nộp thuế có thể thực

hiện mọi lúc, mọi nơi. Bên cạnh đó, công tác hướng dẫn tuyên truyền cũng

được thực hiện hiệu quả nhờ các ứng dụng hiện đại được triển khai hiệu quả

đến người nộp thuế cũng mang lại hiệu quả tích cực.

Hiện nay, ngành thuế còn ứng dụng nhiều phương pháp hiện đại nhằm

kiểm soát các hoạt động thương mại trong các mô hình kinh doanh mới, dẫn tới

giảm thiểu thất thu thuế cho NSNN.

3.1.2.2. Về thách thức

Thứ nhất, yêu cầu về phát triển bền vững, giải quyết các vấn đề KTXH

đặt ra các thách thức lớn cho hoạt động thu NSNN.

Trong điều kiện vừa thoát khỏi tình trạng nước có thu nhập thấp, chuyển

sang nhóm nước có thu nhập trung bình thấp, thực trạng già hóa dân số đang

đặt ra nhiều thách thức lớn không chỉ liên quan đến công tác chăm sóc sức khỏe

người cao tuổi mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển KTXH nói chung. Nhu cầu

đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng, giáo dục, phát triển KH&CN đòi hỏi cần ổn định

thu NSNN trong nước, phục vụ phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, vấn đề già hoá dân số ngày càng tăng, lực đẩy cho tăng

trưởng và lực hút với các nhà đầu tư nước ngoài từ nguồn lao động trẻ, chi phí

thấp đã giảm, điều này đặt ra yêu cầu phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo

hướng bền vững, hướng vào các lĩnh vực đòi hỏi kỹ năng, chuyên môn cao thay

vì lao động giản đơn. Đồng thời, già hoá dân số cũng đặt ra yêu cầu về hệ thống

phúc lợi, an sinh xã hội để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của đối tượng

này.

Thứ hai, rủi ro thất thu thuế từ các hoạt động thương mại điện tử, thương

mại xuyên quốc gia.

135

KH&CN ngày càng phát triển, tốc độ phát triển diễn ra nhanh và mạnh,

do vậy ra đời nhiều hình thức kinh doanh, đầu tư mới. Các hoạt động này diễn

ra giữa nhiều quốc gia khác, nhiều lĩnh vực và gây ra nhiều khó khăn trong

công tác quản lý, truy thu thuế.

3.2 QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHÍNH

SÁCH TÀI KHÓA HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT

NAM ĐẾN NĂM 2030

3.2.1 Quan điểm hoàn thiện chính sách tài khóa ở Việt Nam đến năm

2030

Thực tế, sau giai đoạn khủng hoảng do đại dịch bệnh Covid-19 xuất hiện

trên toàn thế giới, CSTK của Việt Nam đã bộc lộ nhiều khuyết điểm ở 02 khía

cạnh trọng tâm: (1) Cú sốc Covid-19 đòi hỏi Chính phủ phải ưu tiên thực hiện

các chính sách hỗ trợ, đồng thời triển khai các biện pháp phòng, chữa và kiểm

soátdịch bệnh, do Covid-19 đã làm gián đoạn hoặc ngưng trệ các hoạt động sản

xuất kinh doanh, hoạt động thương mại và ảnh hưởng đến kỳ vọng tăng trưởng

của một số ngành khiến cho tốc độ TTKT toàn nền kinh tế giảm mạnh. Điều

này khiến cho nguồn thu NSNN sụt giảm và các kế hoạch chi NSNN cũng phải

điều chỉnh để chống chọi với những tác động nghiêm trọng mà dịch bệnh

Covid-19 gây ra; (2) Dư địa tài khóa là một vấn đề lớn đối với các quốc gia

đang phát triển như Việt Nam doquy mô kinh tế nhỏ và nguồn lực NSNN hạn

hẹp. Do đó, các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp gặp nhiều giới hạn trong

triển khai và chưa mang lại các hiệu quả hỗ trợ cần thiết. Kết quả là nền kinh

tế Việt Nam gặp phải nhiều khó khăn thách thức do sản xuất bị thu hẹp, thu

ngân sách giảm, sức ép lạm phát gia tăng, hệ thống tín dụng và ngân hàng đứng

trước nguy cơ nợ xấu và đầu tư xã hội giảm, chính sách an sinh và lao động

chưa phù hợp với thực trạng bình thường mới.

136

Do đó, để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời đạt được các cân đối

lớn của nền kinh tế thì tác giả cho rằng quan điểm điều hành CSTK cần phải

bám sát các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu theo

các Nghị quyết đã được Quốc hội và Chính phủ thông qua nhằm triển khai đồng

bộ và hiệu quả CSTK phối hợp chặt chẽ với CSTT và chính sách vĩ mô khác

để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Bám sát các

yếu tố nêu trên, tác giả xác định quan điểm hoàn thiện CSTK hướng tới TTKT

tại Việt Nam đến năm 2030 theo các khía cạnh sau:

Quan điểm 1: Việc thực thi CSTK phải đặt trong tổng thể nền kinh tế, và

bám sát với diễn biến thực tiễn của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh khó

khăn hậu Covid-19.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII về chiến lược phát triển KTXH 10

năm, giai đoạn 2021 – 2030, đã xác định lấy việc cải cách một cách đầy đủ,

đồng bộ, có tính khả thi và hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

làm điều kiện tiên quyết để thúc đẩy TTKT, trong đó, lưu ý đến vai trò của hệ

thống pháp luật, chính sách phát triển xã hội và các khu vực, thành phần kinh

tế [9]. Do đó, tác giả nhận thấy CSTK phải có sự phối hợp đồng bộ với CSTT

và các chính sách kinh tế khác để phát huy tính hiệu quả, toàn diện, công bằng,

bền vững, và vai trò động viên hợp lý các nguồn lực phục vụ cho TTKT.

Quan điểm 2: CSTK cần phải đảm bảo mục tiêu TTKT dựa trên năng

suất lao động, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

Đảng xác định quan điểm phát triển kinh tế dựa vào sự độc lập và linh

hoạt của nền kinh tế, phát huy tối đa năng lực sản xuất quốc gia, giá trị văn hoá,

con người Việt Nam, làm chủ công nghệ và hội nhập, đa dạng hoá thị trường

[12]. Theo quan điểm của tác giả, việc thực thi CSTK cần phải ưu tiên giải

quyết các vấn đề cấp bách trước mắt, nhưng có ảnh hưởng đến các mục tiêu dài

hạn, và định hướng PTBV. Cụ thể, CSTK cần phải phát huy tính hiệu quả trong

137

việc huy động, và phân bổ, sử dụng nguồn lực ngân sách gắn với các ưu tiên

chiến lược của nền kinh tế. Các hoạt động thực thi CSTK cần phối hợp giữa vai

trò trung tâm của ngân sách trung ương với sự chủ động, sáng tạo của các địa

phương trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa chi

thường xuyên và chi đầu tư phát triển.

Quan điểm 3: Việc hoàn thiện CSTK cần phải gắn liền với kỷ luật, kỷ

cương tài chính ngân sách, đặc biệt là trong bối cảnh ngân sách còn khó khăn,

cần phải xem xét cắt giảm các khoản chi không cần thiết, tập trung vào các

khoản hỗ trợ doanh nghiệp và đẩy mạnh đầu tư công sau đại dịch để tạo đà

phục hồi TTKT. Trong thực thi CSTK, cần chú trọng đến giảm bội chi NSNN,

cải thiện cân đối NSNN. Hoạt động phân bổ ngân sách cần tiết kiệm chi thường

xuyên để ưu tiên tăng tỷ trọng chi đầu tư phát triển, các hoạt động vay bù đắp

bội chi NSNN cần phải chú trọng đến chi đầu tư phát triển, phân phối các nguồn

lực chi trả nợ trong tổng chi một cách phù hợp để tăng tính hiệu quả của CSTK.

Quan điểm 4: Việc hoàn thiện CSTK cần phải gắn liền với công khai,

minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị có liên quan đến

hoạt động thu – chi NSNN, đặc biệt là các đơn vị sử dụng vốn đầu tư công, tiến

tới hạn chế cơ chế “xin” – “cho”. Bên cạnh đó, cần đổi mới khâu quản lý tài

chính, ngân sách cho phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, vừa có

thể hỗ trợ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thuận lợi và hiệu quả, vừa bảo đảm

sự độc lập, tự chủ, và chủ quyền đất nước.

Văn kiện của Đảng cũng nhấn mạnh về phát huy dân chủ, sự cần thiết

của cơ chế, chính sách nhằm phát huy tinh thần cống hiến của nhân dân, tăng

cường tiềm lực kinh tế, sự vững mạnh của lực lượng doanh nghiệp Việt Nam,

và tận dụng lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại [12].

Quan điểm 5: Hoàn thiện CSTK cần duy trì sự thận trọng cần thiết, theo

nguyên tắc cân đối giữa thu và chi, và cần có giải pháp chính sách để theo dõi,

138

đánh giá công tác lập và tuân thủ dự toán NSNN ở tất cả các cấp. Tuy nhiên,

cần tránh quá cứng nhắc trong bối cảnh diễn biến phức tạp của kinh tế - chính

trị thế giới với nhiều yếu tố bất định.

3.2.2 Định hướng hoàn thiện chính sách tài khóa hướng tới tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam đến năm 2030

Quan điểm của Đảng về phát triển KTXH đất nước giai đoạn 2021 –

2030 là kim chỉ nam và nền tảng cơ sở để thực thi CSTK một cách hiệu quả.

Từ các quan điểm hoàn thiện CSTK đã nêu từ phần trước, tác giả đưa ra một

số các định hướng điều hành CSTK hướng tới TTKT tại Việt Nam đến năm

2030, đồng thời góp phần thực hiện Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn

2021 – 2025 một cách hiệu quả như sau:

Thứ nhất, trong bối cảnh KTXH giai đoạn 2021 – 2025 có nhiều sự thay

đổi lớn do Covid-19, cần tiếp tục thực hiện CSTK theo hướng thận trọng, chặt

chẽ và chủ động, trên cơ sở CSTK phải phù hợp với tình hình KTXH quốc gia,

và phối hợp tốt với CSTT để đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu phát

triển KTXH một cách thống nhất, hiệu quả.

Thứ hai, đại dịch Covid-19 đã tạo ra hàng loạt các vấn đề nghiêm trọng

liên quan đến sức khỏe của người dân, khả năng sản xuất và rủi ro phá sản của

doanh nghiệp, do đó, nên xem xét mở rộng các gói hỗ trợ từ CSTK. Chính sách

trong giai đoạn 2021 – 2025 cần phải hướng đến việc phục hồi và hỗ trợ người

dân và doanh nghiệp sau đại dịch, trong đó, cần phải kích thích cả về phía cầu

(tiêu dùng) lẫn phía cung (sản xuất). Tuy nhiên, với quy mô nền kinh tế nhỏ và

dư địa tài khóa hạn hẹp, việc đẩy mạnh các gói kích thích kinh tế trong dài hạn

có thể tác động đến mức bội chi NSNN và nợ công, cho nên CSTK sau giai

đoạn này cần phải được từng bước điều chỉnh về các mục tiêu dài hạn.

139

Thứ ba, việc lập các dự toán thu và chi NSNN cần phải được thực hiện

trên nguyên tắc lường thu mà chi, đi kèm với việc tái cơ cấu thu NSNN và chi

NSNN theo hướng bền vững:

Trong lập dự toán thu, cần điều chỉnh cơ cấu thu NSNN đảm bảo tính

bền vững, cụ thể, chú trọng đến tăng tỷ lệ thu từ nội địa, giảm dần tỷ trọng các

khoản thu từ tài nguyên, khoáng sản và xuất nhập khẩu, kết hợp với tái cấu trúc

nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Hoạt động thu NSNN từ thuế cần

đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu, khai thác tốt các

nguồn thu từ lợi nhuận trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước, và giảm

dần các hàng rào thuế quan theo các hiệp định thương mại, hội nhập quốc tế.

Trong lập dự toán chi, cần thực hiện nghiêm túc chính sách tiết kiệm,

hiệu quả trong chi NSNN, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế, giáo dục, vận tải và

du lịch. Ở giai đoạn trước mắt, cần điều chỉnh tăng quy mô và cơ cấu chi cho y

tế trong dự toán chi NSNN hướng đến mục tiêu phòng chống dịch, nhưng đồng

thời cũng phải khuyến khích các chính sách tự chủ tài chính tại các đơn vị nhằm

giảm thiểu bội chi. Cơ cấu chi cần chú trọng đến các hoạt động chi đầu tư và

giảm dần tỷ trọng chi thường xuyên, trong đó chi đầu tư cần phải được tập trung

vào các lĩnh vực trọng điểm, lĩnh vực công nghệ cao để tạo nên sự đồng bộ giữa

CSTK và tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng bền vững. Cần tăng cường giải ngân

chi đầu tư công cho các cơ sở hạ tầng có tính lan tỏa cao, giảm dần số chi xây

dựng văn phòng, trụ sở cơ quan; xúc tiến phương thức hợp tác công tư để giảm

tải cho ngân sách và chia sẻ rủi ro với khu vực tư nhằm nâng cao hiệu quả sử

dụng vốn; điều chỉnh tỷ trọng, định mức chi cho phù hợp với tình hình mới.

Bên cạnh đó, dưới ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, việc lập dự toán

ngân sách theo mô hình đầu vào đã cho thấy nhiều điểm yếu rất lớn khi các yếu

tố của nền kinh tế thay đổi nhanh chóng. Do vậy, cần nhanh chóng triển khai

140

áp dụng phương pháp lập dự toán ngân sách theo kết quả đầu ra một cách rộng

rãi, đồng bộ từ trung ương đến các bộ, ngành và địa phương.

Thứ tư, chính sách bội chi NSNN cần phải tiếp tục được duy trì một cách

hợp lý trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo không gian tài khóa cho các mục tiêu

phục hồi và PTKT sau đại dịch. Tuy nhiên, việc đi vay để bù đắp bội chi cần

phải giữ mức tỷ lệ nợ công trong giới hạn an toàn đã được Quốc hội cho phép,

đi cùng với việc tái cơ cấu các khoản nợ công theo hướng giảm tỷ trọng nợ

nước ngoài, tăng tỷ trọng nợ trong nước. Việc sử dụng các khoản vay bù đắp

bội chi phải ưu tiên cho các hoạt động đầu tư phát triển, tránh tình trạng đi vay

để đáp ứng cho chi thường xuyên. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ nợ công và sử

dụng có hiệu quả nợ công, quản lý và xử lý kịp thời rủi ro nợ có thể xảy ra, đặc

biệt là nợ trung hạn và dài hạn, đi kèm với các giải pháp tích lũy trả nợ, dự trữ

quốc gia nhằm đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế.

Thứ năm, cần thúc đẩy quá trình thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

đã được Chính phủ phê duyệt, xử lý nghiêm các tình trạng chậm thoái vốn, né

tránh trách nhiệm trong thoái vốn hoặc làm thất thoát vốn nhà nước. Song song

đó, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện thị trường trái phiếu, tập trung vào phát

hành trái phiếu phục vụ cho các hoạt đầu tư của Chính phủ một cách có trọng

điểm, phát hành trái phiếu nội địa nhưng lãi suất cần đảm bảo với khả năng

phát triển của nền kinh tế và có sự phối hợp tốt với CSTT để giảm áp lực lạm

phát lên nền kinh tế.

Thứ sáu, việc thực thi CSTK phải gắn liền với kiểm tra, giám sát cơ quan

tất cả các cấp trong việc chấp hành kỷ luật tài khóa. Do đó, việc hoàn thiện

khuôn khổ pháp lý cho quản lý và phân bổ ngân sách cần được đầy mạnh để

phù hợp với điều kiện mới. Quy định rõ ràng về trách nhiệm sử dụng, giải trình,

và phân cấp quản lý trong chi đầu tư để nâng cao tính hiệu quả và hiệu lực. Bên

cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác cải cách thể chế, cải cách hành chính và cải

141

thiện môi trường kinh doanh để tạo nền tảng cho việc thực thi có hiệu quả các

CSTK.

Thứ bảy, hoàn thiện cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập theo Nghị

định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 và Nghị quyết số 77/NQ-CP của

Chính phủ. Thực hiện mạnh mẽ hơn nữa việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện, trừ các đơn vị trong

các lĩnh vực thiết yếu như y tế, giáo dục. Nghiêm túc giải thể đơn vị sự nghiệp

công lập hoạt động kém hiệu quả, đồng thời đẩy mạnh đổi mới cơ chế, chính

sách ưu đãi để thu hút thêm nguồn vốn xã hội tham gia đầu tư phát triển sự

nghiệp công, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển, cung cấp

dịch vụ công nhằm đa dạng hóa đối tượng cung ứng các hình thức dịch vụ công.

3.3 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA

HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

3.3.1 Nhóm giải pháp chung

3.3.1.1. Ban hành quy tắc tài khóa và hoàn thiện quy định pháp luật

Để đạt được tăng trưởng bền vững, đòi hỏi CSTK phải chú trọng vào đầu

tư công cho mục đích nâng cấp nền tảng kỹ thuật, cơ sở hạ tầng về đường sá,

công trình cảng, sản xuất năng lượng sạch, cấu trúc thành phố thông minh, cũng

như nâng cao chất lượng của các hệ thống hỗ trợ như trường học, bệnh viện.

Trong bối cảnh cú sốc Covid-19 đe dọa sự suy thoái của nền kinh tế, đòi hỏi

phải có gói kích thích tài khóa để hỗ trợ các hộ gia đình gia tăng chi tiêu và các

doanh nghiệp tránh bị phá sản hoặc thu hẹp sản xuất, điều này tạo ra thách thức

mới cho Chính phủ khi phải đối mặt với sự thu hẹp của ngân sách. Vì thế, CSTK

cần phải được mở rộng một cách thận trọng. Trước mắt, CSTK cần phải hỗ trợ

TTKT bình quân 6,5% – 7,0%/năm, chỉ tiêu nợ công dưới mức 60% đã được

Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, và mục tiêu giữ vững tỷ

142

lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4,0%; ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm

các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn.

Do đó, để vừa phát đi tín hiệu Chính phủ cam kết đảm bảo kỷ cương tài

khóa, đảm bảo dư địa tài khóa cho các khoản hỗ trợ ở hiện tại, vừa ổn định tâm

lý cho thị trường, tránh những xáo động một cách không cần thiết do sự bất an

của các nhà đầu tư và doanh nghiệp về sự gia tăng nợ công và thuế trong tương

lai, Chính phủ cần ban hành các quy tắc tài khóa để đảm bảo quá trình nới lỏng

tài khóa được thực hiện một cách thận trọng nhưng linh hoạt, cụ thể như sau:

Một là, việc bơm vốn vào nền kinh tế cần phải tập trung vào các ngành

then chốt, đảm bảo kích hoạt, khôi phục được năng lực sản xuất tạo hàng hoá,

giá trị lưu thông, và khả năng tiêu dùng. Một mặt, CSTK cần tính toán độ điều

chỉnh cho miễn giảm thuế, xác định rõ đối tượng cần miễn giảm, bởi vì đôi khi

việc miễn giảm thuế lại kích thích tiêu dùng, làm tăng lợi nhuận của DN và số

thuế TNDN nộp về NSNN. Mặt khác, phải thận trọng tính toán độ trễ và sự hài

hoà giữa CSTK và CSTT để đạt được mục tiêu tăng thu cho NSNN.

Hai là, chi NSNN xác định ba mảng chi lớn: chi an sinh xã hội, chi hỗ

trợ phục hồi sản xuất, và chi kích cầu, mà trong bối cảnh sau đại dịch Covid-

19, an sinh xã hội phải là khoản chi cần được ưu tiên nhất. Đối với chi để kích

cầu, trong khi các nước có sức mạnh kinh tế lớn sẽ kích cầu tiêu dùng chính

phủ và tiêu dùng xã hội, Việt Nam nên siết chặt chi tiêu công – cắt giảm mạnh

các khoản chi không cần thiết của Chính phủ và cơ quan nhà nước, đồng thời,

khuyến khích chi tiêu dùng tư nhân, có thể bằng cách hạ lãi suất cho vay, miễn

giảm thuế, phí, làm sôi động nhiều lĩnh vực thị trường.

Ba là, xây dựng, ban hành chính sách mới cần phải phù hợp với năng lực

tài chính quốc gia. Điều này đòi hỏi tính trách nhiệm, năng lực nghiên cứu, tổ

chức và bao quát của người làm chính sách. Bên cạnh đó, để đáp ứng các mục

tiêu cấp bách trong phòng, chống dịch Covid-19, và tháo gỡ khó khăn cho sản

143

xuất, kinh doanh và an sinh xã hội sau đại dịch, Chính phủ cần rà soát và cập

nhật lại các văn bản pháp luật, quy định liên quan đến các hoạt động của CSTK

cho phù hợp với các điều kiện mới.

3.3.1.2. Hoàn thiện CSTK hướng tới TTKT trong tình hình mới

Các CSTK như trước đây khó có thể đáp ứng được các điều kiện trong

tình hình mới. Do đó, việc hoàn thiện CSTK căn cứ vào các diễn biến thực tiễn

cũng như dự báo kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng của lạm phát và tình hình tác động

của dịch bệnh để đề xuất việc thực hiện các chính sách giảm, gia hạn thời hạn

nộp thuế, cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi vay, hỗ trợ doanh nghiệp, khách hàng bị

ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là một điều cần thiết.

❖ Về cải cách chính sách thu NSNN:

Việc cải cách thu NSNN cần phải gắn với các mục tiêu kinh tế đề ra, đảm

bảo tính bền vững của ngân sách, khắc phục tình trạng thâm hụt ngân sách lớn,

đồng thời góp phần phát huy tác dụng tích cực của thu ngân sách đối với các

hoạt động KTXH. Tác giả nhận thấy một cơ cấu thu NSNN bền vững cần đạt

được một số yêu cầu sau: (1) ổn định và mở rộng số thu nội địa, tăng tỷ trọng

thu nội địa trong tổng thu NSNN, tức là tăng cường thu NSNN từ nội lực nền

kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc vào các nguồn thu từ bên ngoài như thu từ tài

nguyên và cân đối xuất nhập khẩu; (2) công khai, minh bạch quy trình thu tại

các cơ quan tài chính, Kho bạc Nhà nước, đồng bộ và đơn giản hoá các quy

định về thủ tục hành chính và quy trình nghiệp vụ trong lĩnh vực tài chính ngân

sách, đẩy mạnh sự liên kết giữa cơ quan thu NSNN với hệ thống ngân hàng

thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng nộp tiền vào NSNN;

và (3) đảm bảo cân đối giữa nhiệm vụ thu với nhiệm vụ chi NSNN, huy động

có hiệu quả các nguồn lực tài chính quốc gia, tăng cường huy động các nguồn

lực tài chính ngoài NSNN, đồng thời, quản lý chặt chẽ và có hiệu quả bội chi

NSNN, tỷ lệ nợ công và khả năng trả nợ của nền kinh tế.

144

Việc đảm bảo nguồn lực công có vị trí và vai trò rất quan trọng trong

thực hiện các mục tiêu TTKT. Để củng cố quy mô nguồn lực công, nhà nước

cần duy trì và phát triển hệ thống chính sách thuế theo hướng hỗ trợ tăng trưởng

với mức thuế suất hợp lý, cơ sở tính thuế rộng, phù hợp với xu hướng cải cách

thuế trong khu vực và trên thế giới; kết hợp một cách hợp lý các sắc thuế thu

nhập, tiêu dùng, và tài nguyên, đồng thời, nghiên cứu để có chính sách động

viên vào ngân sách các nguồn thu tiềm năng như thuế bất động sản, các khoản

thu khác liên quan đến tài nguyên, tài sản nhà nước, thu từ thương mại điện tử

và các nền tảng số; đảm bảo tính minh bạch, công khai; đảm bảo tính công bằng

và trung lập, duy trì cơ cấu hợp lý giữa các loại thuế gián thu và thuế trực thu,

tách biệt các chính sách xã hội với các sắc thuế và khoản thu, thu hẹp các chi

phí được trừ hay các khoản miễn trừ, loại bỏ các ưu đãi thuế đã lỗi thời với yêu

cầu phát triển.

❖ Về cải cách chính sách chi ngân sách nhà nước:

Chi NSNN là nhân tố hỗ trợ tăng trưởng trong mô hình tổng cầu, việc

giảm chi cần được tiến hành thận trọng và có lộ trình, nếu đột ngột giảm mạnh

chi NSNN sẽ khiến tổng cầu sụt giảm, từ đó ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng. Do

đó, tác giả cho rằng điều chỉnh chi NSNN không phải là sự cắt giảm ngay lập

tức mà là quá trình tái cơ cấu một cách toàn diện, cần được tiến hành với những

nội dung sau:

Một là, khẩn trương nghiên cứu để tạo ra tỷ lệ hợp lý giữa chi đầu tư và

chi thường xuyên, giữa các ngành, lĩnh vực, giữa các cấp ngân sách và ngay

trong nội bộ ngành, lĩnh vực. Đổi mới quản lý chi NSNN đồng bộ với đổi mới

phương thức quản lý tài chính các lĩnh vực, phù hợp với nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN và bắt kịp với thời đại công nghệ số.

Hai là, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân đầu tư vốn thực hiện

các nhiệm vụ phát triển hạ tầng KTXH để giảm áp lực tăng chi đầu tư cho

145

NSNN; tăng cường cơ chế đấu thầu, đặt hàng, khoán kinh phí theo nhiệm vụ,

thực hiện phân định rõ vai trò, chức năng của Nhà nước và các thành phần kinh

tế khác; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ công để khu vực

ngoài nhà nước san sẻ gánh nặng cho chi NSNN. Nhờ đó, NSNN có thể tập

trung vào các nhiệm vụ thiết yếu.

Ba là, thực hiện đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị theo

hướng đồng bộ, hiện đại và thân thiện với môi trường bằng cách: đẩy mạnh cơ

cấu lại nội dung chi đầu tư công, nâng cao hiệu quả, hiệu lực phân bổ, giải ngân

vốn đầu tư công; cải thiện vai trò dẫn dắt, vốn mồi của nguồn lực NSNN, đẩy

mạnh thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài NSNN để tăng nguồn lực đầu tư toàn

xã hội. Trong ngắn hạn, để hỗ trợ phục hồi kinh tế giai đoạn 2021 – 2023, cần

tập trung bố trí vốn cho các công trình, dự án quan trọng, cấp thiết có tính lan

tỏa, tác động nhanh đến phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng, địa bàn.

Bốn là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, đánh giá hiệu quả của các khoản

chi đầu tư để giúp kiểm soát hiệu quả, hiệu lực phân bổ và sử dụng NSNN, nhất

là hiệu quả chi đầu tư công. Chi đầu tư công cần tập trung cho các mục tiêu ưu

tiên của nền kinh tế như phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc

phòng, cắt giảm các khoản chi không cấp bách và kém hiệu quả, khắc phục vấn

đề phân bổ dàn trải, giải ngân không đạt kế hoạch, chuyển nguồn kéo dài…

Đồng thời, ra soát lại các quy định quản lý đầu tư công hiện hành, trong điều

kiện giải ngân kế hoạch vốn đầu tư liên tục ở mức thấp trong thời gian qua,

nhằm tăng cường hiệu quả chi hỗ trợ, tránh làm giảm hiệu quả chi NSNN do

tiếp cận chậm gói hỗ trợ như trong năm 2020 – 2021. Duy trì các khoản chi đầu

tư có hiệu quả về hạ tầng và nguồn nhân lực, chú trọng việc nâng cao hơn nữa

hiệu quả các khoản chi này.

Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng năng suất lao

động, đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế bằng cách tăng

146

cường nguồn lực chi đầu tư phát triển con người. Tạo điều kiện tiếp cận một

cách bình đẳng các nguồn lực, cơ hội phát triển, và các dịch vụ xã hội cơ bản

cho toàn dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế như trẻ em, người nghèo, đồng bào

dân tộc thiểu số... thông qua cải cách chính sách tiền lương, tiếp tục triển khai

chính sách ASXH phù hợp với các nguồn lực sẵn có của nền kinh tế và khả

năng cân đối của NSNN.

Sáu là, chính sách hỗ trợ theo Chương trình phục hồi và phát triển KT-

XH phải chú ý đến sự khác biệt về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện

nay, không phải do nguyên nhân kinh tế như các cuộc khủng hoảng kinh tế

trước đây, mà bắt nguồn từ vấn đề y tế và lan sang các lĩnh vực kinh tế, xã hội.

Trên cơ sở đó, việc triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển

KTXH đòi hỏi phải được thực hiện khẩn trương, chặt chẽ, thực chất và hiệu

quả, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19.

❖ Đảm bảo kỷ luật tài khóa và bền vững ngân sách

Để thực hiện các nhiệm vụ chi quan trọng, thiết yếu liên quan đến tăng

trưởng toàn diện, cần đẩy mạnh thực hiện phân cấp nhiệm vụ chi NSNN của

các cấp chính quyền; đảm bảo tính chủ đạo của NSTƯ. Nghiên cứu để đổi mới,

hoàn thiện các quy định về phân định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách phù

hợp với chức năng nhiệm vụ của các cấp chính quyền (phân loại về các cấp

chính quyền địa phương; cơ cấu tổ chức, trong đó quy định rõ vai trò và trách

nhiệm của các tổ chức, cơ quan; mức độ độc lập trong quản lý điều hành của

chính quyền địa phương...).

Để đảm bảo phát huy hiệu quả vai trò của NSTƯ thúc đẩy sự phát triển

hài hòa, khắc phục sự bất bình đẳng về trình độ phát triển giữa các vùng, miền

và giữa các địa phương, cần hoàn thiện cơ chế bổ sung ngân sách giữa các cấp

ngân sách, bao gồm cả cơ chế bổ sung cân đối và bổ sung có mục tiêu. Việc

hình thành các phương thức phù hợp để xác định quy mô tổng nguồn ngân sách

147

dùng để bổ sung cho các địa phương cũng như các nguyên tắc (công thức) sử

dụng cho việc xác định mức bổ sung sẽ giúp thu hẹp sự chênh lệch giữa năng

lực tài khóa và nhu cầu chi tiêu của địa phương, đồng thời có thêm sự kết gắn

với kế hoạch chi tiêu trung hạn.

Xử lý hiệu quả việc giảm dần tỷ trọng của NSTƯ trong tổng thu NSNN sẽ

giúp tạo thêm “không gian tài khóa” cho Nhà nước phục vụ cho việc đầu tư vào

các công trình cơ sở hạ tầng quan trọng, liên vùng; khắc phục bất bình đẳng

trong phát triển vùng, miền, xử lý tốt hơn các bất công bằng dọc và bất công

bằng ngang. Qua đó góp phần thực hiện tốt hơn yêu cầu thu hẹp về khoảng cách

phát triển giữa các vùng, miền, và thúc đẩy tăng trưởng toàn diện.

Để tăng cường sức bền của nền tài chính công, cần kiên định với mục tiêu

duy trì các chỉ số nợ công và nợ nước ngoài quốc gia được xác định trong Kế

hoạch tài chính quốc gia 5 năm trong từng thời kỳ. Để hạn chế được sự gia tăng

của nợ công cần phải có lộ trình thực hiện cụ thể cùng với một cam kết chính

trị mạnh mẽ, đảm bảo kỷ luật tài khóa được tôn trọng. Cần lưu ý rằng các chỉ

số như tỷ lệ nợ công/GDP hay tổng nợ nước ngoài/GDP là những thước đo cần

thiết để phản ánh những thay đổi của nợ công, nợ quốc gia và gánh nặng nợ,

tuy nhiên cũng không phản ánh được hết các rủi ro của nợ công. Cần tránh tư

duy “nợ cũ có thể được thanh toán bằng các khoản vay mới”, do thực tế có thể

những khoản vay mới sẽ có lãi suất cao hơn và không phải lúc nào cần là cũng

có thể huy động được (rủi ro thanh khoản), do đó cần đặt việc vay nợ trong mối

tương quan với kế hoạch và khả năng trả nợ.

❖ Cải cách thể chế, nâng cao minh bạch tài khóa và trách nhiệm giải

trình

Cần đảm bảo sự đồng bộ trong xây dựng và vận hành thể chế thị trường

định hướng XHCN trong việc xây dựng và hoạch định chính sách. Đặc biệt

trong việc hoạch định các chính sách có liên quan khác, cần đảm bảo sự phù

148

hợp trong việc xác định các mục tiêu với khả năng tiếp cận, khả năng huy động

nguồn lực để thực hiện; chú ý đến tính cân đối và hiệu quả giữa các khâu huy

động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực, phát huy tính hiệu quả và hiệu lực của

các công cụ tài chính; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương tài chính; nâng cao hiệu

quả của công tác theo dõi, đánh giá, tổng kết việc thực hiện để kịp thời có các

điều chỉnh phù hợp.

Để giải quyết tốt hơn vấn đề bất bình đẳng cần hoàn thiện thể chế phân

phối trong nền kinh tế, bao gồm cả bất bình đẳng thu nhập và bất bình đẳng

trong việc tiếp cận các loại hình dịch vụ công cơ bản. TTKT tại Việt Nam trong

giai đoạn qua đã góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, nhưng sự thay đổi

này còn khác biệt giữa các nhóm đối tượng khác nhau, giữa thành thị, nông

thôn, giữa các vùng KTXH. TTKT cần hướng đến giảm khoảng cách thu nhập

giữa các nhóm thu nhập thông qua các chính sách phân phối lại phù hợp, để

đảm bảo tăng trưởng toàn diện, đặc biệt là chính sách thuế và an sinh xã hội.

Cùng với đó, để giảm nghèo và tạo cơ hội việc làm bền vững, lâu dài cho người

yếu thế, cần có các cơ chế chính sách thu hút nguồn xã hội hóa.

Để thích ứng với cuộc CMCN 4.0, cần chủ động điều chỉnh thể chế, trong

đó có thể chế kinh tế, tài chính, trên cơ sở gắn với 03 trụ cột chính, đó là: (i)

Áp dụng hiệu quả, chủ động các thành quả của CMCN 4.0; (ii) Khai thác, phân

bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính để thúc đẩy sự phát triển các yếu tố

của CMCN 4.0 để hỗ trợ hiệu quả cho quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; (iii)

Khắc phục có hiệu quả các khoảng trống về chính sách do sự xuất hiện các mô

hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin (kinh tế chia

sẻ, thương mại điện tử) với quy mô ngày càng lớn.

3.3.2 Nhóm giải pháp cụ thể

3.3.2.1. Nhóm giải pháp về chính sách thu NSNN

149

Như đã trình bày ở phần trước, cải cách chính sách thu ngân sách một mặt

hỗ trợ TTKT, bên cạnh đó hướng tới tái cơ cấu NSNNtheo định hướng của

Đảng và Nhà nước. Một mặt, cần nâng cao vai trò định hướng của khu vực tài

chính nhà nước trong phát triển KTXH thông qua việc thúc đẩy các hoạt động

đầu tư có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân, giảm bớt gánh nặng cho chi

NSNN. Mặt khác, nghiên cứu thực hiện cải cách hệ thống thuế, duy trì tỷ lệ thu

từ các khoản thuế, phí, và lệ phí hợp lý trên GDP, vừa từng bước giảm bớt gánh

nặng về thuế, vừa đảm bảo tính công bằng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế,

và lợi ích về quyền thu thuế của quốc gia.

Hệ thống thuế hiện tại đã bao gồm nhiều yếu tố thúc đẩy kinh tế xanh và

tăng trưởng bền vững, tuy nhiên chúng được trình bày còn rời rạc, thiếu tính hệ

thống. Cụ thể, các yếu tố này thể hiện ở: (i) khuyến khích sản xuất, tiêu dùng

xanh qua chính sách miễn, giảm thuế TNDN (miễn thuế TNDN đối với thu

nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải; áp dụng mức thuế suất 10%

đối với thu nhập từ hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường…), chính

sách giảm thuế TTĐB đối với xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện,

năng lượng sinh học…; (ii) hạn chế những hoạt động gây nguy hại đến môi

trường thông qua quy định đối tượng chịu thuế BVMT (xăng, dầu, mỡ nhờn,

than đá, túi nilon) và tăng thuế suất TTĐB (áp dụng mức thuế suất tăng dần

theo dung tích xi lanh của xe ô tô dưới 24 chỗ ngồi). Các chính sách này chưa

đủ mạnh để thực sự thúc đẩy được các hoạt động sản xuất và tiêu dùng xanh.

Vì vậy, để đạt được mục tiêu TTKT xanh một cách bền vững, việc sử dụng một

cách hợp lý và có hiệu quả các ưu đãi về thuế là một giải pháp then chốt, mà

theo tác giả, cần được xây dựng theo hướng cơ bản sau:

Hoàn thiện chính sách thuế theo các khía cạnh: (i) mức thuế suất ưu đãi

và thời hạn ưu đãi, ví dụ, miễn giảm thuế TNDN cho đầu tư sản xuất năng

lượng sạch, công nghệ thân thiện môi trường, ngành/lĩnh vực công nghệ cao,

150

vận tải công cộng; (ii) mở rộng phạm vi về đối tượng chịu thuế BVMT, ví dụ,

phân bón hoá học, khí thải, các sản phẩm gây tổn hại đến môi trường; (iii) tiếp

cận theo cơ chế giá trị thị trường, tức là người gây ô nhiễm phải trả tiền cho

hành vi đó; (iv) nâng cao tính hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả của chính sách

quản lý thuế tài nguyên.

Công tác quản lý hành chính cần kết hợp với những quy định về thuế suất

nhằm thúc đẩy việc hạn chế sử dụng công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường.

Có thể quy định áp dụng mức thuế suất cao cho cả thuế TNDN, thuế BVMT và

thuế tài nguyên đối với các hoạt động khai thác, sản xuất gây ô nhiễm môi

trường.

Khuyến khích sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên

nhiên, bảo vệ hệ sinh thái, giảm thiểu tác động gây biến đổi khí hậu thông qua

ưu đãi về thuế suất thuế tài nguyên. Ngược lại, cần tăng thuế suất thuế tài

nguyên đối với các tài nguyên quý, hiếm, không thể hoặc khó tái tạo, áp mức

thuế suất cao đối với sản phẩm rừng tự nhiên. Đồng thời, nâng cao hiệu quả

quản lý tài nguyên, ngăn chặn các hoạt động khai thác lậu nhằm bảo vệ nguồn

tài nguyên cho thế hệ tương lai.

Trên cơ sở các phân tích, đánh giá về hạn chế và nguy cơ đối với cấu trúc

thu NSNN, tác giả nhận thấy việc hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở

rộng cơ sở thuế và điều chỉnh mức thuế suất trong một số loại thuế quan trọng

được xem là hướng giải pháp thích hợp nhất, cụ thể như sau:

❖ Về thuế thu nhập doanh nghiệp

Cùng với quá trình toàn cầu hoá kinh tế, chính sách thuế TNDN cần được

điều chỉnh để thích ứng, tạo động lực phát triển cho doanh nghiệp và thu hút

đầu tư. Tuy hệ thống thuế có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế, thuế TNDN vẫn cần có những cải cách mạnh mẽ

để phát huy được hiệu quả thực sự:

151

Thứ nhất, áp dụng chính sách thuế TNDN có điều chỉnh theo từng giai

đoạn nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư quy mô lớn và khuyến khích phát triển

sản xuất kinh doanh

Trong nền kinh tế hiện đại, xu hướng giảm thuế suất thuế TNDN đang

diễn ra đồng thời với quá trình toàn cầu hoá. Do đó, Việt Nam cần kịp thời xây

dựng một lộ trình giảm thuế suất để bắt kịp với xu hướng này, ngăn ngừa rủi ro

mất khả năng cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, khi

thực hiện điều chỉnh thuế suất cần căn cứ vào các chỉ tiêu KTXH, đầu tư, khả

năng sinh lời của doanh nghiệp, và tốc độ phát triển của toàn bộ nền kinh tế,

nhằm đảm bảo cân bằng giữa khuyến khích sản xuất, PTKT và nguồn lực tài

chính quốc gia. Mức thuế suất thuế TNDN phổ thông của Việt Nam hiện nay

là 20%, một mặt, được xem là phù hợp với thực tế PTKT thời gian qua và tiệm

cận mức trung bình trong khu vực, mặt khác, vẫn còn cao hơn một số nước

trong khu vực, chẳng hạn như Singapore (17%), làm giảm khả năng cạnh tranh

và thu hút vốn đầu tư kể cả trong nước và nước ngoài so với các nước này. Do

đó, việc tăng thu NSNN thông qua thuế nên được xây dựng dựa trên mức thuế

hợp lý hơn là mức thuế suất 20% cố định. Nói cách khác, cần xem xét, đánh

giá lại lộ trình giảm thuế sao cho phù hợp nhằm duy trì và thu hút các dự án

đầu tư có quy mô lớn. Vì vậy, tác giả đề xuất rằng lộ trình cắt giảm thuế suất

thuế TNDN phải được dựa trên nguyên tắc thực hiện từng bước một. Một sự

cắt giảm thuế suất đột ngột trong thời gian ngắn sẽ gây thiếu hụt thu NSNN,

gây mất cân bằng đột ngột trong thu chi NSNN. Ngược lại, nếu việc giảm thuế

suất thuế TNDN được thực hiện từng bước một, tuy thu NSNN có thể giảm sút

trong vài năm đầu, nhưng trong trung vài dài hạn (từ sau ba năm trở đi) sẽ đảm

bảo được tính ổn định và tăng trưởng. Bởi vì thuế suất thuế TNDN thấp không

chỉ làm giảm gánh nặng tài chính cho các khoản đầu tư mới, mà còn đối với

152

các khoản đầu tư trước đó, giúp môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện

và doanh nghiệp có thêm nguồn tài chính tích luỹ để tái đầu tư.

Thứ hai, áp dụng chính sách hỗ trợ “tín dụng thuế” đối với các doanh

nghiệp vừa và nhỏ

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn ra phức tạp, gây ra nhiều

khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước, Chính phủ Việt Nam nên áp dụng

một chính sách hỗ trợ mới gọi là “tín dụng thuế” để giúp doanh nghiệp tháo gỡ

khó khăn về nguồn vốn đầu tư. Cụ thể, tín dụng thuế là hình thức Nhà nước cho

phép các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh được giữ lại phần

tiền thuế phải nộp để tái đầu tư. Nói cách khác, Nhà nước cho doanh nghiệp

vay một cách trực tiếp thông qua thuế phải thu, không cần tài sản thế chấp và

không có lãi suất vay, nhằm tạo điều kiện hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp phục

hồi và đầu tư phát triển; doanh nghiệp vẫn kê khai nộp thuế bình thường, nhưng

Nhà nước cho phép giữ lại 80% số tiền thuế phải nộp để mua sắm máy móc

thiết bị và thực hiện các hoạt động tái đầu tư. Như vậy, khi doanh nghiệp có thể

tái sản xuất, vượt qua khó khăn, thu NSNN sẽ được tăng lên trong những năm

tiếp theo. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên chọn một số ngành nghề gặp nhiều khó

khăn như nông nghiệp, cơ khí, và các doanh nghiệp vừa và nhỏ để chủ động

tiến hành chính sách hỗ trợ này.

Thứ ba, thu hẹp phạm vi đối tượng được hưởng ưu đãi thuế có thời hạn

Hình thức ưu đãi thuế có thời hạn có khá nhiều hạn chế và tạo động cơ

gây ra hiện tượng chuyển giá nhằm trốn thuế. Vì vậy, Nhà nước có thể áp dụng

ưu đãi thuế cho đầu tư dưới các hình thức khác như chiết khấu đầu tư, khấu trừ

thuế đầu tư, có kết hợp với quy định về chuyển lỗ, tương tự như một số nước

trên thế giới. Hình thức khấu trừ thuế đầu tư cho phép một tỷ lệ phần trăm nhất

định trên tổng giá trị tài sản mới đầu tư được khấu trừ trực tiếp vào số thuế phải

nộp trong năm tính thuế, như vậy, có tác dụng tương tự như hỗ trợ trực tiếp một

153

phần vốn cho doanh nghiệp mà không tạo động cơ thực hiện hành vi chuyển

giá. Ngoài ra, hình thức miễn giảm thuế có thời hạn chỉ nên áp dụng trong lĩnh

vực sản xuất thay vì thương mại kèm quy định chặt chẽ về chuyển lỗ. Bên cạnh

đó, cần hạn chế ưu đãi thông qua hình thức khấu hao nhanh tài sản cố định,

bằng cách quy định nhóm tài sản có tính chất đặc thù được khấu hao nhanh,

thay vì áp dụng chung cho toàn bộ cơ sở kinh doanh hàng hoá dịch vụ có hiệu

suất kinh tế cao như hiện nay.

Việc điều chỉnh, đổi mới chính sách thuế TNDN là công cụ vững chắc

giúp Nhà nước và doanh nghiệp thích nghi với sự quốc tế hoá ngày càng sâu

rộng của nền kinh tế. Hơn nữa, chính sách thuế TNDN chịu sự ảnh hưởng mạnh

mẽ và trực tiếp của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vừa tác động trực tiếp

đến khả năng đảm bảo thu NSNN, vừa ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh

doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc cải thiện tính hoàn thiện, công khai, minh

bạch, và lộ trình rõ ràng cho chính sách thuế TNDN sẽ giúp đảm bảo sự ổn định

của thu NSNN và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

❖ Về thuế thu nhập cá nhân

Thu NSNN từ thuế TNCN chiếm tỷ trọng bình quân khoảng 6% trên tổng

thu NSNN hàng năm, cao hơn giai đoạn 2000 – 2010 trung bình 3,6%. Tuy

nhiên, do mức giảm trừ gia cảnh tương đối cao, đối tượng trong phạm vi áp

dụng còn nhiều, số người nộp thuế chưa lớn, bên cạnh việc quản lý thu nhập cá

nhân còn gặp nhiều khó khăn, khả năng thất thu lớn, nên số thu thuế TNCN

chưa đạt kết quả như kỳ vọng. Theo đó, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, duy trì mức giảm trừ đang được áp dụng trong giai đoạn 2021

– 2025

Theo Nghị quyết 954/2020/UBTVQH14, ngày 02/6/2020 của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản

1 Điều 19 của Luật Thuế TNCN số 04/2007/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung

154

một số điều trong Luật số 26/2012/QH13, mức giảm trừ đối với đối tượng nộp

thuế là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm), và mức giảm trừ đối với mỗi

người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng. Trước mắt, việc duy trì mức thu nhập

khởi điểm tính thuế và mức giảm trừ gia cảnh, trong điều kiện tăng trưởng của

nền kinh tế, sẽ góp phần làm tăng số người thuộc diện chịu thuế TNCN.

Thứ hai, thay đổi cách quy định ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN

Khi tốc độ lạm phát của nền kinh tế tăng cao, việc quy định một số tiền

tuyệt đối làm ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN sẽ nhanh chóng bị phá vỡ tính

phù hợp, khiến cho Luật thuế TNCN phải thường xuyên điều chỉnh ngưỡng

này, làm giảm tính ổn định của luật. Do đó, tác giả cho rằng cần quy định

ngưỡng khởi điểm tính thuế theo một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức tiền

lương, tiền công tối thiểu, nhằm tránh sự ảnh hưởng chéo khi Nhà nước điều

chỉnh mức thu nhập tối thiểu này. Đây chính là căn cứ quan trọng tạo nên tính

pháp lý bền vững cho luật thuế TNCN.

Thứ ba, đơn giản và minh bạch hoá pháp luật về thuế TNCN

Việc hoàn thiện luật thuế TNCN theo hướng đơn giản và minh bạch hoá

sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Chẳng hạn, cơ chế thuế đơn giản đối với cá nhân và hộ kinh doanh còn đồng

thời làm tăng khả năng giám sát của xã hội đối với đối tượng nộp thuế thông

qua phương thức công khai mức thuế khoán. Ngoài ra, các giải pháp như: áp

dụng chỉ một cách tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản,

chứng khoán; giảm thuế cho người làm công thông qua nâng mức giảm trừ gia

cảnh cho cá nhân nộp thuế và người phụ thuộc; bổ sung nhóm cá nhân không

phải thực hiện khai quyết toán thuế… cũng đóng góp vào tính hiệu quả của

Luật thuế TNCN dưới góc độ tiết kiệm thời gian, giảm chi phí xã hội và kích

thích tiêu dùng, nhờ giúp nâng cao mức thu nhập khả dụng cho số đông người

nộp thuế TNCN. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền về Luật

155

thuế TNCN trên các phương tiện truyền thông để phổ biến về ý nghĩa, vai trò

của thuế đối với sự phát triển của xã hội, hình thành nhận thức đúng đắn và ý

thức trách nhiệm về thuế của người dân.

❖ Về thuế giá trị gia tăng

Tỷ trọng số thu từ thuế GTGT trên GDP của Việt Nam chỉ nằm ở mức

trung bình trong nhóm các nước đang phát triển có thu nhập thấp, thấp hơn

nhiều so với các nước phát triển. Một mặt, với điều kiện nền kinh tế có tính

trung lập cao, thuế GTGT luôn tạo ra nguồn thu lớn và ổn định cho NSNN, do

đó, chính sách thuế và quản lý thuế GTGT trong thời gian qua đã đi đúng

hướng, góp phần đảm bảo được tính hợp lý và bền vững của thu NSNN. Mặt

khác, tỷ trọng số thu thuế GTGT trên GDP có nhược điểm là tính luỹ thoái, cần

có sự nghiên cứu, hoàn thiện cả về pháp luật thuế và chính sách quản lý thuế,

nhằm cải thiện tỷ trọng này. Cụ thể, tác giả đề xuất mở rộng cơ sở thuế đồng

thời với áp dụng một mức thuế suất cơ bản, và tăng thuế suất theo lộ trình. Bên

cạnh đó, rà soát tình hình thực tế và điều chỉnh ngưỡng doanh thu được áp dụng

phương pháp khấu trừ; hoàn thiện các quy định liên quan đến thuế GTGT áp

dụng cho dịch vụ xuất khẩu và hoàn thuế.

Trong số 25 nhóm mặt hàng thuộc diện không chịu thuế GTGT, 14 nhóm

mặt hàng chịu thuế suất 5%, và các mặt hàng còn lại chịu thuế suất 10% được

quy định trước đây, Luật thuế GTGT năm 2013 và 2016 đã điều chỉnh, bổ sung

9 nhóm hàng hoá, dịch vụ theo hướng mở rộng diện chịu thuế. Sự điều chỉnh

này không chỉ làm ngắt chuỗi khấu trừ đầu vào, đầu ra của thuế GTGT mà còn

gây phức tạp cho công tác quản lý. Trong khi đó, thông lệ quốc tế thường chỉ

áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT cố định và rất hạn chế các diện miễn

giảm thuế. Do đó, tác giả đề xuất việc cân nhắc từng bước thu hẹp danh mục

các mặt hàng không thuộc diện chịu thuế GTGT; chuyển dần các mặt hàng chịu

mức thuế suất 5% thành 10% để tiến tới áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT

156

duy nhất, có thể là 9% hoặc 10%, dựa trên sự hài hoà giữa cải cách thuế và thái

độ tiếp nhận của người nộp thuế.

Tóm lại, các đề xuất của tác giả bao gồm: (i) thu hẹp đối tượng không chịu

thuế để mở rộng cơ sở thuế; hướng đến còn khoảng 20 nhóm hàng hoá, dịch vụ

không chịu thuế GTGT vào năm 2025, và còn khoảng 12 nhóm vào năm 2030;

(ii) thu hẹp dần đối tượng áp dụng mức thuế suất 5%, hướng đến việc áp dụng

một mức thuế suất ngoài mức thuế suất 0% vào năm 2030. Trên cơ sở các định

hướng này, tác giả cho rằng cần nghiên cứu và chuyển một số nhóm hàng hoá,

dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT sang nhóm chịu thuế, chẳng hạn như

các loại hàng hoá là đầu vào của nông nghiệp: phân bón, máy móc, thiết bị

chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, thức ăn gia súc, gia cầm, và

thức ăn cho vật nuôi khác, nhằm hạn chế sự lợi dụng tính đa mục đích của hàng

hoá để gian lận trong khai báo nộp thuế.

Tuy đồng ý với quan điểm ưu tiên nông nghiệp, nông dân và nông thôn,

nhưng trong điều kiện nền kinh tế có độ mở cao như Việt Nam, hàng rào thuế

quan và phi thuế quan được cắt giảm tối đa theo các Hiệp định thương mại tự

do, quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước sản xuất ra các mặt hàng là đầu

vào của ngành nông nghiệp cũng phải được xem xét. Từ khi một số mặt hàng

được chuyển từ nhóm chịu thuế suất 5% sang nhóm không chịu thuế GTGT

vào năm 2015, các doanh nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu bệnh, máy

móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp… bị giảm sức cạnh tranh trên cả thị

trường trong nước và nước ngoài.

Ngoài ra, nhóm các hàng hoá như máy móc, thiết bị phụ từng, vật tư

thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để phục vụ cho hoạt

động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cũng nên điều chỉnh vào đối

tượng chịu thuế GTGT. Việc điều chỉnh giúp hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong

nước, bởi vì họ chịu áp lực giảm giá bán để vừa cạnh tranh với hàng nhập khẩu

157

cùng loại (hàng ngoại nhập không còn phải nộp thuế GTGT 5% như trước đây),

vừa đối phó với tâm lý chuộng hàng ngoại của người tiêu dùng. Hơn nữa, so

với trước đây, khi vật tư, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất đều thuộc diện chịu

thuế (10% hoặc 5%) được khấu trừ, hiện nay do đầu ra không chịu thuế nên

phần thuế GTGT đầu vào phải tính hết vào giá thành, làm giảm sức cạnh tranh

của doanh nghiệp. Do đó, việc chuyển các nhóm này vào đối tượng chịu thuế

không chỉ góp phần mở rộng cơ sở thuế, tăng thu NSNN, mà còn đảm bảo tính

cạnh tranh công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo hộ tốt hơn cho

hoạt động sản xuất nội địa.

Trong khoảng năm 2021 – 2023, dưới ảnh hưởng nặng nề của đại dịch

Covid-19, Chính phủ cần xem xét hỗ trợ việc miễn, giảm và hoàn thuế GTGT

cho doanh nghiệp do tính chất điều tiết rộng của thuế. Quy định giảm thuế

GTGT nên tập trung cho các dịch vụ như lưu trú khách sạn, du lịch, vận chuyển,

chuyên chở trang thiết bị phục vụ phòng chống dịch… Xem xét hoàn thuế

GTGT đầu vào cho doanh nghiệp xuất khẩu trong ba ngày kể từ khi nhận đủ hồ

sơ. Rút ngắn thời gian xét hoàn thuế GTGT cho các dự án đầu tư thuộc diện

kiểm tra trước hoàn thuế sau từ 40 ngày xuống còn 20 ngày. Những điều chỉnh

này sẽ giúp cho ngành sản xuất trong nước tháo gỡ khó khăn khi thuế GTGT

đầu vào được khấu trừ, đảm bảo sự bình đẳng và tăng sức cạnh tranh với hàng

hoá nhập khẩu.

❖ Về thuế tiêu thụ đặc biệt

Nhằm thực hiện được mục tiêu của Chính phủ về định hướng, điều tiết

tiêu dùng phù hợp với sự thay đổi về xu hướng tiêu dùng trong xã hội, bảo vệ

sức khoẻ nhân dân và bảo vệ môi trường, phù hợp với các cam kết quốc tế và

điều kiện KTXH thực tiễn, Luật thuế TTĐB cần rà soát, nghiên cứu bổ sung

đối tượng chịu thuế, và điều chỉnh thuế suất một số mặt hàng, có thể áp dụng

158

kết hợp giữa thuế suất theo tỷ lệ và thuế suất tuyệt đối cho một số loại hàng hoá

và dịch vụ chịu thuế.

Giải pháp này sẽ giúp mở rộng phạm vi áp dụng của thuế TTĐB, nâng cao

tính hợp lý của quy mô và cơ cấu thu NSNN. Mặc dù vậy, việc phân loại, điều

chỉnh, bổ sung các nhóm mặt hàng chịu thuế TTĐB cần tuân thủ chủ trương

điều tiết sản xuất, tiêu dùng, và phân phối thu nhập. Chẳng hạn, việc áp thuế

TTĐB cho các loại hàng hoá xa xỉ như nước hoa, mỹ phẩm, dịch vụ thẩm mỹ

nhằm điều tiết thu nhập của bộ phận dân cư có thu nhập khá là phù hợp với

nguyên tắc đánh thuế TTĐB, vừa tăng thu NSNN, vừa góp phần đảm bảo công

bằng xã hội. Áp thuế TTĐB đối với đồ uống có đường nhằm hạn chế ảnh hưởng

xấu của việc tiêu thụ loại sản phẩm này đến sức khoẻ người tiêu dùng, phù hợp

với điều kiện Việt Nam hiện nay và xu hướng chung của thế giới. Áp thuế

TTĐB đối với hàng tiêu dùng không thiết yếu như sản phẩm điện tử cao cấp

(dàn âm thanh, máy ảnh, điện thoại di động) vừa điều tiết một phần thu nhập

của người tiêu thụ sản phẩm này, vừa mở rộng cơ sở thuế để tăng thu cho

NSNN.

Việc mở rộng diện chịu thuế TTĐB không những giúp điều tiết thu nhập,

định hướng tiêu dùng, mà còn góp phần mở rộng cơ sở thu NSNN, tăng tỷ trọng

số thu thuế TTĐB trong tổng thu NSNN. Tuy vậy, quá trình nghiên cứu để mở

rộng diện tính thuế TTĐB cũng cần xem xét về phân loại, tính năng, giá cả của

từng mặt hàng, không đánh đồng hàng giá rẻ với hàng cao cấp thực sự để tránh

gây tranh cãi khi áp dụng thực tế.

Do ảnh hưởng không tốt từ thuốc lá, rượu, bia đến sức khoẻ và môi trường,

việc quy định thuế TTĐB đối với mặt hàng này nhằm hạn chế việc sản xuất,

kinh doanh và tiêu dùng. Mức thuế suất thuế TTĐB áp dụng hiện nay đối với

rượu dưới 20 độ là 35%, rượu từ 20 độ trở lên và bia là 65%, thuốc lá là 75%

trên giá bán chưa có thuế GTGT và thuế TTĐB. Như vậy, số tiền thuế TTĐB

159

chỉ chiếm khoảng 36% trên giá bán lẻ của thuốc lá, chưa tương xứng với yêu

cầu điều tiết đối với mặt hàng này, và thấp hơn nhiều so với mức trung bình

56% của các nước trên thế giới. Để đạt mục tiêu giảm tiêu dùng thuốc lá, Chính

phủ nên nghiên cứu phương án tăng mức thuế TTĐB đối với mặt hàng này, có

thể tăng mức thuế suất áp dụng, hoặc đánh thuế hỗn hợp, tức là áp dụng mức

thuế suất tương đối đối với thuốc lá kèm với mức thuế tuyệt đối trên một đơn

vị sản phẩm bán ra, tương tự như cách làm của nhiều nước trên thế giới.

Thuế suất thuế TTĐB đang được áp dụng cho xe ô tô vừa chở người vừa

chở hàng là 15%, 20% và 25%, thấp hơn mức áp dụng cho xe ô tô chở người

có cùng dung tích xi-lanh (8 mức thuế suất từ 35% đến 150%), khiến cho người

tiêu dùng có xu hướng chuyển sang sử dụng xe bán tải, làm tăng số lượng xe

nhập khẩu và tiêu dùng, trong khi số thuế TTĐB bị giảm tương ứng. Do vậy,

tác giả đề xuất việc xem xét tăng mức thuế suất thuế TTĐB cho mặt hàng này,

tương đương với mức thuế suất áp dụng cho xe chở người cùng số chỗ ngồi,

dung tích xi-lanh và loại nhiên liệu tiêu thụ.

Tóm lại, chính sách thuế TTĐB nên được điều chỉnh theo hướng từng

bước mở rộng phạm vi áp dụng, tăng mức thuế suất đối với một số mặt hàng,

như vậy, vừa góp phần tăng thu NSNN, vừa định hướng, thay đổi thói quen của

người tiêu dùng theo hướng giảm tiêu thụ các sản phẩm không có lợi cho sức

khoẻ và môi trường.

Nhìn chung, hệ thống chính sách thuế của Việt Nam đã được cải cách trên

nhiều phương diện để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, mang tính

thống nhất, bình đẳng, phù hợp với đặc điểm của một quốc gia đang trong quá

trình chuyển đổi, góp phần hoàn thành nhiệm vụ huy động cho NSNN, và thực

hiện vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Tuy nhiên, cơ cấu thu NSNN tuy đã

được cải thiện nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về cần tiếp tục nghiên cứu,

điều chỉnh.

160

❖ Về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:

Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung chính sách thuế xuất, nhập khẩu nhằm

thực hiện mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, gia tăng giá trị nội địa của sản phẩm

xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản thô chưa qua chế biến,

thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ theo

định hướng ưu tiên đã đặt ra. Cụ thể, cần tiếp tục giản lược biểu thuế, rà soát

các chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế, đảm bảo phù hợp với định hướng

của Nhà nước trong từng thời kỳ và các cam kết quốc tế về thuế xuất, nhập

khẩu.

❖ Về phí và lệ phí:

Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phí và lệ phí theo hướng

khai thác có hiệu quả thu NSNN từ phí, lệ phí liên quan đến tài sản, tài nguyên,

và bảo vệ môi trường; xây dựng kế hoạch tăng mức thu phí nhằm bù đắp đủ chi

phí; đẩy nhanh chuyển đổi từ phí sang giá dịch vụ công nhằm khuyến khích xã

hội hoá các dịch vụ công.

❖ Về chính sách thu ngân sách nhà nước đối với đất đai, tài sản, tài

nguyên:

Nhà nước cần nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên

nhằm duy trì vai trò quản lý, bảo vệ tài nguyên, khuyến khích sử dụng tiết kiệm,

hiệu quả nguồn tài nguyên. Bên cạnh đó, hoàn thiện chính sách thu ngân sách

liên quan đến đất đai, tài sản, tài nguyên, khai thác phù hợp nguồn lực từ đất

đai cho phát triển cơ sở hạ tầng KTXH.

Cụ thể, các gói hỗ trợ gia hạn nộp thuế và tiền thuế đất hiện nay trong

chính sách thuế có tác động rất nhỏ trong việc tháo gỡ khó khăn cho doanh

nghiệp, do đó, cần cho phép kéo dài thời gian hoãn thuế và nộp tiền thuế đất,

và bổ sung đối tượng được gia hạn.

161

Nhằm thực thi chính sách của Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông

dân và nông thân, cần tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm thuế đối với

việc sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2025. Đồng thời, chính sách thuế

đối với việc sử dụng đất phi nông nghiệp cần được hoàn thiện theo hướng từng

bước tăng mức điều tiết đối với đất và tăng thu thuế đối với nhà, nhằm hạn chế

tình trạng đầu cơ nhà, đất, vừa khuyến khích sử dụng nhà, đất có hiệu quả, vừa

đảm bảo nguồn thu hợp lý, ổn định cho NSNN, phù hợp với điều kiện nền kinh

tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, chính sách quản lý thuế cần gắn với

công tác quản lý của các bộ, ngành có liên quan về nhà và đất đai, tài sản, tài

nguyên. Nhà nước cũng nên nghiên cứu cơ chế để điều tiết phần giá trị tăng

thêm từ đất của người sử dụng đất mà không do đầu tư mang lại, có thể thông

qua chính sách thuế, thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.

3.3.2.2. Nhóm giải pháp về chính sách chi ngân sách nhà nước

Trong phần trước, tác giả đã chỉ ra rằng cơ cấu chi NSNN bền vững cần

chú trọng đến tính ưu tiên của từng nội dung chi, tập trung bố trí vốn cho những

dự án quan trọng, cấp thiết, có tính lan toả, tác động nhanh đến tăng trưởng

kinh tế các ngành, lĩnh vực, vùng và tổng thể; sự cân đối giữa chi đầu tư và chi

thường xuyên; sự kết hợp đồng thời giữa siết chặt chi tiêu công với khuyến

khích chi tiêu dùng tư nhân; khuyến khích xã hội hoá các hoạt động cung cấp

dịch vụ công, hình thức đối tác công – tư, thực hiện đột phá và đồng bộ trong

xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị; thực hiện đồng bộ đổi mới quản lý chi NS

với đổi mới quản lý tài chính các lĩnh vực để tương thích với điều kiện thị

trường và thời đại công nghệ số; tăng cường thanh tra, kiểm tra, đánh giá hiệu

quả chi đầu tư công; tăng cường nguồn lực chi đầu tư phát triển nguồn nhân

lực, công nghệ, và hội nhập quốc tế. Ngoài ra, công tác quản lý nợ công cũng

phải đảm bảo tính công khai, minh bạch, kỷ luật, được giám sát chặt chẽ, và

đánh giá theo hiệu quả đầu ra, phù hợp với thông lệ và các chuẩn mực quốc tế.

162

❖ Nhóm giải pháp về chi thường xuyên

Trong điều kiện nguồn ngân sách hạn chế, một giải pháp quan trọng để có

thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển là cắt giảm chi thường xuyên, vừa nâng

cao hiệu quả chi NSNN, vừa ưu tiên phân bổ nguồn ngân sách trung ương cho

các nhiệm vụ chi quan trọng, thiết yếu. Trong khi đó, áp lực gia tăng chi thường

xuyên là rất lớn, đòi hỏi Chính phủ cần tập trung rà soát, sắp xếp, lồng ghép

các nhiệm vụ chi để cắt giảm tối đa các khoản chi chưa thực sự cần thiết. Tuy

nhiên, tỷ lệ chi thường xuyên không nên giảm đột ngột, bởi vì việc giảm chi

NSNN đột ngột trong khi chi thường xuyên không thể giảm theo tương ứng sẽ

dẫn đến cắt giảm chi cho đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, an sinh xã

hội… kéo theo nhiều hệ luỵ và tác động lớn đến KTXH.

Vì vậy, hoạt động chi thường xuyên cần được kiểm soát một cách chặt

chẽ, chủ động, tiết kiệm. Trong đó, tất cả các cấp cơ quan từ trung ương đến

địa phương cần cắt giảm tối thiểu 50% kinh phí cho hội họp, công tác, giảm

thêm 10% các khoản chi thường xuyên khác của năm 2021. Bên cạnh đó, chưa

thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức,

lực lượng vũ trang và lương hưu, nhằm chia sẻ khó khăn với nhà nước và người

lao động nói chung.

Thêm vào đó, công tác dự toán mua sắm các trang thiết bị cần chuẩn bị kỹ

càng: có sự tham khảo từ nhiều nguồn, kêu gọi đấu thầu công khai, minh bạch,

có sự cân nhắc giữa uy tín, chi phí và chất lượng. Không dự toán chi cho các

chính sách chưa ban hành rõ ràng, thiếu tính khả thi, chưa thực sự cần thiết, hay

thiếu nguồn kinh phí đảm bảo. Cơ quan các cấp cần phối hợp với nhau nhằm

quản lý chặt chẽ các khoản chi NSNN, đảm bảo đúng dự toán được giao, hạn

chế tối đa việc ứng trước dự toán, và thực hiện ứng phải theo đúng quy định

của Luật NSNN.

163

Với thực trạng bộ máy nhà nước cồng kềnh như hiện nay, nhiệm vụ của

các phòng ban chồng chéo, dàn trải để phân chia đủ công việc cho các nhân sự,

dẫn đến hiệu quả công việc không cao trong khi làm tăng chi NSNN. Do đó,

cần đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu về đổi mới, tinh gọn bộ máy, tinh giản

biên chế…, vừa giảm gánh nặng chi thường xuyên, vừa cải thiện năng suất lao

động, tinh thần trách nhiệm của người lao động, và tính hiệu quả của quản lý

nhà nước.

❖ Nhóm giải pháp về chi đầu tư

Trong tình hình cầu chi tiêu của khu vực doanh nghiệp và người dân giảm

mạnh, đầu tư công trở thành nguồn chi tiêu chính của quốc gia. Do đó, một mặt,

đẩy mạnh đầu tư công đóng vai trò quan trọng, là bệ đỡ chính cho TTKT trong

thời gian tới. Mặt khác, cần có sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội nhằm giảm

thiểu rủi ro đạo đức và những hệ luỵ tiêu cực. Cụ thể, thúc đẩy đầu tư công

không nên là tăng chi NSNN một cách dàn trải, vội vàng, thiếu kiểm soát, mà

cần xem xét ưu tiên những dự án trọng điểm quốc gia đã được phê duyệt và bố

trí sẵn vốn thực hiện. Có thể xem xét đến các giải pháp đặc biệt, chẳng hạn như

chia dự án lớn của trung ương thành nhiều gói thầu nhỏ và thực hiện rải rác ở

nhiều địa phương (ví dụ như dự án cao tốc Bắc – Nam) để nhiều doanh nghiệp

và địa phương có thể tiếp cận, tạo sự lan toả kích thích đầu tư. Bên cạnh đó,

cần tập trung nguồn lực cho các dự án, công trình trọng điểm thực sự cấp bách,

công trình an sinh xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn mà thiếu

sự đầu tư từ các thành phần hay khu vực kinh tế khác, nhằm tạo việc làm và

thúc đẩy phát triển KTXH tại địa phương. Ngoài ra, cần chuyển đổi hình thức

đầu tư một số dự án nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu về hạ tầng cho các lĩnh vực

một cách đồng bộ.

Thực hiện tái cơ cấu đầu tư công theo phương thức đối tác công tư (PPP),

tuân thủ Luật đầu tư công, các nghị định hướng dẫn thi hành, đề án cơ cấu lại

164

đầu tư công giai đoạn 2017 – 2020, và định hướng đến năm 2025. Quá trình tái

cơ cấu đầu tư công cần tuân thủ các ưu tiên về chiến lược, xây dựng, quy hoạch

đầu tư công trong ngắn và trung hạn, đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư. Giai đoạn

gần sắp tới cần tập trung bố trí vốn cho các công trình, dự án quan trọng, cấp

thiết, có tính lan toả và tác động nhanh đến sự phát triển của địa phương để hỗ

trợ phục hồi kinh tế sau đại dịch.

Quá trình tái cấu trúc chi đầu tư công cần gắn liền với nâng cao hiệu quả

đầu tư từ nguồn vốn NSNN. Cụ thể, tỷ trọng và quy mô đầu tư công đã từng

bước điều chỉnh để phù hợp với định hướng tái cơ cấu đầu tư công, hướng đến

mục tiêu giảm tỷ trọng đầu tư nhà nước xuống khoảng trên 30% tổng vốn đầu

tư toàn xã hội; tập trung cho các mục tiêu KTXH chung như xoá đói giảm

nghèo, phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, nông nghiệp tại

các khu vực miền núi, biên giới hải đảo, đồng bào dân tộc thiểu số; tăng tỷ

trọng đầu tư cho các lĩnh vực hạ tầng; tập trung nguồn vốn từ NSNN, trái phiếu

Chính phủ, vốn ODA cho các dự án trọng điểm quốc gia, có ý nghĩa với sự phát

triển KTXH chung, phát triển nông nghiệp và nông thôn, nguồn nhân lực, bảo

vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

❖ Nhóm giải pháp về chi trả nợ

Tác động của khoản chi trả nợ tới tăng trưởng GDP không xảy ra trong

cùng năm tài khoá mà đối với tăng trưởng GDP ở thời kỳ trước, do những năm

tài khoá trước đó đã vay vốn đầu tư để tạo ra tài sản mới, kích thích các hoạt

động phát triển KTXH, tạo ra tiền đề cho tăng trưởng GDP ở năm tài khoá hiện

tại. Theo dự toán được Quốc hội phê duyệt, nợ công của Việt Nam năm 2020

ở mức 54,3% trên GDP. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, thu

NSNN bị giảm sút, cộng thêm việc tiếp tục thực thi chính sách tài khoá nới

lỏng để hỗ trợ phục hồi kinh tế, tỷ lệ nợ công của Việt Nam có thể tăng thêm 2

– 3%, nâng tỷ lệ bội chi NSNN lên mức từ 59,56% đến 62,56%. Tuy con số

165

này vẫn nằm trong giới hạn Quốc hội cho phép là dưới 65%, cần có những giải

pháp tích cực hướng tới tái cơ cấu tài chính công nhằm đảm bảo an ninh tài

chính quốc gia và mục tiêu tăng trưởng bền vững, cụ thể như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế quản lý tài chính công. Công tác hoàn thiện

thể chế cần có một chiến lược mang tính đột phá: cải cách thủ tục hành chính;

rà soát, bãi bỏ, đơn giản hoá các điều kiện kinh doanh, tập trung vào thuế và

hải quan, nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thu hút nguồn

lực PTKT giai đoạn hậu Covid-19.

Thứ hai, quản lý công tác huy động nguồn lực tài chính: triển khai các

biện pháp quyết liệt về quản lý số thu ngân sách, hạn chế nợ đọng thuế, chống

thất thu thuế; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật để

phù hợp với những thay đổi trong định hướng PTKT, nhất là giai đoạn hậu

Covid-19; chú trọng các biện pháp hướng đến tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người nộp thuế, giải quyết kịp thời

các trường hợp được gia hạn nộp/nộp dần thuế, miễn tiền chậm nộp thuế, xoá

nợ thuế theo quy định của Luật quản lý thuế và các nghị định, nghị quyết của

Chính phủ.

Thứ ba, tái cơ cấu chi NSNN: thực hiện phân bổ NSNN theo hướng tập

trung, sử dụng hiệu quả; cơ cấu chi NSNN vững chắc, kiểm soát quy mô phù

hợp với khả năng đáp ứng của nền kinh tế, trình độ phát triển và hội nhập của

đất nước. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả phân bổ và sử dụng ngân

sách, nhất là đối với chi đầu tư công, tập trung cho các mục tiêu ưu tiên của nền

kinh tế; có giải pháp rốt ráo để giải ngân có hiệu quả các dự án sử dụng vốn

đầu tư công.

Thứ tư, giải pháp kiểm tra, kiểm soát nợ công và nợ quốc gia: giám sát

một cách an toàn, có hiệu quả đối với nợ công, nợ quốc gia, nợ Chính phủ, quá

trình sử dụng vốn vay và cho vay lại; xây dựng kế hoạch dự trữ quốc gia giai

166

đoạn 5 năm, huy động các nguồn vay mới, bao gồm cả các khoản hỗ trợ phục

hồi kinh tế sau đại dịch; thẩm định, lựa chọn kỹ các dự án về tính hiệu quả, mối

quan hệ lợi ích – chi phí nhằm đảm bảo khả năng trả nợ trong trung và dài hạn

trước khi quyết định vay tạo vốn. Ngoài ra, cần tính đến việc huy động vốn từ

các quỹ dự trữ tài chính trong nước, ngân quỹ nhà nước, phương án phát hành

trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn quốc tế, cũng như đa dạng hoá nguồn

lực tạo vốn để giảm áp lực cho nợ công.

Thứ năm, đảm bảo thực hiện đúng quy định của Luật NSNN năm 2015 về

công khai và đa dạng hoá các hình thức công khai NSNN; có công tác hướng

dẫn, đôn đốc và giám sát việc công khai NSNN của cơ quan các cấp.

3.3.2.3. Nhóm giải pháp về kỷ luật tài khóa và củng cố bền vững ngân

sách

Yêu cầu đặt ra cho những năm tài khoá trong ngắn hạn là hoàn thiện thể

chế tài chính và NSNN, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả của chính sách tài

khoá trong thực hiện các mục tiêu về tăng trưởng toàn diện. Cải cách chính

sách thu và tái cơ cấu NSNN cần đi đôi với nhau, duy trì tỷ lệ huy động thu

NSNN từ thuế, phí, và lệ phí trên GDP ở mức hợp lý, để vừa đảm bảo tính công

bằng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế, vừa duy trì lợi ích quốc gia về quyền

thu thuế. Đồng thời, cần nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính

nhà nước trong hệ thống đầu tư quốc gia, phát triển KTXH gắn với thu hút sự

tham gia của đầu tư tư nhân.

Các quan điểm, mục tiêu, định hướng liên quan đến yêu cầu đổi mới, cải

cách trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là chính sách thuế và ngân sách, mà đã

được xác định trong chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2021 – 2030 và kế

hoạch phát triển 05 năm thì cần được kiên trì thực hiện. Cụ thể, sửa đổi, bổ

sung các luật về thuế, phí, lệ phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông

lệ quốc tế, đảm bảo tính liên kết với cơ cấu thu NSNN; mở rộng cơ sở thuế,

167

điều chỉnh các mức thuế suất hợp lý, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công

tác quản lý thuế, hướng tới hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, đảm

bảo vai trò huy động hợp lý cho NSNN, đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh

phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó, dựa

trên Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch

tài chính quốc gia và vay, trả nợ công giai đoạn 05 năm 2021-2030, cần thúc

đẩy việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách thu để tái cơ cấu thu NSNN một cách

bền vững: vừa tăng thu hợp lý, vừa nuôi dưỡng nguồn thu bền vững; tăng cường

các biện pháp khai thác dư địa thu, mở rộng cơ sở thuế, chống thất thu, giảm

nợ đọng thuế.

3.3.2.4. Nhóm giải pháp cải cách thể chế, nâng cao minh bạch tài khóa

và trách nhiệm giải trình

Trách nhiệm lập và phân bổ dự toán ngân sách nên được từng bước chuyển

giao cho các cơ quan, đơn vị, dựa trên yếu tố đầu vào, kết quả và hiệu quả công

việc đầu ra, nhằm cụ thể hoá quy định của Luật NSNN năm 2015. Đồng thời,

việc phân bổ ngân sách cần gắn với các chiến lược và định hướng phát triển

trong từng thời kỳ, cụ thể là các mục tiêu về tăng trưởng toàn diện, khắc phục

tính rời rạc trong phân bổ chi thường xuyên và chi đầu tư, nhằm thực hiện có

hiệu quả, thực chất kế hoạch tài chính – ngân sách trung hạn trong Luật NSNN

năm 2015.

Hoàn thiện khuôn khổ, thể chế về tài chính theo hướng tôn trọng quyền tự

do kinh doanh, giảm thiểu các rào cản thương mại, chi phí thực thi pháp lý. Nhà

nước cần thể hiện rõ vai trò kiến tạo động lực để hỗ trợ cho thị trường trong

huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực, kiểm soát các biện soát hỗ trợ phi cạnh

tranh mà có thể gây méo mó thị trường, giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực và

động lực tăng trưởng bền vững. Chẳng hạn, cần coi trọng các yếu tố có tính ưu

tiên và tính chiến lược trong phân bổ nguồn lực, khắc phục triệt để tư duy muốn

168

phát triển dàn đều, gây ra đầu tư dàn trải như giai đoạn vừa qua; ưu tiên sử dụng

nguồn lực nhà nước để khắc phục các thất bại của cơ chế thị trường, phát huy

vai trò hỗ trợ và tạo động lực huy động, phân bổ, và sử dụng các tiềm lực quốc

gia một cách hiệu quả.

Rà soát lại nhu cầu chi, tuân thủ nghiêm các nguyên tắc về chính sách, chế

độ chi, nhằm đẩy mạnh tiến độ giải ngân và khắc phục tình trạng bố trí vốn lớn

hơn nguồn lực khả dụng, phân bổ ngân sách dàn trải. Các công tác này cần

được thực hiện dựa trên quan điểm kiên trì thực hiện các mục tiêu về củng cố

tài khoá, có cam kết chính trị rõ ràng và tính kỷ luật cao. Đồng thời, tác giả đề

xuất xây dựng phương án sử dụng thu NSNN từ cổ phần hoá để bổ sung cho

đầu tư phát triển các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu. Ngoài ra, nguyên tắc

điều hành ngân sách phản chu kỳ cần được duy trì để mở rộng và củng cố không

gian tài khoá, tạo dư địa nguồn lực để hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương do

ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh và suy thoái kinh tế.

Rà soát chức năng, nhiệm vụ của cơ quan các cấp, nhằm phân định trách

nhiệm cho từng cấp (ví dụ như đường đô thị đi qua các đô thị, các trường chuyên

khối giáo dục phổ thông trực thuộc các trường đại học), hoặc xem xét chuyển

giao cho khu vực ngoài nhà nước, nhằm hạn chế sự bao cấp không cần thiết từ

ngân sách trung ương, thay vào đó, dành dư địa nguồn lực để thực hiện các

nhiệm vụ chi quốc gia bắt buộc của ngân sách trung ương, chẳng hạn như theo

quy định của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể, cần rà soát lại cơ chế phân cấp, phân

bổ nguồn thu phù hợp để vừa củng cố ngân sách trung ương, vừa tăng tính công

bằng giữa các địa phương, phù hợp với thông lệ quốc tế: các khoản thu mà ngân

sách trung ương được hưởng 100% số thu, các khoản thu mà trung ương chia

sẻ với địa phương, hình thành phương thức chia sẻ nguồn thu phù hợp đối với

các khoản thu được phân chia giữa Trung ương và địa phương.

3.3.2.5. Nhóm giải pháp khác

169

Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cần được tiếp tục thực hiện một cách

tập trung, thực chất, và theo sát hơn nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là sau

đại dịch Covid-19. Việc chọn lọc, phân loại ngành nghề để hỗ trợ có thể được

dựa trên đánh giá, khảo sát nhanh về tác động của đại dịch đến các ngành nghề,

nhằm tránh hiện tượng trục lợi chính sách hỗ trợ và rủi ro đạo đức. Chẳng hạn,

một số ngành nghề chịu tác động tiêu cực giảm dần gồm du lịch, vận tải, dệt

may, da giày, bán lẻ, giáo dục – đào tạo; trong khi đó, một số ngành vẫn có cơ

hội phát triển tốt như công nghệ thông tin, thương mại điện tử. Chính phủ xem

xét doanh nghiệp được hỗ trợ có thể căn cứ vào một số tiêu chí chủ yếu, chẳng

hạn, độ lan toả tích cực đến các ngành, lĩnh vực khác, khả năng tạo công ăn

việc làm, khả năng và tốc độ phục hồi sau đại dịch.

NSNN cần được ưu tiên hàng đầu sử dụng cho các chính sách an sinh xã

hội đối với những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như chi trả bảo hiểm thất

nghiệp, trợ cấp người tạm thời ngưng việc, người nghèo, người lao động trình

độ thấp, lao động trong khu vực phi chính thức, người bị mất kế sinh nhai…

đặc biệt là trong trường hợp tái bùng phát bệnh dịch trong nước, bởi vì những

đối tượng này chiếm tỷ trọng lớn trong xã hội, tốc độ suy giảm thu nhập nhanh

và chịu tác động nặng nề nhất nếu kinh tế rơi vào suy thoái. Do đó, công tác hỗ

trợ cần được triển khai nhanh, gọn, đúng đối tượng, đa dạng kênh chuyển hỗ

trợ, đặc biệt là các kênh ứng dụng CNTT như tiền điện tử (mobile money), dịch

vụ ví điện tử, nhằm bảo đảm tính kịp thời của chính sách nhân văn.

Doanh nghiệp nên được cho phép sử dụng quỹ bảo hiểm tự nguyện cho

mục đích đào tạo kỹ năng cho người lao động trong thời gian giãn việc, nghỉ

việc, vừa nâng cao trình độ người lao động, vừa giảm chi phí tuyển dụng khi

doanh nghiệp có điều kiện hoạt động trở lại. Đồng thời, người lao động dù trong

giai đoạn chưa có việc làm vẫn nên được phép duy trì việc tham gia bảo hiểm

170

xã hội, nhằm đảm bảo các quyền lợi về bảo hiểm tự nguyện, tai nạn lao động,

và bệnh nghề nghiệp.

Cuối cùng, các vướng mắc liên quan đến giải ngân nguồn vốn ODA cần

được tập trung xem xét và tháo gỡ. Chẳng hạn, việc giải ngân chậm tiến độ cho

các dự án ODA, bên cạnh nguyên nhân do đại dịch, còn do luật pháp, các quy

định và thủ tục hành chính của Việt Nam, ví dụ, quy định tại Nghị định

97/2018/NĐ-CP yêu cầu bên thực hiện dự án cần có tài sản thế chấp tương

đương 120% mức vốn vay, tạo ra gánh nặng cho bên thực hiện và trở ngại cho

quá trình triển khai thực hiện dự án vay vốn. Vì vậy, việc rà soát thủ tục hành

chính gắn với khảo sát thực tế cần được thực hiện để tháo gỡ khó khăn cho các

bên tham gia dự án, nhất là các dự án trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực

như giáo dục, trường dạy nghề vì vốn con người là nền tảng quan trọng của

phát triển bền vững.

3.4 ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP

Để thực hiện được các mục tiêu, khuyến nghị trên, Việt Nam cần quyết

liệt triển khai các biện pháp cải cách, trong đó, tập trung khắc phục những hạn

chế, thách thức đã được trình bày trong phần Thực trạng. Chính phủ cần chú

trọng, đảm bảo các yếu tố sau:

(1) Tính đồng bộ và hiệu lực, hiệu quả giữa công tác hoạch định, tổ chức

thực hiện, và vận hành chính sách cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng

XHCN;

(2) Tính phù hợp giữa các mục tiêu với khả năng tiếp cận, huy động nguồn

lực để thực hiện;

(3) Tính cân đối, hiệu quả trong tất cả các khâu của CSTK – huy động các

nguồn lực tài chính quốc gia, phân bổ và sử dụng các nguồn lực và công cụ tài

chính, kể cả từ NSNN, khu vực kinh tế nhà nước và ngoài nhà nước;

171

(4) Kỷ luật, kỷ cương tài chính, hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý

NS, bội chi NS, nợ công, và khả năng vay, trả nợ vay của nền kinh tế để có

những điều chỉnh phù hợp và kịp thời;

(5) Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hoàn thiện cơ sở hạ tầng cả

về kỹ thuật và tài chính, xây dựng thị trường tài chính lành mạnh và hiệu quả

nhằm nâng cao sức mạnh, sức bền của nền tài chính quốc gia để hạn chế những

nguy cơ, tổn thất từ môi trường kinh tế quốc tế;

(6) Cải cách bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng cao

hiệu lực, hiệu quả; thúc đẩy chuyển đổi một cách thận trọng cơ chế tự chủ tài

chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập và giá các dịch vụ công; đẩy mạnh

hoạt động tái cấu trúc, cổ phần hoá, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp

quốc doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước.

Trong ngắn hạn, cần tập trung hoàn thiện hệ thống tài chính và NSNN

nhằm tạo môi trường thuận lợi cho chính sách tài khoá phát huy sức mạnh trong

thực hiện các mục tiêu tăng trưởng toàn diện. Trong đó, cần quản lý, phát triển

hệ thống ngân hàng theo hướng vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh lành mạnh,

vừa duy trì tính ổn định, phát huy vai trò là “mạch máu” của nền kinh tế, đồng

thời, phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường vốn và các tổ chức tín dụng. Cải

cách hoạt động thu NSNN cần gắn liền với tái cơ cấu NSNN và cân bằng với

hoạt động chi NSNN; duy trì tỷ lệ huy động thu NSNN từ thuế, phí, lệ phí trên

GDP ở mức hợp lý, đảm bảo tính công bằng và bình đẳng về thuế giữa các đối

tượng nộp thuế cũng như lợi ích quốc gia về quyền thu thuế; các nội dung chi

NSNN cần được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, tính cấp thiết, sức lan toả và tốc

độ ảnh hưởng đến TTKT. Nguồn lực tài chính nhà nước cần nâng cao vai trò

định hướng, dẫn dắt, và thu hút khu vực đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở

hạ tầng và KTXH quốc gia.

172

Tiểu kết chương 3

Chính sách tài khóa ở Việt Nam đã được điều chỉnh để phù hợp với từng

giai đoạn nhất định trong khoảng thời gian từ 1991 đến 2020. Bước sang giai

đoạn mới 2021-2030, bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó

khăn do dịch bệnh Covid-19 mặc dù đã được kiểm soát những cũng đã làm thay

đổi hoàn toàn cấu trúc tài khóa của nhiều quốc gia và Việt Nam. Bên cạnh đó,

các sự kiện xung đột chính trị mới leo thang, các lệnh cấm vận diễn ra ở nhiều

nước phát triển khiến hoạt động kinh tế toàn cầu tiếp tục bị tác động. Giá hàng

hóa tăng lên, gây khó khăn cho doanh nghiệp và người dân trong khi nhu cầu

về nguồn lực tài khóa hướng tới phục hồi và phát triển KTXH. Do đó các biện

pháp liên quan đến CSTK buộc phải thay đổi liên tục để thích ứng với nhiều

biến động của yếu tố vĩ mô cũng như phải đáp ứng được các mục tiêu phát triển

KTXH trong giai đoạn 2021-2030.

Giải pháp về chính sách thu thay vì như những thời kỳ trước tập trung vào

điều chỉnh giảm thuế suất của một số sắc thuế để kích thích tiêu dùng và hỗ trợ

SXKD là chủ đạo thì sang thời gian tới cần chuyển hướng sang mở rộng cơ sở

thuế để bao quát hơn các đối tượng chịu thuế. Dư địa để thay đổi thuế suất đối

với các loại thuế thu nhập bị hạn chế nhiều hơn so với các loại thuế tiêu dùng,

ví dụ khó có thể tiếp tục giảm thuế suất thuế TNDN mà cần hướng tới thu hẹp

và hợp lý hóa các ưu đãi thuế. Mở rộng cơ sở thuế được tác giả đánh giá là sẽ

có hiệu quả cao hơn so với điều chỉnh thuế suất do sự phát triển của nhiều mô

hình kinh doanh mới, nhiều sản phẩm hàng hóa ra đời nhờ công nghệ sản xuất

phát triển, đặc biệt là các hàng hóa thân thiện với môi trường. Việc tăng thuế

suất chỉ nên tập trung vào các đối tượng là hàng hóa gây ô nhiễm môi trường

và có hại cho sức khỏe của con người.

Chính sách chi NSNN cần hướng tới tập trung thực hiện các nhiệm vụ chi

có tác động lớn đến TTKT như tăng cường chi đầu tư kết hợp với thường xuyên

173

đánh giá hiệu quả của chi đầu tư do bối cảnh nền kinh tế trong nước đang trong

giai đoạn đầu của quá trình phục hồi, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp

và đời sống của người dân còn bấp bênh nên chi đầu tư của Chính phủ trở thành

động lực chính cho TTKT trong thời kỳ hậu Covid-19 cho đến khi kinh tế trong

nước được phục hồi hoàn toàn. Chi thường xuyên trong thời gian tới cần phải

được kiểm soát chặt chẽ hơn, giảm các khoản chi không cần thiết và không rõ

ràng để góp phần tạo thêm nguồn lực thực hiện cho các nhiệm vụ chi mang tính

cấp thiết và quan trọng khác.

174

KẾT LUẬN

Chính sách tài khóa là một trong những trụ cột có tác động đến tăng trưởng

kinh tế của một quốc gia. Chính sách tài khóa được sử dụng linh hoạt để đáp

ứng các mục tiêu cụ thể của nền kinh tế, góp phần huy động, sử dụng và phân

bổ nguồn lực tài chính quốc gia để thực hiện hoạt động đầu tư, tạo đường băng

cho phát triển.

Luận án đã chỉ ra thực tiễn CSTK mở rộng được nhiều quốc gia áp dụng

nhằm thúc đẩy TTKT trong bối cảnh TTKT có xu hướng chậm lại do những

yếu tố bất ổn từ kinh tế toàn cầu cùng với những khó khăn, thách thức trong

nội tại quốc gia đó. Đặc trưng của CSTK mở rộng là việc cắt giảm thuế để tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động SXKD và thu hút đầu tư, đồng thời tăng chi

NSNN vào các lĩnh vực mà quốc gia đó cho rằng có tác dụng kích thích TTKT

trong cả ngắn hạn và dài hạn như lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, an sinh

xã hội. Phần lớn những quốc gia có điều kiện tương đồng với Việt Nam đẩy

mạnh tăng chi cho cơ sở hạ tầng nhằm thu thút đầu tư nước ngoài, qua đó góp

phần tạo thêm nhiều việc làm, giúp TTKT.

Việt Nam đã trải qua những thăng trầm của nền kinh tế, có giai đoạn TTKT

khá cao nhưng cũng có lúc suy giảm mạnh, kéo theo đó CSTK được điều chỉnh

khá linh hoạt và kịp thời để đáp ứng mục tiêu TTKT. CSTK thực hiện theo

hướng thắt chặt để hình thành cơ bản nguồn lực tài chính quốc gia trong giai

đoạn đầu khi bước vào tiến trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự

định hướng của Nhà nước. Khi mục tiêu TTKT được nâng lên, CSTK mở rộng

được lựa chọn để hướng tới TTKT. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát

tăng cao, CSTK thắt chặt được áp dụng nhằm góp phần kiểm soát lạm phát và

ổn định kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng và có nguy cơ suy

thoái do sự kiện đột biến Covid-19 gây ra, CSTK không còn theo định hướng

ban đầu là thắt chặt mà ngay lập tức phải thực hiện CSTK mở rộng: miễn/giảm

thuế cho doanh nghiệp và người dân, đồng thời tăng chi khẩn cấp cho hoạt động

175

y tế. Trên thế giới nhiều quốc gia rơi vào trạng thái suy thoái và khủng hoảng

nợ công một lần nữa lại đe dọa đến các nền kinh tế. Tuy nhiên trong thời kỳ

hậu Covid-19, việc phục hồi kinh tế rất quan trọng nên CSTK mở rộng vẫn

được ưu tiên áp dụng, nhưng các lộ trình tăng cường nguồn lực tài chính để

giảm bớt áp lực về nhu cầu chi được các nước và Việt Nam định hướng thực

hiện trong tương lai.

Bằng việc kiểm định tác động của CSTK hướng tới TTKT của Việt Nam

trong giai đoạn 1991-2020, tác giả tìm được bằng chứng cho thấy CSTK thực

sự có tác động rất lớn đến TTKT, đặc biệt thông qua những điều chỉnh CSTK

tác động lên cơ cấu thu và chi NSNN để hướng tới TTKT. Thu từ nội địa trong

ngắn hạn có tác động tiêu cực đến TTKT nhưng lại có hiệu ứng tích cực trong

dài hạn. Thu từ dầu thô là khoản thu mà Việt Nam phải phụ thuộc rất nhiều

trong một giai đoạn nhất định để tạo thêm nguồn lực đáp ứng các nhu cầu chi

nên có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy TTKT trong ngắn hạn và trung hạn,

còn trong dài hạn, thu từ dầu thô lại có xu hướng biến động khó lường, do đó

việc sử dụng nguồn lực này để thúc đẩy TTKT cần được hạn chế. Chi đầu tư

và chi thường xuyên là 02 khoản chi có tác động đến TTKT rất lớn do cơ chế

tác động lan tỏa đến tổng cầu.

Trong thời gian tới, kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục có những thay

đổi và biến động do các yếu tố xung đột chính trị, dịch bệnh, thiên tai ảnh hưởng

đến kinh tế toàn cầu và từng quốc gia. Bên cạnh đó, do các cam kết hợp tác mới

về thuế, các hiệp định thương mại sẽ được thực hiện và nhu cầu về nguồn lực

để phục hồi và tăng trưởng kinh tế rất lớn, Việt Nam cần lựa chọn áp dụng

CSTK một cách phù hợp với mục tiêu và tiềm năng TTKT. Tác giả khuyến

nghị một số giải pháp áp dụng CSTK mở rộng trong giai đoạn đầu của tiến trình

phục hồi kinh tế (2022-2023) theo Chương trình phục hồi và phát triển KTXH

của Chính phủ (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022). Khi nền kinh tế

bước vào thời kỳ ổn định hơn thì cần thực hiện CSTK thắt chặt (tăng cường

nguồn thu từ các loại thuế quan trọng thông qua mở rộng cơ sở thuế, tăng thuế

176

suất đối với hàng hóa gây ô nhiễm môi trường và có hại cho sức khỏe của con

người; các khoản chi thường xuyên tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ và cắt

giảm triệt để những khoản chi không cần thiết để dành nguồn lực tài chính thực

hiện các nhiệm vụ chi quan trọng và có tác động lan tỏa.

Trong quá trình nghiên cứu, NCS đã có nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm,

thu thập, tổng hợp các nguồn tài liệu cả về lý thuyết và mô hình thực nghiệm

để hoàn thiện luận án. Tuy nhiên CSTK hướng tới TTKT có phạm vi rộng, liên

quan đến 02 trụ cột là chính sách thu và chính sách chi và việc nhìn nhận, đánh

giá các tác động của 02 trụ cột này đối với TTKT qua nhiều thời kỳ thực sự là

một vấn đề rất khó do phải đi sâu vào cơ chế tác động của từng trụ cột. Do vậy,

luận án không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Nghiên cứu sinh mong

nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo, các Nhà khoa học, các

chuyên gia, các Nhà hoạch định chính sách để luận án được hoàn thiện và có

khả năng mở rộng các vấn đề nghiên cứu trong tương lai./.

i

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo Tiếng Việt:

1. Phạm Sỹ An & nhóm nghiên cứu (2021), Kinh tế Việt Nam 2001-2020,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

2. Lê Hoàng Anh (2019), Tác động của chi tiêu công, quản trị công đến

tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia Châu Á, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học

Ngân hàng TPHCM.

3. Lê Hoàng Anh & nhóm nghiên cứu (2019), Tác động của chi tiêu

công, thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia ASEAN+3: Bài học

kinh nghiệm cho Việt Nam, Đề tài Chương trình Vườn ươm sáng tạo khoa học

và công nghệ trẻ, Trung tâm phát triển khoa học và công nghệ trẻ cùng với Sở

Khoa học và công nghệ TPHCM.

4. Phạm Thế Anh (2008), Chi tiêu chính phủ và tăng trưởng kinh tế: khảo

sát lý luận tổng quan, Bài nghiên cứu NC-02/2008 của Trung tâm nghiên cứu

kinh tế và chính sách CEPR.

5. Phạm Thế Anh (2008), Phân tích cơ cấu chi tiêu chính phủ và tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam, Bài nghiên cứu NC-03/2008 của Trung tâm nghiên

cứu kinh tế và chính sách CEPR.

6. Báo Điện tử Chính phủ (2022), IMF: 1/3 nền kinh tế thế giới có thể sẽ

suy giảm. https://baochinhphu.vn/imf-1-3-nen-kinh-te-the-gioi-co-the-se-suy-

giam102221012091604595.htm#:~:text=Nh%C3%A0%20kinh%20t%E1%B

A%BF%20tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20c%E1%BB%A7a,gi%E1%BB%

91ng%20nh%C6%B0%20n%C4%83m%20suy%20tho%C3%A1i%22.

7. Báo Điện tử Chính phủ (2022), IMF hạ dự báo tăng trưởng kinh tế

toàn cầu. https://baochinhphu.vn/imf-ha-du-bao-tang-truong-kinh-te-toan-cau-

102220727081958413.htm

ii

8. Báo Điện tử Chính phủ (2022), WB cảnh báo nhiều nước có thể rơi

vào suy thoái nghiêm trọng. https://baochinhphu.vn/wb-canh-bao-nhieu-nuoc-

co-the-roi-vao-suy-thoai-nghiem-trong-102220608091221956.htm

9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1991), Chiến lược ổn định và phát

triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.

10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2001), Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội 2001 – 2010.

11. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội 2011 – 2020.

12. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021), Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030.

13. Bộ Tài chính (2020), Quyết định số 155/QĐ-BTC ngày 07/02/2020,

Quyết định Ban hành Danh mục các mặt hàng được miễn thuế nhập khẩu phục

vụ phòng, chống dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus

Corona gây ra.

14. Chính phủ (2020), Nghị định số 22/2020/NĐ-CP ngày 24/02/2020,

Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 139/2016/NĐ-CP

ngày 04/10/2016 của Chính phủ quy định về lệ phí môn bài.

15. Chính phủ (2020), Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020,

Nghị định gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất.

16. Chính phủ (2020), Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020,

Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP

ngày 01/9/2016 của Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu

đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu

ngoài hạn ngạch thuế quan và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.

iii

17. Chính phủ (2020), Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020,

Nghị định quy định mức thu lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong

nước đến hết ngày 31/12/2020.

18. Chính phủ (2020), Nghị định số 114/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020,

Nghị định quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 116/2020/QH14 của Quốc

hội về giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh

nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác.

19. Chính phủ (2008), Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008,

Nghị quyết về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy

trì TTKT, bảo đảm an sinh xã hội.

20. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 09/01/2009, Nghị

quyết về những giải pháp chủ yếu, chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát

triển KTXH và dự toán NSNN năm 2009.

21. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 11/2011/NQ-CP ngày 24/2/2011,

Nghị quyết về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định

kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

22. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 42/2020/NQ-CP ngày 9/4/2020,

Nghị quyết về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch

Covid-19.

23. Chính phủ (2020), Nghị quyết số 84/2020/NQ-CP ngày 29/5/2020,

Nghị quyết về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản

xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an

toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

24. Chính phủ (2022), Nghị quyết số 11/2022/NQ-CP ngày 30/11/2022,

Nghị quyết về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai

Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ

trợ Chương trình.

iv

25. Kim Chung (2021), “Bộ Tài chính đề xuất nhiều chính sách hỗ trợ

người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19”.

https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-

tin?dDocName=MOFUCM200551

26. Nguyễn Văn Dần (2008), Kinh tế học vĩ mô, Nhà xuất bản Tài chính,

Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Dần (2016), Chính sách tài khóa: Công cụ điều tiết vĩ mô

nền kinh tế, Nhà xuất bản Lao động – xã hội, Hà Nội.

28. Vũ Kim Dũng, Nguyễn Văn Công (2018), Giáo trình Kinh tế học,

Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà

Nội.

29. Nguyễn Thanh Giang (2018), Chính sách tài khóa nhằm thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Học viện Tài chính, Hà Nội.

30. Nguyễn Thị Hoa (Chủ nhiệm) và nhóm nghiên cứu (2021), Nghiên

cứu xác định quy mô và cơ cấu thu ngân sách nhà nước hợp lý cho giai đoạn

2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030, Đề tài cấp Bộ Tài chính, Mã số:

BTC/ĐT/2020-54.

31. Hội đồng Nhà nước (1990), Nghị quyết số 270b-NQ/HĐNN8 ngày

30/6/1990, Nghị quyết về việc công bố và thi hành Luật thuế doanh thu, Luật

thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế lợi tức.

32. Nguyễn Việt Hùng và Nguyễn Ngọc Tuyến (2014), “Chính sách tài

khoá của Việt Nam trong những năm gần đây”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt

Nam, số 1(74)-2014, trang 30-39.

33. Đỗ Thị Thanh Huyền và Nguyễn Thị Lệ (2021) “Chi tiêu ngân sách

nhà nước của Việt Nam thời kì 2005 - 2020 và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí

Công thương, số 9, tháng 4/2021.

v

34. Ngô Văn Khương (2016), Chính sách thuế với mục tiêu phát triển kinh

tế bền vững ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

35. Trần Trung Kiên (2015), “Hiệu ứng ngưỡng chi tiêu công: Minh

chứng thực nghiệm tại các quốc gia đang phát triển Châu Á 1996 – 2013”, Tạp

chí Phát triển kinh tế, 26(7), 47 – 63.

36. Trần Trung Kiên (2018), Chi tiêu công, quản trị công và tăng trưởng

kinh tế tại các quốc gia đang phát triển, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học

Kinh tế TPHCM

37. Nguyễn Thị Thuỳ Liên (2021), “Thực trạng về đầu tư công từ nguồn

vốn ngân sách nhà nước tại Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và kiến nghị”, Tạp

chí Thị trường tài chính Tiền tệ, số 22 năm 2021.

38. Nguyễn Đình Long và Nguyễn Hoài Nam (2011), “Tác động của chính

sách tài khóa đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, ngày

21/02/2011.

39. Nguyễn Bá Minh và nhóm nghiên cứu (2020), Xác định quy mô chi

Ngân sách hợp lý cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ

Tài chính, Hà Nội.

40. Bùi Đường Nghiêu (2000), Đổi mới chính sách tài khóa đáp ứng yêu cầu

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.

41. Nguyễn Thị Nguyệt (2017) , Khung khổ lý thuyết về chính sách tài khóa

đối với ổn định chu kỳ kinh tế, Đề tài cấp quốc gia, Hà Nội.

42. Đào Mai Phương và nhóm nghiên cứu (2021), Chính sách tài khóa

thúc đẩy tăng trưởng toàn diện ở Việt Nam: Luận cứ và giải pháp hoàn thiện

cho Việt Nam, đề tài cấp Bộ Tài chính, Hà Nội.

43. Phạm Thị Hoàng Phương (2013), Đổi mới cơ cấu chi ngân sách nhà

nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 – 2020 của Việt

Nam, Luận án tiến sỹ Học viện Tài chính, Hà Nội.

vi

44. Quốc hội (1997), Luật số 57-L/CTN ngày 10/05/1997, Luật Thuế thu

nhập doanh nghiệp.

45. Quốc hội (2003), Luật số 09/2003/QH11 ngày 17/06/2003, Luật Thuế

Thu nhập doanh nghiệp.

46. Quốc hội (2007), Luật số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007, Luật thuế

Thu nhập cá nhân.

47. Quốc hội (2008), Luật số 13/2008/QH12 ngày 03 tháng 6 năm 2008,

Luật thuế giá trị gia tăn.g

48. Quốc hội (2008), Luật số 27/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008,

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.

49. Quốc hội (2008), Luật số 14/2008/QH12 ngày 03 tháng 6 năm 2008,

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

50. Quốc hội (2012), Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012,

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.

51. Quốc hội (2013), Luật số 31/2013/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2013,

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng

số 13/2008/QH12.

52. Quốc hội (2013), Luật số 32/2013/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2013,

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNDN.

53. Quốc hội (2014), Luật số 70/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014,

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt.

54. Quốc hội (2015), Luật số 83/2015/QH13 ngày 25 tháng 6 năm 2015,

Luật Ngân sách Nhà nước.

55. Quốc hội (2015), Luật số 97/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015,

Luật Phí và lệ phí.

56. Quốc hội (2019), Luật số 38/2019/QH14 ngày 13 tháng 6 năm 2019,

Luật Quản lý thuế.

vii

57. Quốc hội (2008), Nghị quyết số 23/2008/QH12 ngày 6 tháng 11 năm

2008, Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009.

58. Quốc hội (2011), Nghị quyết số 10/2011/QH 13 ngày 8 tháng 11 năm

2011 Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015.

59. Quốc hội (2020), Nghị quyết số 107/2020/QH14 ngày ngày 10 tháng

6 năm 2020, Nghị quyết về kéo dài thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp

được quy định tại Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội

về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được sửa đổi, bổ sung một số

điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội.

60. Paul A. Samuelson, William D. Nordhaus (1997) [dịch bởi: Vũ

Cương, Đinh Xuân Hà, Nguyễn Xuân Nguyên, Trần Đình Toàn], Kinh tế học,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Bùi Nhật Tân (2015), Tác động của chính sách tài khóa đến phát triển

kinh tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, Hà Nội.

62. Tạp chí Tài chính (2015) “Thành tựu tài chính – ngân sách qua 30 năm

đổi mới”, bài đăng sách “70 năm Tài chính Việt Nam trưởng thành và phát

triển qua một số tư liệu và hình ảnh”, năm 2015.

https://tapchitaichinh.vn/thanh-tuu-tai-chinh-ngan-sach-qua-30-nam-doi-moi-

100034.html.

63. Sử Đình Thành (2011), “Chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế ở Việt

Nam kiểm định nhân quả trong mô hình đa biến”, Tạp chí Phát triển kinh tế,

Số 252 , Tháng 10/2011, Trang 54 – 61.

64. Sử Đình Thành, Đoàn Vũ Nguyên (2015), “Chi tiêu công, vốn con

người và TTKT: nghiên cứu các quốc gia đang phát triển”, Tạp chí Phát triển

kinh tế, 26(4), 25-45.

65. Thủy, Đào Thị Bích (2014), “Tác động của chi tiêu cho tiêu dùng của

chính phủ đến tăng trưởng kinh tế: Trường hợp ASEAN-5 thời kỳ 1990-

viii

2012”, VNU journal of economic and business, [S.l.], v. 30, n. 1, mar. 2014.

ISSN 2588-1108.

66. Tổng cục Thống kê (2002), Tình hình kinh tế – xã hội 10 năm 1991-

2000.

67. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2009), Bài giảng Chính sách tài khóa, Chương

trình giảng dạy kinh tế Fullbright, Việt Nam.

68. Thủ tướng Chính phủ (2020), Chỉ thị số 11/2020/CT – TTg ngày 04

tháng 3 năm 2020, Chỉ thị về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó

khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với

dịch Covid-19.

69. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17

tháng 5 năm 2011, Quyết định về phê duyệt chiến lược cải cách hệ thống thuế

giai đoạn 2011-2020.

70. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 15/2020/QĐ – TTg ngày

24 tháng 4 năm 2020, Quyết định quy định về việc thực hiện các chính sách

hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.

71. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày

10 tháng 8 năm 2020, Quyết định về giảm tiền thuê đất của năm 2020 đối với

các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 84/NQ-CP

ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính phủ.

72. Thắng Trung (TTXVN/Vietnam+) (2020), “Nhìn lại năm 2020: Một

năm thiên tai khốc liệt và dị thường”, (VietnamPlus).

https://www.vietnamplus.vn/nhin-lai-nam-2020-mot-nam-thien-tai-khoc-

liet-va-di-thuong/683097.vnpTổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã

hội 10 năm 1991-2000, Hà Nội.

73. Tổng cục thống kê (2022), Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới

quý III và cả năm 2022, Hà Nội.

ix

74. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Nghị quyết số

954/2020/UBTVQH14 ngày 2 tháng 6 năm 2020, Nghị quyết về điều chỉnh mức

giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân.

75. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Nghị quyết số

979/2020/UBTVQH14 ngày 27 tháng 7 năm 2020, Nghị quyết về sửa đổi, bổ

sung tiểu mục 2 mục I Biểu thuế bảo vệ môi trường quy định tại tại khoản 1

Điều 1 Nghị quyết 579/2018/UBTVQH14 về Biểu thuế bảo vệ môi trường.

76. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020), Nghị quyết số 1148/NQ-

UBTVQH14 ngày 21 tháng 12 năm 2020, Nghị quyết sửa đổi, bổ sung tiểu mục

2 mục I Biểu thuế bảo vệ môi trường quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết

số 579/2018/UBTVQH14 ngày 26/9/2018 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về

Biểu thuế bảo vệ môi trường đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số

979/2020/UBTVQH14.

77. Lê Thị Thùy Vân, Trần Thu Thủy và nhóm nghiên cứu (2019), Cơ sở

lý luận và kinh nghiệm thực tiễn cho việc vận dụng chính sách tài khóa phản

chu kỳ nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế ổn định ở Việt Nam, Đề tài nghiên

cứu khoa học cấp Bộ Tài chính, Hà Nội.

78. Ngô Doãn Vịnh, Nguyễn Ngô Việt Hoàng (2021) “Thu – chi ngân

sách nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả”, Tạp

chí khoa học và công nghệ, tập 22, số 1(2021):3-9.

79. VnEconomy (2021), 10 sự kiện kinh tế - xã hội 2020 - Nhịp sống kinh

tế Việt Nam & Thế giới (vneconomy.vn).

https://vneconomy.vn/10-su-kien-kinh-te-xa-hoi-2020.htm

80. Website của Bộ Tài chính:

https://ckns.mof.gov.vn/SitePages/home.aspx:

81. Website của Bộ Tài chính: https://mof.gov.vn

82. Website của Bộ Tài chính:

x

https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-

tin?dDocName=MOFUCM153222

83. Website của Tổng cục Thống kê: https://www.gso.gov.vn.

Tài liệu tham khảo Tiếng Anh:

84. Abiola, J., & Asiweh, M. (2012), “Impact of Tax Administration on

Government Revenue in a Developing Economy—A Case Study of Nigeria”,

International Journal of Business and Social Science, 3, No. 8 [Special Issue -

April 2012], 99-113.

85. Adam Smith (1776), The Wealth of Nations, Published

by CreateSpace Independent Publishing Platform, 2011.

86. Adu, F., & Ackah, I. (2014), “Revisiting government spending and

growth analysis in Ghana: A disaggregated analysis from 1970 to 2010”,

Journal of Economics and International Finance, 6(7), 134-143.

87. Agénor, P.-R. (2004), The Economics of Adjustment and Growth,

Harvard University Press.

88. Ahmad, Ehtisham (2010), The political-economy of tax reforms in

Pakistan: the ongoing saga of the GST, Asia Research Center, Working Paper,

No. 33.

89. Ahmed, H., & Miller, S. M. (2000), “Crowding-out and Crowding-in

Effects of the Components of Government Expenditure”, Contemporary

Economic Policy, 18(1), 124-133. doi:10.1111/j.1465-7287. 2000.tb00011.x

90. Angelopoulos, K., Economides, G., & Kammas, P. (2007), “Tax-

spending policies and economic growth: Theoretical predictions and evidence

from the OECD”, European Journal of Political Economy, 23(4), 885-902.

91. Arnold, J. M., Brys, B., Heady, C., Johansson, Å., Schwellnus, C., &

Vartia, L. (2011), “Tax Policy for Economic Recovery and Growth”, The

Economic Journal, 121(550), F59-F80.

xi

92. Aschauer, D. A. (1989), “Is Public Expenditure Productive”, Journal

of Monetary Economics, 23, 177-200.

93. Australian government Department of Foreign Affairs and Trade

(2021), Japan market insights.

https://www.dfat.gov.au/sites/default/files/japan-market-insights-

2021.pdf

94. Ayman Falak (2020), “Indonesia Issues Second Stimulus Package to

Dampen COVID-19 Impact”, ASEAN Briefing.

https://www.aseanbriefing.com/news/indonesia-issues-second-

stimulus-package-dampen-covid-19-impact/

95. Ayman Falak (2020), "Malaysia Issues Stimulus Package to Combat

COVID-19 Impact”, ASEAN Briefing.

https://www.aseanbriefing.com/news/malaysia-issues-stimulus-

package-combat-covid-19-impact/

96. Ayres, R.U. and Warr, B. (2010), The Economic Growth Engine: How

Energy and Work Drive Material Prosperity, Edward Elgar Publishing,

Cheltenham.

97. Babatunde, O. A., Ibukun, A. O., & Oyeyemi, O. G. (2017), “Taxation

revenue and economic growth in Africa”, Journal of Accounting and Taxation,

9(2), 11-22.

98. Baldacci, E., B. Clements, S. Gupta,and C. Mulas-Granados (2004),

“Persistence of Fiscal Adjustments and Expenditure Composition in Low-

Income Countries,” Journal of International Money and Finance, Volume 24,

Issue 3, April 2005, Pages 441-463.

99. Barro, Robert J. (1990), “Government Spending in a Simple Model of

Endogenous Growth”, Journal of Political Economy 98, S (5):103–125.

xii

100. Bose, N., Holman, J. A., & Neanidis, K. C. (2007), “The Optimal

Public Expenditure Financing Policy: Does the Level of Economic

Development Matter?”, Economic Inquiry, 45(3), 433-452.

101. Cohen, J. P., & Paul, C. J. M. (2004), “Public Infrastructure

Investment, Interstate Spatial Spillovers, and Manufacturing Costs”, Review of

Economics and Statistics, 86(2), 551-560. doi:10.1162/003465304323031102.

102. Conservative and Liberal Democrat coalition government (2015),

2010 to 2015 government policy: business tax reform policy.

https://www.gov.uk/government/publications/2010-to-2015-

government-policy-business-tax-reform/2010-to-2015-government-

policy-business-tax-reform

103. Corong, E., Dacuycuy, L., Reyes, R., Taningco, A. (2013), “The

Growth and Distributive Impacts of Public Infrastructure Investments in the

Philippines”, Infrastructure and Economic Growth in Asia, pp 47-86

https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-319-03137-8_3

104. Dackehag, Margareta; Hansson, Åsa (2012), Taxation of Income

and Economic Growth: An Empirical Analysis of 25 Rich OECD Countries,

Working Paper, No. 2012:6, Lund University, School of Economics and

Management, Department of Economics

105. Dahlby, B., Ferede, E, (2012), “The effects of tax rate changes on

tax bases and the marginal cost of public funds for Canadian provincial

governments”, Int Tax Public Finance 19, 844–883 (2012).

https://doi.org/10.1007/s10797-012-9210-7.

106. David Begg et al (1987), Economics, McGraw-Hill Book Co Ltd;

2nd edition (January 1, 1987). ISBN-13: 978-0070841680.

xiii

107. DeJong, David & Ripoll, Marla, (2006), “Tariffs and Growth: An

Empirical Exploration of Contingent Relationships”, The Review of Economics

and Statistics, 88, issue 4, p. 625-640.

108. Desislava Stoilova, (2017), “Tax structure and economic growth:

Evidence from the European Union”, Contaduría y Administración, 62, (3),

1041–1057.

109. Devarajan, S., Swaroop, V., Zou H., (1996), “The consumption of

Public Expenditure and Economic Growth”, Journal of Monetary Economics,

Vol. 37, pp.313-344.

110. Dickey, D. A., & Fuller, W. A. (1979), “Distribution of the

Estimators for Autoregressive Time Series with a Unit Root”, Journal of the

American Statistical Association, 74(366), 427-431.

111. Dimitrios PAPARAS, Christian RICHTER, Alexandros

PAPARAS (2015), “Fiscal Policy and Economic Growth, Empirical Evidence

in European Union”, Turkish Economic Review, Vol 2, No 4 (2015).

112. Dreger, Christian and Rahmani, Teymur (2014), “The Impact of Oil

Revenues on the Iranian Economy and the Gulf States”, DIW Berlin Discussion

Paper, No. 1369.

113. Emran, M. Shahe and Stiglitz, Joseph, (2005), “On selective

indirect tax reform in developing countries”, Journal of Public Economics, 89

(2005), issue 4, p. 599-623.

114. Engen, Eric, M., and Skinner, Janathan. (1991), “Fiscal Policy and

Economic Growth”, NBER Working Papers 4223.

115. Engen, E. and Skinner, J. (1996), “Taxation and Economic

Growth”, National Tax Journal, Vol. 49, No. 4 (December, 1996), pp. 617-642.

xiv

116. Edward Hsieh & Kon S. Lai (1994), “Government spending and

economic growth: the G-7 experience”, Applied Economics, 26:5, 535-

542, DOI: 10.1080/00036849400000022.

117. Farla, Kristine & de Crombrugghe, Denis & Verspagen, Bart, 2016.

"Institutions, Foreign Direct Investment, and Domestic Investment: Crowding

Out or Crowding In?," World Development, Elsevier, vol. 88(C), pages 1-9.

118. Federal Tax Administration FTA (2022), Current Swiss VAT rates

https://www.estv.admin.ch/estv/en/home/value-added-tax/vat-rates-

switzerland.html.

119. Ferede, Ergete & Dahlby, Bev (2012), “The impact of tax cuts on

economic growth: Evidence from the Canadian Provinces”, National Tax

Journal, September 2012, 65(3), 563-594.

120. Fölster, S., & Henrekson, M. (2001), “Growth Effects of

Government Expenditure and Taxation in Rich Countries”, European

Economic Review, 45(8), 1501-1520.

121. Furceri, D. & Karras, Georgios. (2009), “Tax and growth in Europe”,

South Eastern Europe Journal of Economics, 2, 181-204.

122. Gacanja, E. W. (2012), Tax revenue and economic growth: an

empirical case study of Kenya, University of Nairobi.

123. Galí, J., López-Salido, J. D., & Vallés, J. (2007), “Understanding the

Effects of Government Spending on Consumption”, Journal of the European

Economic Association, 5(1), 227–270.

124. Gemmell, N., Kneller, B., & Sanz, I. (2011), “The timing and

persistence of fiscal policy impacts on growth: evidence from oecd countries”, The

Economic Journal, 121(550), F33–F58.

125. George E. Halkos & Epameinondas A. Paizanos (2016),

"Environmental Macroeconomics: Economic Growth, Fiscal Spending and

xv

Environmental Quality", International Review of Environmental and Resource

Economics, Vol. 9: No. 3–4, pp 321-362.

126. Google, Temasek & Bain (2022), Vietnam_e_conomy SEA 2022,

https://services.google.com/fh/files/misc/vietnam_e_conomy_sea_2022_repor

t.pdf.

127. Grobéty, M. (2018), “Government debt and growth: The role of

liquidity”, Journal of International Money and Finance; Volume 83, May

2018, Pages 1-22.

128. Margaret, Phillippe Leite, Matthew and Emil Tesliuc, editors (2022),

Revisiting Targeting in Social Assistance: A New Look at Old Dilemmas,

Washington, DC: World Bank.

https://openknowledge.worldbank.org/handle/10986/34710

129. Gujarati, D., Porter, D., & Gunasekar, S. (2017), Basic

Econometrics, Mcgraw- Hill.

130. Gupta, N. (2005), “Partial Privatization and Firm Performance”, The

Journal of Finance, 60(2), 987-1015.

131. Hamdi, H. & Sbia, R. (2013), “Dynamic Relationships between Oil

Revenues, Government Spending and Economic Growth in an Oil-Dependent

Economy”, Economic Modelling, 35, 118-125.

132. Harrison, A. (1996), “Openness and Growth: A Time-Series, Cross-

Country Analysis for Developing Countries”, Journal of development

Economics, 48, 419-447.

133. Harvey, J., & Johnson, M. (1973), Economic Growth Introduction to

Macro-Economics: A Workbook (pp. 94-97), Palgrave Macmillan UK.

134. Ho, T. W. (2001), “The Government Spending and Private

Consumption: a Panel cointegration analysis”, International Review of

Economics & Finance, 10(1), 95-108.

xvi

135. Igwe, Anthony & Chukwudi Emmanuel, Edeh & Ukpere, Wilfred.

(2015). “Impact of fiscal policy variables on economic growth in Nigeria (1970-

2012): A managerial economics persperctive”, Investment Management and

Financial Innovations, 12, 169-179.

136. Ilyas, M., & Siddiqi, M.W. (2010), “The Impact of Revenue Gap on

Economic Growth: A Case Study of Pakistan”, World Academy of Science,

Engineering and Technology, International Journal of Social, Behavioral,

Educational, Economic, Business and Industrial Engineering, 4, 1682-1687.

137. Indonesia Investments (2019), 2019 State budget Indonesia: realistic

rising focus on social spending.

https://www.indonesia-investments.com/news/todays-headlines/2019-

state-budget-indonesia-realistic-rising-focus-on-social-

spending/item8945

138. Institute of Financial Professionals Australia (2016), 2015-16

Lodgment rates and thresholds guide.

https://www.taxandsuperaustralia.com.au/TSA/Tools/2015-

16_Lodgment_rates_and_thresholds_guide/TSA/Members/2015-

16_lodgment_rates_and_thresholds_guide.aspx?hkey=e0fb9b50-f991-

47cc-b95b-59c01077276a

139. International Monetary Fund (2022), World Economic Outlook:

Countering the Cost-of-Living Crisis, Washington, DC. October.

https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2022/10/11/world-

economic-outlook-october-2022.

140. International Monetary Fund (2021), World Economic Outlook

Update, January 2021.

https://www.imf.org/en/Publications/WEO/Issues/2021/01/26/2021-

world-economic-outlook-update

xvii

141. Irena Szarowská, (2011), “Changes in taxation and their impact on

economic growth in the European Union”, Acta Universitatis Agriculturae et

Silviculturae Mendelianae Brunensis, 59, (2), 325-332.

142. Iside Costantini (2019), “Health, Education and Wellbeing in Hong

Kong: British Legacy and New Challenges since the Handover to China”,

Revue Interventions économiques [Online], 62 | 2019, Online since 28.

https://journals.openedition.org/interventionseconomiques/6472

143. Jackson, T., & Senker, P. (2011), “Prosperity without growth:

Economics for a finite planet”, Energy & Environment, 22(7), 1013-1016.

144. James McBride & Beina Xu (2018), “Abenomics and the Japanese

Economy”, Council on Foreign Relations (CFR)

https://www.cfr.org/backgrounder/abenomics-and-japanese-economy

145. Jinyue Dong & Le Xia (2022), “China | Is China’s expansionary

fiscal policy sustainable?”, BBVA Research, China Economic Watch, February

2022. https://www.bbvaresearch.com/en/publicaciones/china-is-chinas-

expansionary-fiscal-policy-sustainable/

146. Johansson, Åsa; Heady, Christopher; Arnold, Jens; Brys, Bert &

Vartia, Laura (2008), Tax and Economic Growth, Economics Department

Working Paper No.620.

147. Kadir Karagöz, Rıdvan Keskin (2016), “Impact of Fiscal Policy on

the Macroeconomic Aggregates in Turkey: Evidence from BVAR Model”,

Procedia Economics and Finance, Volume 38, Pages 408-420.

148. Keynes, J. M. (1936), The General Theory of Employment, Interest,

and Money, Macmillan, St. Martin’s Press.

149. KPMG (2020), Corporate tax rates table.

https://home.kpmg/za/en/home/services/tax/tax-tools-and-

resources/tax-rates-online/corporate-tax-rates-table.html

xviii

150. Lahirushan, K. P. K. S. & Gunasekara W. G. V. (2015), “The Impact

of Government Expenditure on Economic Growth: A Study of

AsianCountries”, World Academy of Science, Engineering and Technology Int

ernational Journal of Social, Behavioral, Educational, Economic, Business a

nd Industrial Engineering Vol:9(9).

151. Landau, D. (1985), Government Expenditure and Economic Growth

in the developed countries: 1952-76, Public Choice 47, 459-477.

152. Law Plus Ltd (2015), Tax cuts to boost economy in Thailand

https://www.lawplusltd.com/2016/10/tax-cuts-boost-economy-thailand/

153. Lee, Y., & Gordon, R. H. (2005), “Tax Structure and Economic

Growth”, Journal of Public Economics, 89(5-6), 1027-1043.

154. Leinonen (2022), Finnish corporate income tax rate reduced

to 20%. https://leinonen.eu/fi-en/local-news/finnish-corporate-income-tax-

rate-reduced-to-20-percent

155. Levon Barseghyan et al (2013), “Fiscal Policy over the Real Business

Cycle: A Positive Theory”.

https://barseghyan.economics.cornell.edu/docs/rbc.pdf

156. Lexidy Law Boutique (2020), Corporate Tax in Spain

https://www.lawyersspain.eu/corporate-tax-in-spain.

157. Macek, Rudolf & Janků, Jan. (2015), “THE IMPACT OF FISCAL

POLICY ON ECONOMIC GROWTH DEPENDING ON INSTITUTIONAL

CONDITIONS”, Acta academica karviniensia, 15, 95-107.

158. Mark Horton & Asmaa El-ganainy (2022), “Fiscal Policy: Taking

and Giving away”. F&D Magazine, IMF June 15, 2022.

159. Mashkoor, M. Yahya, S. & Ali, A. (2010), “Tax revenue and

economic growth: An empirical analysis for Pakistan”, World Applied Sciences

Journal, 10(11), 1283-1289.

xix

160. Matthew Kofi Ocran (2011), "Fiscal policy and economic growth in

South Africa", Journal of Economic Studies, Glasgow Vol. 38, Iss. 5, (2011):

604-618.

161. McKeown, T.J. (1984), Firms and tariff regime change: explaining

the demand for protection, World Politics, 36(2), 215 – 233.

162. Mehmet Serkan Tosun & Sohrab Abizadeh (2005), “Economic

growth and tax components: an analysis of tax changes in OECD”, Applied

Economics, 37:19, 2251-2263.

163. Musgrave, R., & Musgrave, P., (1989), Public finance in theory and

practice (5th ed.), New York: McGraw-Hill Book Co.

164. MYLES, G. D. (2000), “Taxation and Economic Growth”, Fiscal

Studies, 21(1), 141–168.

165. Nguyen, C. T., & Trinh, L. T. (2018), “The impacts of public

investment on private investment and economic growth”, Journal of Asian

Business and Economic Studies, 25(1), 15-32. doi:10.1108/jabes-04-2018-

0003.

166. Ofoegbu G. N, Akwu. D.O & Olive.O (2016), “Empirical Analysis

of Effect of Tax Revenue on Economic Development of Nigeria”, International

Journal of Asian Social Science, 6(10): 604-613.

167. Ojong, Cornelius & Ogar, Anthony & Oka, & Arikpo, Oka. (2016),

“The Impact of Tax Revenue on Economic Growth: Evidence from Nigeria”, IOSR

Journal of Economics and Finance (IOSR-JEF), 7, 32-38.

168. Okafor, R.G., (2012), “Tax revenue generation and Nigerian

economic development”, European Journal of Business and Management,

4(19): 49 – 56.

169. Pesaran, M. (1997), “The Role of Economic Theory in Modelling the

Long Run”, The Economic Journal, 107(440), 178-191.

xx

170. Phillips, P. C. B., & Perron, P. (1988), “Testing for a unit root in time

series regression”, Biometrika, 75(2), 335-346.

171. Poulson, B. W., & Kaplan, J. G. (2008), “State Income Taxes and

Economic Growth”, Cato Journal, 28(1), 53-71.

172. PwC, IHS, CASE, IEB (2015), Reform of rules on EU VAT rates,

European Commission.

https://www.dutchnews.nl/features/2018/01/key-changes-to-dutch-

taxes-you-need-to-know-about-in-2018/

173. PwC Malaysia (2022), Corporate Income Tax, 2022/2023 Malaysian

Tax booklet https://www.pwc.com/my/en/publications/mtb/corporate-income-

tax.html

174. PWC (2022), Worldwide Tax Summaries: Latvia- corporate- other

taxes. https://taxsummaries.pwc.com/latvia/corporate/other-taxes

175. PWC (2022), Worldwide Tax Summaries: Singapore- corporate-

taxes and corporate income

https://taxsummaries.pwc.com/singapore/corporate/taxes-on-corporate-

income

176. Reuters Staff (2013), China raises 2013 budget deficit target to 2 pct

of GDP, Reuters.

https://www.reuters.com/article/china-parliament-budget-

idUSB9N0BW02T20130305

177. Reuters Staff (2019), China to cut value-added tax rate for

manufacturing, construction sectors, Reuters.

https://www.reuters.com/article/us-china-parliament-budget-tax-

idUSKCN1QM046

178. Richard Asquith (2016), “Hungary cuts VAT on restaurants and

basics”, Avalara.

xxi

https://www.avalara.com/vatlive/en/vat-news/hungary-cuts-vat-on-

restaurants-and-basics.html

179. Robert M. Solow, 1956. "A Contribution to the Theory of Economic

Growth" The Quarterly Journal of Economics, Oxford University Press, vol.

70(1), pages 65-94.

180. Sachs, Jeffrey D & Warner, Andrew M (1995), “Natural Resource

Abundance and Economic Growth”, National Bureau of Economic Research

Working Paper Series, No. 5398, December 1995.

181. Saima Nawaz & M. Idrees Khawaja (2019), “Fiscal policy,

institutions and growth: new insights”, Singapore Economic Review, Volume

64, Issue 05 (December 2019).

182. Samuelson, P. A., & Nordhaus, W. D. (1985), Economics (12th ed.),

McGraw-Hill.

183. Shanaka, H. (2012), “Size of Government and Economic Growth:

A Nonlinear Analysis”. ECONOMIC ANNALS, Volume LVII, No. 194 / July

– September 2012, 7-30.

184. Solow, R. M. (1956), “A Contribution to the Theory of Economic

Growth”, The Quarterly Journal of Economics, 70(1), 65–94.

185. Takumah, Wisdom, (2014), "Tax Revenue and Economic Growth in

Ghana: A Cointegration Approach”, MPRA Paper 58532.

186. Takumah, W., & Iyke, B. N. (2017), “The Links between Economic

Growth and Tax Revenue in Ghana: An Empirical Investigation”, International

Journal of Sustainable Economy, 9(1), 34.

187. Taylor, Andrew J. (1998), “Explaining Government

Productivity”, American Politics Research, Volume 26 Issue 4, October 1998,

439–58.

xxii

188. TPA Group (2018), Austria: VAT rate reduced to 10% for

accommodation

https://www.tpa-group.com/en/cee-news-en/oesterreich-umsatzsteuer-

bei-naechtigungen/

189. Tuffour, Joseph Kwadwo (2013), “Foreign Aid, Domestic Revenue

and Economic Growth in Ghana”, Journal of Economics and Sustainable

Development, Vol.4, No.8, pp. 25-33.

190. Ugwuanyi, Uche & Ugwunta, David. (2017), “Fiscal Policy and

Economic Growth: An Examination of Selected Countries in Sub-Saharan

Africa”, International Journal of Academic Research in Accounting, Finance

and Management Sciences 7(1).

191. Wesley Boldewijn et al (2022), “Dutch Tax Plan 2023”, Dentons

https://www.dentons.com/en/insights/alerts/2022/september/20/dutch-tax-

plan-2023-and-other-developments

192. World Bank (2022).mThe World Bank in Vietnam.

https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/overview

193. WorWorldBank (2), Global Economic Prospects – January 2022

https://openknowledge.worldbank.org/bitstream/handle/10986/36519/978146

4817601.pdf

194. Worldwide Tax (2022), Belarus Tax News

https://www.worldwide-tax.com/belarus/belarus-tax-news.asp

195. Worldwide Tax (2022), Italy Tax News

https://www.worldwide-tax.com/italy/italy-tax-news.asp

196. Yang Kai (2012), “Beautiful ‘China Dream’ requires hard work”,

People's Daily Overseas.

http://english.people.com.cn/90785/

xxiii

197. Zoey Zhang (2020), “China’s Support Policies for Businesses Under

COVID-19: A Comprehensive List”, China Briefing

https://www.china-briefing.com/news/china-covid-19-policy-tracker-

benefiting-business-enterprises-comprehensive-updated-list/

198. https://data.worldbank.org/indicator

199. https://www.imf.org/en/Data

200. https://immigrantinvest.com/blog/portuguese-taxes-en/

xxiv

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Đề tài cấp Bộ Tài chính:

1. Nguyễn Thị Hoa (Chủ nhiệm) và nhóm nghiên cứu (2021), “Nghiên cứu xác định quy mô và cơ cấu thu ngân sách nhà nước hợp lý cho giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030”, Đề tài cấp Bộ Tài chính, Mã số: BTC/ĐT/2020-54. Năm bắt đầu: 2020; năm hoàn thành nghiệm thu: 2021.

Các bài báo đã công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có mã chuẩn quốc tế ISSN: 2. Nguyen, H.T., & Darsono, S.N.A.C. (2022), “The Impacts of Tax Revenue and Investment on the Economic Growth in Southeast Asian Countries”, Journal of Accounting and Investment, 23(1), 128-146. ISSN: 2622-3899 (print) and 2622-6413 (online). https://journal.umy.ac.id/index.php/ai/article/view/13270/pdf

3. Hoa Thi Nguyen (2022), “Economic Growth and Government Expenditure in ASEAN Countries: A Threshold Approach”, International Journal of Current Science Research and Review, 5(5), 1637-1645. ISSN: 2581-8341, DOI: 10.47191/ijcsrr. Impact Factor: 5.995 ASI SCORE: 3 https://ijcsrr.org/wp-content/uploads/2022/05/29-24-2022.pdf

Investment,

310-329.

23(2),

and

4. Nguyen, H. T. (2022), “Government Expenditure and Economic Growth in Vietnam: Does Public Investment Matter in The Long-Term?”, Journal of Accounting ISSN: 2622-3899 (print) and 2622-6413 (online). https://journal.umy.ac.id/index.php/ai/article/view/14666

Các bài báo đã công bố trên Kỷ yếu Hội thảo quốc tế có mã chuẩn quốc tế ISSN:

5. Hoa Thi Nguyen (2022), “Experience in operating fiscal policies to promote the economic growth of some countries in the world and lessons for Vietnam”, Proceedings the fifth international conference on sustainable economic development and business management in the context of globalisation (SEDBM-5), Học viện Tài chính.

Các bài báo đã công bố trên tạp chí khoa học trong nước có mã chuẩn quốc tế ISSN:

6. Nguyễn Thị Hoa (2020), “Thuế tiêu thụ đặc biệt: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, ISSN 1859 - 428X, số 50 (60), tháng 1+2/2020, trang 23-29 và 35.