Chuyên đề: Vận dụng các phạm trù kinh tế cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư để xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
lượt xem 11
download
Mục đích nghiên cứu chuyên đề là khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chuyên đề: Vận dụng các phạm trù kinh tế cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư để xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- 1 MỞ ĐẦU Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản, thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà nền kinh tế thị trường thì luôn gắn liền với các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó. Trong đó có phạm trù giá trị thặng dư hay nói cách khác “sự tồn tại giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt Nam khi mà ở Việt Nam ta đang áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Bản thân chọn nội dung chuyên đề “vận dụng các phạm trù kinh tế cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư để xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” để nghiên cứu.
- 2 NỘI DUNG Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác, là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng hoá thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế thị trường, qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán được hàng hoá và do đó bóc lột được giá trị thặng dư
- 3 do người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, các nhà tư bản các doanh nghiệp đã không ngừng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, tích cực hợp lý hoá quá trình sản xuất, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, tìm hiểu nhu cầu thị trường… để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh… được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế trở nên năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể, chúng ta cần vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo lý thuyết sản xuất giá trị thặng dư vào thực tiễn nền kinh tế thị trường. Trên thực tế giá trị thặng dư cấu thành động lực cho sự tăng trưởng và phát triển của nền sản xuất xã hội. Vấn đề là giá trị thặng dư đó phục vụ ai, xã hội, nhân dân hay một nhóm người…? Do đó, từ góc độ nhận thức cần quán triệt một số nội dung sau: Thứ nhất, muốn tạo ra giá trị thặng dư, người lao động phải đạt được một năng suất lao động nhất định với một cường độ lao động nhất định và độ dài ngày lao động nhất định. Khi phân tích sự khác nhau giữa giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối, C.Mac nhấn mạnh: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao động, hay tăng cường độ lao động, hoặc cả hai; còn giá trị thặng
- 4 dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách tăng năng suất lao động, trong điều kiện độ dài ngày lao động không thay đổi. Nhưng khi xét sự giống nhau giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ấy, C.Mac chỉ rõ cả hai phương pháp cùng đòi hỏi phải đạt được một trình độ nhất định về năng suất lao động, về cường độ lao động và độ dài ngày lao động nhất định. Nếu năng suất lao động và cường độ lao động quá thấp thì dù ngày lao động có kéo dài suốt 24h, sẽ vẫn rơi vào hoàn cảnh làm không đủ ăn. Mặt khác dù năng suất lao động cao hay cường độ lao động cao, bù lại ngày lao động quá ngắn, không đạt tới, hoặc vừa đạt tới điểm bù lại giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động thì cũng chẳng có giá trị thặng dư. Như vậy, muốn tăng giá trị thặng dư phải tăng năng suất lao động, làm việc với cường độ lao động phù hợp và phải làm đủ giờ lao động trong ngày quy định. Thứ hai, phải coi trọng tăng năng suất lao động trước hết ở những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt. Thời gian lao động cần thiết là thời gian bù lại những giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động. Vì vậy, muốn rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết, dẫn đến kéo dài thời gian lao động thặng dư để tăng giá trị thặng dư, thì phải hạ thấp giá trị tư liệu sinh hoạt bằng cách tăng năng suất lao động, trước hết ở những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, từ đó mới cải thiện đời sống người lao động, tăng giá trị thặng dư tương đối để tăng tích lũy, tái sản xuất mở rộng và đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng. Thứ ba, nhận thức đúng về vai trò của nhân tố con người và nhân tố vật chất trong quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất hàng hóa là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị. Quá trình lao động
- 5 tạo ra giá trị sử dụng. Sức sản xuất của lao động càng cao thì càng tạo ra nhiều giá trị sử dụng trong một đơn vị thời gian. Sức sản xuất của lao động được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó, trình độ khéo léo trung bình của công nhân, mức độ áp dụng khoa học vào sản xuất… Bởi vậy, muốn có nhiều của cải, nhiều giá trị sử dụng cần phải coi trọng giáo dục đào tạo, coi trọng khoa học công nghệ, cải tiến tổ chức và quản lý. Nếu trong quá trình lao động, các yếu tố sản xuất được xét về mặt chất thì trái lại, quá trình tạo ra giá trị lại chỉ được xem xét về mặt lượng, các hàng hóa tham gia vào quá trình này chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hóa nhất định, không được xét với tư cách là vật thể nữa. Dù các tư liệu sản xuất, kể cả robot, có hiện đại đến đâu cũng không thể tự mình chuyển giá trị vào sản phẩm. Chính lao động sống đã làm “hồi sinh” cho các tư liệu sản xuất, trong đó có máy móc đã tiêu dùng trong quá trình lao động do giá trị sử dụng của bản thân nó bị hủy hoại. Nhận thức được điều này, không những cho phép hiểu rõ hơn nguồn gốc của giá trị thặng dư, mà còn ý nghĩa trong quản lý kinh tế. Việt Nam xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 6,5 7%., mục tiêu đến năm 2020, GDP bình quân đầu người đạt 3200$ 3500$ thì vấn đề phải đặt ra là phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, từ tăng trưởng theo chiều rộng sang tăng trưởng theo chiều sâu, theo đó, nền kinh tế phải tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm thặng dư và giá trị thặng dư cho xã hội. Hơn 30 năm đổi mới toàn diện đất nước mà trước hết là đổi mới lĩnh Vực kinh tế với trọng tâm là đổi mới tư duy kinh tế kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tháng 121986 đến nay đã cơ bản đưa đất nước
- 6 thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình vừa tổng kết thực tiễn trong nước cùng với tham khảo học hỏi kinh nghiệm nước ngoài gắn liền với nghiên cứu phát triển lý luận, Đảng ta đã từng bước làm rõ và xây dựng về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chù, công bằng, văn minh”. Đó là: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam... có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triến của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò Chủ yếu trong huy động và phân bố có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
- 7 trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội”. Với điều kiện phát triển của Việt Nam, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không chỉ để hiểu bản chất của chủ nghĩa tư bản mà còn để vận dụng vào thực hiện quan điểm, đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân để xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn làm giàu trong điều kiện còn sản xuất hàng hóa thì phải tìm mọi cách để tạo ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, thực chất của . quá trình này nhằm nâng cao năng suất lao động để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xã hội. * Vai trò trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện. Xu thế toàn cầu hóa và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã và đang đặt ra cơ hội cùng những thách thức mới đối với phụ nữ. Giữ vững và phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ, trong suốt quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN huyện đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đoàn kết, động viên các tầng lớp phụ nữ nỗ lực phấn đấu, trưởng thành; thông qua phát động các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động để phát huy phẩm chất tốt đẹp, khả năng sáng tạo, nâng cao vai trò phụ nữ trong việc góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Điển hình là các phong trào: "Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình", "Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc", "Phụ nữ chung sức xây dựng nông thôn mới"... Để nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ mọi mặt cho phụ nữ, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, bảo đảm môi trường phát triển bền vững,
- 8 những năm qua, công tác tuyên truyền được các cấp Hội xác định là nhiệm vụ quan trọng để vận động các tầng lớp phụ nữ hăng hái thi đua lao động, sản xuất, học tập, cống hiến sức lực và trí tuệ của mình vì sự phát triển chung của đất nước. Nội dung tuyên truyền, giáo dục tập trung vào những vấn đề liên quan mật thiết đến phụ nữ như: giáo dục truyền thống và phẩm chất đạo đức cho phụ nữ; giáo dục ý thức chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; những kiến thức về giới, về chăm sóc sức khỏe, nuôi dạy con, xây dựng gia đình hạnh phúc... Qua đó, góp phần xây dựng nguồn nhân lực nữ đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ; từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo chị em, nhất là phụ nữ ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Phong trào học tập được triển khai sâu rộng trong các tầng lớp phụ nữ, giúp chị em nâng cao trình độ học vấn, kiến thức xã hội. Là tổ chức đại diện, chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, trước những yêu cầu mới, Hội chủ động tham mưu với cấp ủy Đảng, lãnh đạo các ngành, các cấp tổ chức thực hiện về công tác phụ nữ, cán bộ nữ và bình đẳng giới như: Luật Bình đẳng giới, Nghị quyết 11 NQ/TW của Bộ Chính trị về "Công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"... Các hoạt động của Hội đã đóng góp đáng kể vào kết quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong thời gian qua. Với nhận thức quyền năng kinh tế của phụ nữ là một chỉ số quan trọng đánh giá vị thế của phụ nữ, Hội đã tổ chức nhiều hoạt động thiết
- 9 thực, hiệu quả để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, vươn lên làm giàu chính đáng như: tổ chức các cuộc vận động phụ nữ giúp nhau, khai thác các nguồn vốn cho phụ nữ vay, phối hợp mở các lớp tập huấn kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức khởi sự doanh nghiệp, tổ chức dạy nghề, giới thiệu việc làm; tạo điều kiện cho phụ nữ có việc làm, thu nhập, tham gia tích cực trong hoạt động kinh tế đóng góp cho gia đình và xã hội, xây dựng đời sống, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói, giảm nghèo. Từ đó, phụ nữ được phát huy thêm quyền tham gia trao đổi, bàn bạc và ra quyết định về những vấn đề của cuộc sống, từng bước nâng vị thế của mình trong gia đình và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, việc khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ càng được Hội LHPN xác định là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của đất nước, tạo bình đẳng thực sự để chị em có cơ hội thể hiện, cống hiến năng lực của mình. Làm được điều này, không chỉ tạo điều kiện để chị em có thêm tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm..."giữ lửa" cho mái ấm gia đình, mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, tăng cường củng cố sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, nâng cao hình ảnh và vai trò của phụ nữ Việt Nam. KẾT LUẬN Hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục
- 10 đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó còn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- 11 1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII, nhà xuất bản chính trị Quốc gia. 2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị: Kinh tế chính trị Mác – Lê nin, Nxb. Lý luận chính trị, H.2018.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên Đề Axit Nitric - Thầy Lê Phạm Thành
2 p | 975 | 413
-
Chuyên đề Văn học 9
301 p | 420 | 61
-
Chuyên đề luyện thi đại học: Bài thơ - Đàn ghi ta của Lor-Ca
48 p | 267 | 34
-
Chuyên đề luyện thi đại học Toán lớp 10, 11, 12
16 p | 142 | 29
-
Chuyên đề ôn thi đại học, cao đẳng môn: Ngữ văn lớp 12 - Truyện ngắn sau cách mạng tháng tám năm 1945 Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài và Vợ nhặt của Kim Lân
15 p | 210 | 25
-
Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 chuyên môn Toán năm 2018 - Trường ĐH Sư phạm Hà Nội
4 p | 231 | 21
-
Giáo án Công nghệ 8 bài 30: Biến đổi chuyển động
4 p | 357 | 13
-
Công văn Số: 5555/BGDĐT-GDTrH
4 p | 251 | 12
-
Chuyên đề: Công tác chủ nhiệm - Trần Thị Châu
5 p | 124 | 12
-
Chiến thuật ôn thi THPT Quốc gia - Chuyên đề nghị luận Văn học: Phần 1
320 p | 47 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Ứng dụng chuyển đổi số để đa dạng hóa hình thức dạy học và kiểm tra đánh giá trong chương trình Địa lí lớp 12 theo định hướng phát triển các phẩm chất, năng lực của học sinh
49 p | 41 | 8
-
Giáo án dạy học theo chuyên đề môn Ngữ Văn lớp 10
528 p | 25 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Hình thành, phát triển các phẩm chất và năng lực cho học sinh thông qua dạy học dự án phần Chuyên đề học tập Địa lí 10 – CTGDPT 2018
113 p | 15 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Vận dụng kỹ năng chuyển đổi số trong giảng dạy các bài: Công, Định luật bảo toàn cơ năng (Vật lý 10) nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực của học sinh
55 p | 24 | 6
-
Chuyên đề học tập Tin học 10: Tin học ứng dụng (Bộ sách Cánh diều)
74 p | 18 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực sáng tạo, giải quyết vấn đề cho học sinh qua hệ thống bài tập vận dụng trong giờ đọc văn ở trường THPT hiện nay
54 p | 18 | 4
-
Chuyên đề: Ôn tập, củng cố kiến thức phân môn Văn học lớp 9
20 p | 21 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn