intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ sở văn hoá Việt Nam - TS. Nguyễn Thị Xuân Hương

Chia sẻ: Hoàng Kim Ngân Ngân | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:69

259
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu "Cơ sở văn hoá Việt Nam" do TS Nguyễn Thị Xuân Hương biên soạn nhằm cung cấp cho người người học những hiểu biết đại cương và giản yếu về văn hoá Việt Nam ở hai mặt lịch đại và đồng đại lẫn những đặc điểm chính của văn hoá Việt Nam trong quá trình phát triển mấy nghìn năm lịch sử, qua đó góp phần xây dựng quan điểm nhân văn, biết quý trọng và giữ gìn những di sản văn hoá dân tộc biết vận dụng hữu ích vào việc hoàn thiện nhân cách mỗi người. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ sở văn hoá Việt Nam - TS. Nguyễn Thị Xuân Hương

  1. LỜI NÓI ĐẦU           Các bạn thân mến!       Chào mừng các bạn tham dự chương trình đào tạo Cử nhân biên dịch (B.A. in Translation) ­  Chương trình đào tạo qua mạng của CCE ­ Đại học Đà Nẵng nhằm phát triển các kỹ năng giao  tiếp bằng tiếng Anh trong các hoạt động thương mại, biên soạn văn bản, dịch tài liệu... Ngoài ra  học viên còn được trang bị thêm những kiến thức về ngôn ngữ học, về nền văn minh và văn hoá  các dân tộc trên thế giới.     Đây là môn học Cơ sở Văn hoá Việt Nam do TS. Nguyễn Thị Xuân Hương  biên soạn. Môn  học này cung cấp cho người người học những hiểu biết đại cương và giản yếu về Văn hoá  Việt Nam ở hai mặt lịch đại và đồng đại lẫn những đặc điểm chính của Văn hoá Việt Nam  trong quá trình phát triển mấy nghìn năm lịch sử, qua đó góp phần xây dựng quan điểm nhân văn,  biết quí trọng và giữ gìn những di sản văn hoá dân tộc biết vận dụng hữu ích vào việc hoàn  thiện nhân cách mỗi người.     Môn học sẽ kéo dài trong 12 tuần với 12 bài học (units). Tất cả các bài học đều được truyền  đạt dưới dạng các file văn bản và hệ thống các câu hỏi, bài tập kiểm tra đánh giá . Để có thể  nhận được bài học một cách tốt nhất, bạn cần sử dụng một máy tính với đường truyền có kết  nối tốc độ cao.       Để hoàn thành chứng chỉ môn học này, bạn cần tự vạch cho mình một lịch học tập cụ thể (ví  dụ: truy cập vào mạng và học vào những thời gian nhất định trong tuần). Kinh nghiệm của  những học viên tham dự các khóa đào tạo qua mạng cho thấy nếu không tự vạch cho mình lịch  học tập, bạn rất dễ bị "trôi", nghĩa là không theo kịp lớp học. Cần nhớ mỗi bài học chỉ tồn tại  trên mạng trong năm tuần lễ. Giảng viên hướng dẫn khoá học sẽ nhắc khi bạn chưa nộp bài tập  đúng hạn theo quy định.      Trong quá trình học, bạn thường xuyên cần tận dụng các công cụ học trên mạng  nhưPresentation (thường được thiết kế gắn với một bài tập nào đó), Chat Room (trao đổi với  thầy giáo và bạn học trong lớp), Class Roster (danh sách các học viên của lớp), My Grades (bảng  điểm cá nhân) vv... Bạn cũng có thể đặt câu hỏi hoặc nêu thắc mắc nhờ giảng viên giải đáp qua  địa chỉ email: elearning@cce.com.vn. Chúng tôi rất mong các bạn tận dụng một ưu điểm của đào  tạo qua mạng là tính giao tiếp hai chiều giữa giảng viên và học viên. Tất cả những thắc mắc  liên quan đến bài học của bạn sẽ được giảng viên nhanh chóng giải đáp!       Chúc các bạn thành công!   CCE ­ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 1
  2. Bài 1. DẪN LUẬN VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ HỌC 1. ĐỊNH NGHĨA/ KHÁI NIỆM VĂN HOÁ      Văn hoá là sản phẩm của hoạt động người, là sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến  cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống . Văn hoá bao trùm lên lên tất cả các mặt của đời  sống con người, khiến bất kỳ định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung  của nó. Do đó cần coi các định nghĩa ấy là những bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hoá  như một chỉnh thể.     Với tư cách một chỉnh thể, văn hoá mang trong mình những đặc trưng bất biến sau:     ­ Văn hoá là cái phân biệt con người với động vật, văn hoá là đặc trưng riêng có của xã hội  loài người.     ­ Văn hoá không phải là sản phẩm của sự kế thừa về mặt sinh học, mà phải qua giáo dục,  nhận thức, giao tiếp trao truyền.     ­ Văn hoá là cách ứng xử đã được hình mẫu thành những khuân mẫu ứng xử. 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HOÁ      Sự kết tinh của các mặt của cuộc sống được thể hiện qua các thành tố của văn hoá. Sự phân  chia văn hoá thành nhiều thành tố hay hai, ba thành tố của hệ thống/ chỉnh thể văn hoá cũng  không đi ra ngoài cách phân chia phổ biến (phù hợp với quan điểm của UNESCO về văn hoá và  di sản văn hoá), phân văn hoá thành hai thành tố: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Những  thành tố văn hoá mà giáo trình nêu cũng thuộc về hai bộ phận văn hoá vật chất và văn hoá tinh  thần. 3. CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ       Văn hoá là sản phẩm của sự nhân hoá thế giới tự nhiên của con người để tạo ra cái "tự  nhiên" thứ hai, tức là tạo ra văn hoá. Văn hoá được được xem là một thiên nhiên thứ hai / hệ sinh  thái văn hoá phải có của con người. Nó cùng với hệ sinh thái tự nhiên làm nên môi trường sống  của con người. Do đó văn hoá mang những chức năng xã hội bao trùm nhất, cơ bản nhất là chức   năng giáo dục.      Là sản phẩm của hoạt động người, Văn hoá không phải là một thực thể tồn tại tự nó, và tồn  tại bên ngoài con người, mà là toàn bộ những sản phẩm, hành động bao chứa vốn kinh nghiệm  xã hội, tạo thành "môi trường văn hoá", nuôi dưỡng đời sống con người. Hoạt động văn hoá vì  thế diễn ra liên tục. Muốn cho hoạt động này khỏi bị đức đoạn thì mỗi thế hệ người phải  thường xuyên làm công việc giáo hoá đối với thế hệ tương lai. Chức năng giáo dục của văn hoá  thể hiện ra như sự kế thừa lịch sử, đảm bảo tính liên tục của lịc sử.        Bác sĩ Sing người Ấn Độ đã kể về trường hợp phát hiện cô Kamala bị chó sói nuôi từ nhỏ.  Khi rời hang sói, Kamala đã 12 tuổi. Ban ngày, cô thường ngũ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo  và đôi khi sủa lên như chó rừng. Bình thường cô đi hai chân, khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi  rất nhanh.Trong bốn năm học nói, Kamala chỉ nhớ được hai từ. Cô không thể trở lại làm người,   và chỉ sống đến năm 18 tuổi.      Sự kiện trên đây cho thấy vai trò / sự tác động của văn hoá đối với con người cực kỳ quan  trọng. Nó chứng tỏ đứa trẻ khi mới sinh ra chưa phải là người, vì không tiếp nhận được một  sản phẩm văn hoá xã hội nào của loài người truyền cho cả. Đúng như nhà xã hội học người Mỹ  R.E. Pacco đã nói: "người không đẻ ra người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo  dục".      Môi trường xã hội loài người / môi trường văn hoá, đối với mỗi đứa trẻ mới ra đời chính là  cái tập thể bao quanh chúng. Lúc đầu là gia đình, gia tộc, làng xóm tiếp đến là trường học và các  nhó xã hội khác, đã nối tiếp nhau thực hiện công việc giáo dục­ xã hội hoá một cá nhân. Đó là  viêc giáo dục, dạy dỗ nhằm trao truyền cho những đứa trẻ những kỷ năng và tri thức, những  chuẩn mực và tập dần cho trẻ cách ứng xử phù hợp với những khuôn mẫu của cộng đồng mà  đứa trẻ là thành viên. Công việc này diễn ra liên tục để mỗi cá nhân có trong mình những yếu tố  2
  3. chung của đời sống tập thể, biết tự kiểm soát hành vi của mình để có thể ứng xử hài hoà (theo  những điều đã được) trước từng trường hợp cụ thể của đời sống. 4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ HỌC      4.1. Văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật.     Đây là những khái niệm gắn liền với văn hoá học. Quan hệ giữa các khái niệm có cả những  nét tương đồng và khác biệt.     ­ Quan hệ giữa văn hoá và văn minh: Văn hoá (văn: vẻ đẹp, hoá: biến cải) và Văn minh (văn:  cái đẹp, minh: ánh sáng) là những khái niệm gần gũi, có quan hệ mật thiết, không đối lập nhau,  song cũng không hoàn đồng nhất. Cả hai khái niệm cùng được dùng để chỉ sức mạnh sáng tạo  của con người. Người ta phân biệt nội hàm hai khái niệm này tuỳ theo văn cảnh: Thuật ngữ văn  hoá và văn minh thường sử dụng với một nội dung giống nhau khi nó được đặc trong quan hệ  dẫn đến các yếu  tố khác như: kinh tế, chính trị, xã hội; song khi vấn đề được bàn đến trong  khoá học văn hoá, thì sự phân biệt văn hoá văn minh là cần thiết.     Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của nền văn hoá.Việc xác định "cao" hay "thấp"  được dựa vào hai tiêu chí cơ bản là: tính duy lý và tính phổ biến của nền văn hoá ấy.     + Tính duy lý thể hiện ở mức độ hiện thực hoá các sức mạnh vật chất, sức mạnh sáng tạo  của con người, được biểu đạc qua hệ thống hoạt động sản xuất xã hội, gồm sản xuất vật chất  và sản xuất tinh thần (hệ thống các chuẩn mực, các tri thức).     + Tính phổ biến thể hiện ở chỗ các thành viên trong cộng đồng văn hoá đó đều hoạt động dựa  trên hệ thống chuẩn mực, giá trị mà cộng đồng ấy xây dựng nên, tạo nên tính đồng nhất văn hoá  trong mỗi thành viên; mặt khác những hệ thống chuẩn mực, giá trị ấy có ảnh hưởng mạnh  đến  các nền văn hoá khác.     Chính vì có hai thuộc tính trên nên văn minh còn được dùng để chỉ tình trạng tiến bộ chung  các cộng đồng người ở mọi cấp độ, từ địa phương, nhà nước, khu vực cho đến nhân loại.     Ở cấp độ phổ quát toàn  nhân loại, văn minh được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật  chất và tinh thần của loài người trong qúa trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội  và mức độ khai hoá của con người. khi loài người tách mình ra khỏi thế giới động vật thị cũng là  bước khởi đầu của văn minh. Theo tinh thần đó, khái niệm văn minh bao gồm bốn nội dung cơ  bản:  Nhà nước, chữ viết, đô thị và trình độ kỹ thuật.     ­ Văn hiến, văn vật: Đây là những thuật ngữ đặc trưng của văn hoá phương đông. Văn hiến  dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người hiền tài chuyển tải. Văn vật dùng để chỉ  truyền thống  văn hoá lâu đời và tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ nhân tài và hiện  vật trong lịch sử.      4.2. Văn hoá tộc người     Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và  tinh thần, cá sắc thái  tâm lý và tình cảm, phong tục và lễ nghi... khiến người ta phân biệt tộc  người này với tộc người khác .     Văn hoá tộc người với các yếu tố cơ bản trên làm nên tính đặc trưng và đặc thù của tộc  người, là nền tảng nẩy sinh và phát triển ý thức tộc người, thực hiện chức năng cố kết tộc  người. Một dân tộc bị mất văn hoá riêng thì ý thức tộc người cũng sẽ bị mai một. Văn hoá tộc  người làm nên tính đa dạng của một nền văn hoá dân tộc (quốc gia).     4.3 Văn hoá vùng     Văn hoá vùng là một thực thể văn hoá bao chứa những sắc  thái văn hoá  chung (thể hiện qua  nếp sống và lối sống của cư dân như sản xuất, nghi lễ, tín ngưỡng, hội hè, qua các hoạt động  văn hoá nghệ thuật, qua phong tục và phong cách sống...) từ đó có thể phân biệt với các vùng  văn hoá khác. 3
  4.     Những đặc trưng chung ấy hình thành trong quá trình lich sử lâu dài, tạo nên tương đồng văn  hoá / tính đồng nhất của các cộng đồng người cùng sống trên vùng lãnh thổ.     4.4. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá     Thực tế cho thấy, xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hoá hiện tồn đều là hiện  thân như kết quả của quá trình giao lưu, tiếp xúc. Giao lưu và tiếp xúc là phương thức tồn tại   của mọi nền văn hoá trên hành tinh này.     Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn  hoá khác nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến đổi mô thức văn hoá của một hoặc cả  hai bên.     Trong giao lưu có thể sảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào  nền văn hoá kia, trường hợp này là tiếp thu thụ động; hoặc một số yếu tố của nền văn hoá  kia được nền văn hoá này vay mượn, trường hợp này gọi là tiếp thu chủ động. Trên cơ sở của  yếu tố nội sinh và ngoại sinh mà chủ nhân nền văn hoá ấy sẻ điều chỉnh, cải biên cho phù hợp,  dẫn đến sự giao thao văn hoá. Từ góc độ này thì nội dung của một nền văn hóa cụ thể được  phân xuất thành: yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.     Việc phân chia như thế chỉ mang tính tương đối. Cùng với thời gian, yếu tố ngoại sinh có thể  biến thành yếu tố nội sinh, hoặc bị biến đổi một cách căn bản để trở nên phù hợp hơn với nền  văn hoá đã tiếp nhận nó. Việc tiếp thu nho giáo, Phật giáo của Việt Nam và một số nước Đông  Nam Á là một minh chứng về sự biến đổi đó.     Dưới góc độ giao lưu tiếp xúc văn hoá, có thể nói văn hoá Việt Nam là kết quả của các cuộc  gặp gỡ văn hoá lớn trong khu vực.     ­ Giao lưu văn hoá Ấn Độ: Giao lưu trực tiếp qua đường biển đông; giao lưu gián tiếp qua văn  hoá Bắc thuộc, qua văn hoá Chămpa ở Trung bộ và văn hoá Óc Eo ở Nam bộ.     ­ Giao lưu văn hoá với Trung Hoa: Chủ yếu bằng con đường cưỡng bức (bị xâm lược, đô hộ  và đồng hoá).     ­ Giao lưu văn hoá phương tây: Trong lịch sử, sự giao lưu này chủ yếu diễn ra  thông qua các  kênh: buôn bán đường biển; sự đô hộ của thực dân Pháp, kế đến là đế quốc Mỹ (miền Nam việt  Nam). Ngày nay, giao lưu văn hóa với phương Tây đã có thêm nhiều hình thức mới. 5. VĂN HOÁ VÀ CÁC BỘ MÔN VĂN HOÁ HỌC      Văn hoá là môn khoa học tích hợp(Integral Science), vừa nghiên cứu văn hoá nói chung, vừa  nghiên cứu hiện tượng văn hoá riêng biệt. Mục đích của văn hoá học là phát hiện ra và phân tích  tính qui luật của những biến đổi văn hoá ­ xã hội. Đối tượng của văn hoá học chính là văn hoá.     Văn hoá được xem xet từ nhiều góc độ, do vậy văn hoá học có thể được nghiên cứu dưới  nhiều góc độ khác nhau, tạo nên nhiều phân môn như:     ­ Lịch sử văn hoá     ­ Địa lý văn hoá     ­ Văn hoá học đại cương     ­ Cơ sở văn hoá.     ... 4
  5. Bài 2. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VIỆT NAM I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THUỘC LOẠI HÌNH VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP      Các nền văn hoá trên thế giới, bên cạnh những sắc thái riêng thì có không ít những nét tương  đồng, vì vậy có thể đối thoại với nhau. Những nét tương đồng đó được lý giải thông qua ba chủ  thuyết lớn     ­ Thuyết khuếch tán văn hoá      ­ Thuyết vùng văn hoá      ­ Thuyết loại hình kinh tế ­ văn hoá     Các chủ thuyết này không mâu thuẫn nhau, mà bổ sung cho nhau để đáp ứng yêu cầu nhận  biết về văn hoá của con người, trong đó thuyết loại hình kinh tế ­ văn hoá có ý nghĩa cho việc  tìm hiểu những nền văn hoá của các dân tộc ở phương Đông và phương Tây từ góc độ khởi  nguyên văn hoá. Loại hình văn hoá được giải thích, phân chia từ góc độ này có cơ sở là căn cứ  vào sự khác biệt về môi trường sống. tức là can cứ vào địa bàn cư trúvới điều kiện khí hậu khác   nhau giữa các vùng trên thế giới. Theo đó, khởi nguyên ban đầu thế giới chỉ có các vùng: châu  Âu, châu Á và châu Phi. Từ ba vùng này đã sản sinh hai loại hình: loại hình văn hoá du mục và  loại hình văn hoá nông nghiệp.    ­ Cư dân cư trú ở phía Tây ­ Bắc tức châu Âu (so với châu Phi ở phía Đông Nam) và cư dân  vùng Tây ­ Bắc châu Á là vùng khí hậu khô lạnh, là xứ sở của những thảo nguyên mênh mông.  Ở đây, nghề du mục chăn nuôi phát triển, tạo ra lối sống du cư, vừa đi vừa ở, nay đây mai đó.  Nơi này không thuận tiện, họ có thể dễ dàng chuyển đi nơi khác. Cư dân sống không phụ thuộc  vào thiên nhiên. Đối tượng sản phẩm của nghề chăn nuôi là đàn gia súc. Khi tách hộ, tách tộc thì  dẫn đến việc tính toán phân chia gia súc. Cùng với chăn nuôi là nhu cầu cần phải trao đổi hàng  hoá, vì vậy, thương nghiệp đã sớm xuất hiện. Thương nghiệp xuất hiện đòi hỏi phải có kho  chứa hàng và bãi trao đổi hàng hoá, dẫn đến sự hình thành đô thị. Đô thị xuất hiện kéo theo các  ngành nghề thủ công sớm ra đời. Việc xây dựng nhà cửa, kho bãi, đường giao thông dẫn đến  khoa học kỹ thuật sớm phát triển. Tóm lại, tất cả những điều kiện của phương thức sinh tồn  này dẫn đến kinh tế du mục. Văn hoá lại được quy định bởi kinh tế, vì vậy loại hình văn hoá du  mục là sản phẩm của hình thái kinh tế này, với những đặc tính sau:     + Dân du mục sống không phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không coi trọng thiên nhiên bằng coi  trọng sức mạnh con người; ít chú ý bảo vệ thiên nhiên. Con người trong ứng xử thì độc tôn,  trong tiếp nhận theo xu hướng chiếm đoạt và trong đối phó thì cứng rắn.     + Du mục ưa di chuyển, trọng động, hiếu chiến (khởi nguyên là từ chiếm đoạt gia súc, chiếm  đoạt thị trường).     + Sự ra đời của thương nghiệp, đô thị, công nghiệp đòi hỏi phải tính toán, hạch toán, nên tư  duy phân tích sớm phát triển. Tư duy phân tích chú trọng các thành tố, yếu tố, dẫn đến phát triển  mạnh về cấp số nhân, kéo theo sự xuất hiện trừu tượng hoá thoát khỏi những yếu tố ban đầu,  dẫn đến siêu hình. Tư duy phân tích gắn liền với siêu hình nên triết học siêu hình sớm nảy nở.     + Thương nghiệp, công nghiệp thì phải hạch toán, dẫn đến rất coi trọng và thiên  vềpháp, lý hơn tình cảm. Đó chính là cơ sở cho pháp luật sớm ra đời, nghị trường sớm hình  thành.     Tất cả những đặc tính trên cũng là những đặc trưng của văn hoá phương Tây sau này.      ­ Cư dân ở vùng Đông Nam thế giới, nhất là vùng Đông Nam châu Á có điều kiện khí hậu  nắng, nóng, ẩm nhiều, lắm mưa, sông ngòi, ao hồ, bãi bồi nhiều, đây là điều kiện thuận lợi cho  nghề nông nghiệp cấy trồng. Kinh tế nông nghiệp đã ra đời và phát triển, là nền tảng hình thành  / tạo nên nền văn hoá nông nghiệp. Văn hoá nông nghiệp có những đặc tính sau:     + Nông nghiệp phải phụ thuộc, trông chờ nhiều vào thiên nhiên (mưa nắng phải thì), dẫn đến  lối sống hoà hợp cùng thiên nhiên, tôn trọng, không ganh đua với thiên nhiên. Chẳng hạn như ở  5
  6. Việt Nam, người nông nghiệp tôn thờ trời và những hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm,  chớp, trong suy nghĩ thì ''ngẫm hay muôn sự tại trời''.      + Làm nông nghiệp cấy trồng thì phải định cư lâu dài, phải trông chờ mùa vụ, sản phẩm cây  trái dài ngày hàng đời. Định cư nông nghiệp ưa ổn định, ưa tĩnh và khao khát hoà bình ''trời yên  biển lặng mới vui tấm lòng''.     + Nông nghiệp cấy trồng thì phải dựa vào nhau để tạo sức mạnh làm thuỷ lợi, chiến thắng  thiên tai địch hoạ. Phải dựa vào nhau nên phải yêu thương nhau, vì thế văn hoá nông nghiệp  thiên về trọng tình cảm, tình nghĩa ''Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình''.     + Yêu thương nhau thì ''chín bỏ làm mười', văn hoá nông nghiệp ít ưa hạch toán, ít trọng lý, ít  trọng pháp, dẫn đến lối ứng xử xuê xoa, đại khái.     + Thành quả nông nghiệp là từ nhiều yếu tố hợp thành: Thời tiết, giống má, kỹ thuật nên dẫn  đến phát triển tư duy tổng hợp. Tổng hợp thì kéo theo biện chứng ­ tư duy không phải là tập  họp các yếu tố riêng lẻ, mà là mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố. Vì thế tư duy văn hoá nông  nghiệp cấy trồng là linh hoạt ''dĩ bất biến, ứng vạn biến'', chủ thể văn hoá có lối ứng xử là dung  hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo trong đối phó.     + Văn hoá nông nghiệp trong cộng đồng, trọng tình nghĩa, tình cảm, khiến nảy nở tâm lý hiếu  hoà, cư xử khoan dung, khoan hoà, chấp nhận.     Những đặc tính văn hoá trên đây cũng là những đặc tính của văn hoá nông nghiệp Việt Nam,  biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực:    . Ứng xử với môi trường tụ nhiên     . Kiểu tư duy     . Nguyên tắc tổ chức cộng đồng     . Lối sống     . Các ứng xử với môi trường xã hội II. CON NGƯỜI VIỆT NAM ­ CHỦ/ KHÁCH THỂ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM      ­ Văn hoá Việt Nam như nó đang tồn tại là một nền văn hoá của một quốc gia đa tộc người,  gồm 54 dân tộc, trong đó tộc người Việt (kinh) ­  ''tộc người đa số'', đóng vai trò là tộc người  chủ thể. Đó là một cộng đồng người làm nông nghiệp lúa nước được hình thành trong quá trình  khai phá vùng châu thổ Hồng, với đặc trưng nổi bật trong tính cách là sắc thái, triết lý nghĩa  nghĩa tình trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, làm nên lối ứng xử duy tình, duy cảm, duy  nghĩa, gắn chặt với quan niệm sống của cư dân nông nghiệp, đó làphúc đức và phúc đức tại  mẫu. III. NHỮNG DỮ KIỆN CĂN BẢN VỀ ĐỊA LÝ, XàHỘI VÀ LỊCH SỬ CỦA VĂN HOÁ  VIỆT NAM      1. Văn hoá chịu sự chi phối đáng kể của môi trường tự nhiên. Hoàn cảnh địa lý/ môi trường tự  nhiên Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: Nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa.     Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, vùng bao gồm miền chân núi  Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Các  hạ lưu của sông gồm Dương Tử, sông Hồng, Mê Công, Chaophaya... đều là những vùng đồng  bằng màu mỡ đầy phù sa. Một đặc trưng của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữ bình nguyên  và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có gió  mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nghề nông trồng lúa nước. Đặc biệt sông  nước đã để lại dấu ấn quan trọng làm nên một nét độc đáo trong văn hoá nông nghiệp lúa  nước. Sông nước và thực vật là hai đặc tính nổi trội trong văn hoá Việt Nam, làm nên nền văn  minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P. Gourou) hay văn minh thôn dã. Văn hoá lúa nước  tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) đã in dấu ấn đậm nét trong trong đời sống hàng ngày  của con nguời Việt Nam như: ăn, ở và đi lại. Bữa ăn / bữa cơm hàng ngày của người Việt được  mô hình hoá là:cơm ­ rau ­ cá, thêm vào đó, người Việt không có thói quen ăn sữa và các sản  6
  7. phẩm từ sữa động vật, cũng không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt ­ chăn nuôi gắn  với trồng trọt. Tính chất thực vật cũng thể hiện rõ nét trong đời sống tâm linh qua tục thờ cây.  Và môi trường sông nước được coi là một yếu tố quan trọng khi xem xét về những vấn đề văn  hoá và con người Việt Nam. Yếu tố nước tạo nên sắc thái riêng biệt trước hết là trong tập quán  kỹ thuật canh tác (hình thành một hệ thống: Đê, ao, kênh, rạch...), cư trú (có làng ven sông, làng  trên sông, tới những đô thị ven sông, ven biển hay đô thị, thành phố ngã ba, ngã tư sông...), ở (nhà  sàn, nhà có mái hình thuyền, nhà ­ ao; nhà thuyền...), ăn (cá sông, cá bể / biển, các loại nhuyễn  thể...), đến tâm lý ứng xử (linh hoạt, mềm mại như nước), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền,  bơi chải...), tín ngưỡng tôn giáo (thờ cá voi, thờ rắn, thờ Thuỷ thần...), phong tục tập quán, thành  ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo, tuồng, rối nước, hò, lý...) và truyền thống cố kết cộng  đồng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh với bão tố thiên tai, với lũ lụt.     Việt Nam ở bán đảo Đông Dương, là đầu cầu mở vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và  Trung Quốc. Vị thế này tạo cho Việt Nam trở thành giao điểm của các nền văn hoá văn minh, là  cầu nối Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo.     2. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lực và mở mang bờ cõi về phía biển và  phương Nam.     3.  Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền: nhà ­ làng ­ nước. Đây là một thể cộng đồng đồng tâm   và đồng dạng:      ­ Nhà/ gia đình (hình thức mở rộng là Họ): Đại đa số là gia đình tiểu nông, với cơ cấu kinh tế  tự túc, tự cấp theo mô hình ''chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa''.      ­ Làng: Là một đơn vị cộng cư của cư dân nông nghiệp định cư trên một vùng đất chung, một  hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tự túc tự cấp. Đó cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có  nền sản xuất tiểu nông. Làng được hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội  nguồn và cùng chỗ. Làng có sức sống mãnh liệt với cấu trúc động, không có làng bất biến. sự  biến đổi của làng do sự biến đổi chung của đất nước. Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội  mà ở miền Trung và miền Nam tuy gốc gác cũng là người Việt từ miền Bắc di cư vào, nhưng  với môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội thay đổi nhiều, không còn  những đặc điểm như làng Bắc Bộ.     Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của làng  được thể hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã  hội như lệ làng, tín ngưỡng, lễ hội của làng. Đặc trưng nổi bật của làng Việt Nam là ý thức  cộng đồng làng, ý thức tự quản ­ quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của  làng và tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn  giáo, kể cả giọng nói và cách ứng xử. Các đặc trưng trên có mối liên hệ hữu cơ, tạo cho làng  một vị trí đặc biệt làm nên những đặc trưng văn hoá làng, văn hoá dân tộc.     Làng là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, đồng thời là một môi trường văn hoá. Ở đó,  mọi thành tố, mọi hiện tượng văn hoá được sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi  thành viên.       ­ Nước: Là một cộng đồng siêu làng/dân tộc. Khi cộng đồng người đã tiến tới trình độ dân  tộc thì cộng đồng làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Con người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu  đã là con người vừa của làng, vừa của nước ''sống ở làng sang ở nước''.     Nhà ­ làng ­ nước của người Việt Nam vốn đã sớm có bản sắc của mình.     4. Cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống: xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp, văn hoá  Việt Nam là văn hoá nông nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình, làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai  yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam. Đặc trưng cơ cấu xã hội Việt Nam  truyền thống là những gia đình tiểu nông trong những làng xã tiểu nông.     Những dữ kiện trên đây là cơ sở hình thành và củng cố những đặc điểm của dân tộc  Việt Nam, trong đó quan trọng và tiêu biểu là những đặc điểm sau đây: 7
  8.     1. Tính cố kết cộng đồng sâu sắc. Đặc điểm này giúp con người Việt Nam vượt qua những  khó khăn thử thách của thiên nhiên và kẻ thù xâm lược.     + Cộng đồng gia đình: Một giọt máu đào hơn ao nước lã.      + Cộng đồng làng xóm: Bán anh em xa mua láng giềng gần.      + Cộng đồng lãnh thổ/dân tộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung  một giàn; hay: Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.     2. Tinh thần tương thân tương ái cộng đồng, lối ứng xử nhân hậu với môi trường tự nhiên.     3. Tinh thần cởi mở, hỗn dung những tinh hoa văn hoá bên ngoài song vẫn giữ cốt lõi và bản  sắc văn hoá Việt Nam trong bất kỳ hoàn cảnh nào.     4. Văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Quốc gia dân tộc Việt  Nam hiện nay gồm 54 tộc người, trong đó tộc người Việt là tộc người chủ thể. Nền văn hoá  thống nhất của quốc gia dân tộc Việt Nam bao gồm văn hoá của 54 tộc người, với đặc trưng  vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hoá Việt Nam cần phải tiếp cận và  phản ánh được tính thống nhất trong đa dạng ấy. Bài 3. ĐẠI CƯƠNG VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM Tiến trình văn hoá Việt Nam có thể phân thành 5 thời kỳ: I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ     Đây là thời kỳ hình thành nền tảng/cơ tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ khi người nguyên  thủy biết dùng đá để chế tác công cụ cách ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng  Vương dựng nước ­ thời đại làm nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình  thành của nền văn minh sông Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn  Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương. 1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử.      Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình thành nhà nước /  quốc gia (từ buổi đầu thế kỷ I TCN ­ cuối thời đại đá mới), trên đất nước Việt Nam đã có một  quá trình phát triển văn hoá lâu dài.      ­ Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hoá chung cho tất cả cư  dân ở vùng Đông Nam Á. Đó là nền văn hoá lấy nghề nông làm phương thức hoạt động, thích  nghi với điều kiện tự nhiên thuộc khu vực châu Á gió mùa ­ Nền văn hoá có đặc trưng là một  phức thể văn hoá lúa nước với ba yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển.  Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo.      Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rừng làm nương rẫy, trồng lúa cạn. Ở thung lũng,  đồng bằng, ở ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở  nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để cày bừa. Ở  ven các dòng sông, ở ven biển, cư dân thạo nghề đi biển  và đánh bắt hải sản.       Ở các vùng núi, cư dân nói chung còn ở trình độ tổ  chức sống bộ lạc, nhưng ở trung du và đồng bằng, cư  dân đã dần dần vươn tới trình độ tổ chức liên minh bộ  lạc, sống thành vùng cư dân đông đúc, gồm nhiều làng  xã lớn. Liên minh bộ lạc là một bước quá độ để vươn  lên trình độ tổ chức quốc gia. 8
  9.     ­ Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hoá núi, đồng bằng và biển, có  đủ các sắc tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện nay.     Thông qua các ngành khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền văn hoá trên đất  nước Việt Nam thuộc thời kỳ tiền sử:     + Văn hoá Núi Đọ ­ văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn năm kéo dài cho đến  một vạn năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá này là từ điểm khảo cổ học ở núi Đọ,  Thanh Hoá)     + Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) ­ văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20 đến 15 nghìn năm  trước công nguyên.     + Văn hoá Hoà Bình (Hoà Bình) ­ văn hoá thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài khoảng từ 12.000  đến 7.000 năm cách ngày nay. Đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá  Hoà Bình.     + Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn) ­ văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài khoảng từ 11.000  năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên  khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá mới. Để đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc  nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai  thác sang kinh tế sản xuất, thực sự bước vào lĩnh vực sáng tạo văn hoá.     Cư dân thời đại đá mới đã có những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa vào những tri thức  đó để thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Chẳng hạn, người Hoà Bình cư trú trong các  hang động đã nhận biết được những hiện tượng có tính quy luật của gió mùa, do đó để tránh gió  mùa, các hang động của họ đã không có hang động nào quay về hướng chính Bắc, mà có tới hơn  50% quay về hướng nam và hướng đông Nam. Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết nghệ  thuật, như những hiện vật xương có vết khắc hình cá, hình thú và người trên vách hang Đồng  Nội. Trong sự nhận thức về thiên nhiên của người Hòa Bình, còn thấy rõ những cảm nhận về  những nhịp điệu vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch một trên  các hòn đá cuội trong hang động. Dù chỉ là giả thuyết, những di vật tìm thấy trong văn hoá Hoà  Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển mới về tư duy của người nguyên thuỷ. Tư  duy về thời gian, vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, ký hiệu biểu thị mặt trời như  hình tròn, hình chữ vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành loại nông lịch sơ khai.  Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ: niềm tin vào thế giới bên kia; sự tôn  thờ các sức mạnh tự nhiên. Những hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, đặc biệt là mặt trời đã trở  thành những thần linh quan trọng đối với con người. Về tổ chức xã hội, vào giai đoạn hậu kỳ đá  mới, khi con người đã chọn nghề nông và sống định cư, thì có thể tin rằng nhiều bộ lạc đã sống  thành hàng xóm. 2.Thời sơ sử.     Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng  Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3  trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ nhất Đông Nam Á :     ­ Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng  và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế  tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm  đồng thời cũng là biểu tượng của văn hoá Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình  thànhvà phát triển của văn hoá Đông Sơn / văn minh sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình  hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên của họ. Đây là một nền văn  hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều thành  phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn là một điển hình  của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. 9
  10.     ­ Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc  Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa, nhưng biết khai  thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề thủ công.     ­ Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ vào  những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà  nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là  sản phẩm của cư dân có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công. Tóm lại, tiến trình văn hoá thời tiền sử và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành nền tảng của văn  hoá Việt Nam, với các đặc điểm cơ bản sau đây:     ­ Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên những nền  tảng của văn hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là phác thảo khởi nguyên về  một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau.     ­ Những nền tảng văn hoá đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội sinh, nằm trong cơ  tầng văn hoá chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá  ­ văn minh Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á.     ­ Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt Nam là văn hoá  Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam  Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc,  nhưng luôn có mối quan hệ qua lại với nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá  khác ở khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn  ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang ­ Âu Lạc, Chăm Pa và Phù Nam.     ­ Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước ta  đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc của người Việt đã  sớm hình thành và làm nên một sức mạnh đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa  có khả năng thâu hoá những nhân tố của mô hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng  nhà nước Đại Việt tự chủ sau này. II. VĂN HOÁ VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ THỨ NHẤT SAU CÔNG NGUYÊN      Trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng tồn tại  ba nền văn hoá: văn hoá của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, văn hoá  Chăm Pa ở ven biển miền Trung, và văn hoá Óc Eo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.  Ba nền văn hoá này có những nét chung do có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, nhưng cũng  lại có những nét riêng do từng vùng có những đặc điểm và số phận lịch sử khác nhau. Bài giảng  trình bày đặc điểm văn hoá của cư dân châu thổ bắc Bộ với tư cách đại diện, điển hình.     1. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị nước Nam Việt của  Triệu Đà (đóng đô ở Phiên Ngung thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) thôn tính. Năm 111  trước công nguyên, nước Nam Việt bị thôn tính vào đế quốc Hán, nước Âu Lạc lúc ấy thuộc  nước Nam Việt cũng bị thôn tính theo. Từ đó, đất nước ta trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, tức  là chịu sự đô hộ, áp đặt văn hoá của phong kiến phương Bắc và có sự chống phong kiến phương  Bắc đô hộ để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch sử các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong  suốt thời kỳ Bắc thuộc là lịch sử của một cuộc đấu tranh đề kháng dai dẳng, bền bỉ để bảo tồn  giống nòi, bảo vệ nền văn hoá dân tộc và giải phóng đât nước. Cuộc đấu tranh chống ách đô hộ  của phong kiến phương Bắc thành công nên mới tồn tại nền văn hoá Việt Nam hiện nay.     2. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung Quốc từ Hán đến Đường, thông qua  chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp nhau thi hành chính sách cai trị tàn bạo, chính sách  đồng hoá / Hán hoá đối với người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn  thôn tính nước ta vào đế quốc phong kiến phương Bắc. Đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn  hoá lịch sử giai đoạn này là: 10
  11.     ­ Tiếp xúc cưỡng bức văn hoá Việt ­ Hán.     ­ Tiếp xúc văn hoá Việt Ấn.     ­ Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hoá.     3. Dấu ấn văn hoá thời kỳ Bắc thuộc áp đặt vào Việt Nam mà ngày nay vẫn còn ảnh hưởng  rõ nét là các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Giáo...     ­ Nho giáo (còn được gọi là đạo Nho hay Khổng giáo) do Khổng Tử (551 ­ 479 trước CN) sáng  lập. Nho giáo không phải là tôn giáo hiểu theo đúng nghĩa, không phải là học thuyết triết học  theo nghĩa chính xác, mà thực chất là học thuyết chính trị ­ xã hội và đạo đức của giai cấp thống  trị. Nho giáo thiết lập trật tự xa hội, quan hệ giữ người với người trong xã hội và quan hệ giữa  con người với thế giới tụ nhiên (trời). Giai cấp thống trị coi Nho giáo là công cụ để cai trị xã hội  theo theo một trật tự nghiêm ngặt cho các mối quan hệ trong xã hội. Tư tưởng này quy định  phương châm ứng xử theo thứ bậc: quân, sư, phụ, và con người trong xã hội phải giữ đạo  Cương thường (trung quân, ái quốc, tam tòng tứ đức, tam cương ngũ thường) để duy trì và củng  cố trật tự xã hội ấy. Học thuyết về con người với thế giới tự nhiên đuợc thể hiện thông qua tư tưởng 'Thiên mệnh',  'Thiên nhân cảm ứng'.     ­ Đạo giáo là một thuật ngữ dùng để chỉ hai dòng triết học và tôn giáo ủa Trung Quốc có bản  chất khác nhau: một dòng là đạo Giáo triết học được gọi là đạo Gia, một dòng là đạo giáo tôn  giáo thường được gọi là đạo Giáo.     Đạo Gia do Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, nên còn gọi là đạo Lão ­ Trang. Đạo này  đề cao tư duy trừu tượng, coi thường việc nghiên cứu sự vật cụ thể, khuyên con người sống  gần gũi tự nhiên, không làm gì trái với lẽ tự nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, đạo Lão ­ Trang  chủ yếu lưu hành trong số người Hán thất thế.     ­ Đạo giáo, một tôn giáo bản địa của Trung Quốc hỗn hợp rất nhiều tín ngưỡng Saman giáo  và các phương thuật của dân gian lẫn cung đình như: đoán mộng, xem sao, bói rùa, cúng quỷ  thần, đồng cốt, cầu tiên v.v...Đạo này khi được truyền bá vào Việt Nam đã hoà nhập với tín  ngưỡng đa thần của người Việt, bổ sung những tín điều cần thiết cho tín nguỡng dân gian Việt  Nam.     ­ Phật giáo: Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào nước ta cùng từ thời kỳ này, khoảng thế kỷ đầu  công nguyên.  Đạo Phật (Buddha, tiếng Ấn là 'giác ngộ') phát sinh ở Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên,  tại một bang Capilavatxtu gần biên giới Nê pan. Người sáng lập là đức Thích ca Mâu ni (Cakya  Mauni). đạo Phật là tiếng nói bất bình của quần chúng nhân dân lao động đối với chế độ đẳng  cấp hà khắc, là sự phản ứng mãnh liệt, chống lại quyền uy của đẳng cấp thống trị Bàlamôn.  Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có  thể thành Phật, từ chỗ từ giác đến chỗ giác tha. Đạo Phật khuyên mọi người nên tiết chế dục  vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, tu nhân tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Thuyết 'Nhân quả  nghiệp báo' của đạo Phật phù hợp với quan niệm 'ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão' trong tín  ngưỡng dân gian Việt Nam. Thuyết “Luân hồi” cũng phù hợp với quan niệm dân gian cho rằng  linh hồn tồn tại sau khi thể xác tiêu tan và tiếp tục đầu thai để kiếp sau trở lại cuộc sống thực  tại.     4. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng những tư tưởng lớn như trên, trên cơ sở văn minh nông  nghiệp và xóm làng, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và vùng  biển phương Nam.     5. Song hành với việc chịu Bắc thuộc, việc chống Bắc thuộc để bảo vệ bản sắc văn hoá dân  tộc của dân tộc ta đạt được những kết quả mang tính quyết định sự tồn tại của cả dân tộc VIệt  Nam. bản sắc văn hoá dân tộc được bảo vệ có thể kể ra ở một số mặt chính sau đây:     ­ Tiếng nói.     ­ Tín ngưỡng dân gian và lễ hội dân tộc.     ­ Văn nghệ dân gian.   11
  12.     6. Như vậy, nhìn tổng thể có thể kết luận rằng, đã diễn ra hai khuynh hướng đối lập của tiến  trình văn hoá Việt Nam thời Bắc thuộc:     ­ Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai.     ­ Khuynh hướng Việt hoá nhằm gìn giữ và phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền từ đã có  từ thời Văn Lang ­ Âu Lạc, mặt khác còn tiếp thu, hội nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài để  làm phong phú văn hoá Việt; sắp xếp, cấu trúc lại nền tảng văn hoá Việt. Khuynh hướng này là  chủ đạo.     Đối lập lại chủ nghĩa 'bình thiên hạ' của kẻ thù, nhân dân ta đã phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa  yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường. Đối lập với bộ máu nhà nước đế chế  và tổ chức chính quyền đô hộ theo cơ cấu quận huyện, nhân dân ta lo củng cố và giữ gìn cộng  đồng xóm làng. Từ làng, người Việt vươn ra giành lại nước. Đối lập với sức mạnh của một đế  chế lớn mạnh, nhân dân ta tạo lập nên một sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc  thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quần chúng rộng rãi, mau chóng phát triển thành chiến  tranh nhân dân giải phóng dân tộc, và cuối cùng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô  Quyền lãnh đạo, cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang. III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP      Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn hoá ở thiên niên kỷ  đầu công nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau.      Nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ VIII, dường như  chỉ còn ánh hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư liệu và thư tịch nữa.      Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một  nhà vương quốc. Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt  Nam. Nền văn hoá Chăm Pa trở thành nền văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc  người Việt Nam.     Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền văn hoá Đại Việt.     Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm 938 đến năm 1858.  Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc gia.     ­ Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự chủ: nhà Ngô (939  ­ 967), nhà Đinh (967 ­ 981), nhà Tiền Lê (981 ­ 1010), nhà Lý (1010 ­ 1225), nhà trần (1226 ­  1400), nhà Hậu Lê (1427 ­ 1527), nhà Mạc (1527 ­ 1592), Trịnh ­ Nguyễn (1592 ­1788), Tây Sơn  (1778 ­ 1802), tên nước Đại Việt được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 ­ 1945), khi  Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt Nam.     ­ Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc: chống  giặc Tống, giặc Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc Thanh xâm lược.      ­ Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một quá trình phát triển  về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành.  Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam  Quan đến mũi Cà Mau.     ­ Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập:     + Lần thứ nhất vào thời Lý Trần.     + Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV.     + Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII. 1. Đặc điểm văn hoá thời Lý ­ Trần      a. Hệ tư tưởng chủ đạo trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho, Phật, Đạo, trong đó  nổi trội là Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam giáo đồng nguyên'.     ­ Phật giáo tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân  tộc. Đạo Phật thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật  12
  13. giáo thời này cũng đã tác động đến tư tưởng, tâm lý , phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó  ảnh hưởng to lớn đến văn học nghệ thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt  trong điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác hẳn các giai đoạn về sau.     ­ Nho giáo trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập trật tự trong xã  hội. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được coi trọng. Năm 1070, nhà  Lý dựng Văn Miếu, mở Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân  tài. Dần dần Nho giáo đã có địa vị trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho  giáo, đã chính quy hoá chế độ thi cử. Năm 1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi, dành cho ba  người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử, tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho  sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên trong triều, lấn át tư tưởng Phật giáo.      b. Nền văn hoá bác học bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội ngũ trí thức Phật  giáo và Nho giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư, đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ  văn tất nhiên ảnh hưởng hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang  tính nhân văn và giá trị văn hoá sâu sắc, như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô  (Lý Công Uẩn)...     Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự ­ chữ Nôm. Chữ Nôm được đưa vào  sáng tác văn học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ Nôm thời kỳ này là Trần Nhân  Tông với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử  phú; Huyền Quang với Vịnh hoa yên tự phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ  Nôm vừa chữ Hán). Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như chèo, tuồng. 2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê     a. Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần.      Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên nước ta thành quận  Giao Chỉ. Nhà Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt.     Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm  chống quân nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc. trang sử mới của đất nước được mở ra,  văn hoá dân tộc bước vào thời kỳ phục hưng lần thứ hai.     b. Thành tựu văn hoá:     ­ Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức / Lê triều  hình luật. Bộ luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp  quyền thời phong kiến.     ­ Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy Nho giáo làm chuẩn  mực, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn  hiền tài, bổ nhiệm vào bộ máy nhà nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ  xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu,  gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa hầu hết qua thi cử. Chính vì  vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà Hậu Lê.      ­ Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và phát triển. Với Quốc  Âm thi tập (254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt  Nam.     ­ Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập thành toán pháp  (Lương Thế Vinh), Đại thành toán pháp (Vũ Hữu).      ­ Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ  thuật, được thể hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh) ­ tác phẩm lý luận đầu  tiên về kịch hát cổ truyền. Về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình  tượng con rồng. Sự tác động của hệ thống tư tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình  13
  14. tượng con rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của cư dân nông nghiệp thành biểu tượng  cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê, nơi thờ thần làng cũng mang  chức năng mới ­ Công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước. 3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858      a. Nét đặc trưng của lịch sử thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt, sự xung  đột Lê Mạc, Lê ­ Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng  khổ sở dẫn đến nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà Nguyễn của vua  Gia Long, đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.     b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư tưởng Nho giáo.  Tuy nhiên, giai cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống  xã hội, nhất là ở thời nhà Nguyễn (từ vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc  dù vậy, Nho giáo vẫn không có được vị thế như thế kỷ XV. Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một bộ phận trong đời  sống tư tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo.     c. Ki tô giáo vào Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ thời kỳ  đầu gắn liền với việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' ­  AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 ­ 1651, Alếc xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt ­ Bồ ­ La tại  Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính thức của chữ quốc ngữ­ chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện  của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới.     d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật, trong đó có văn học chữ Nôm phát triển mạnh.  Những tác phẩm Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc  (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển  mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI ­ XVII phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được  xác định chắc chắn tại các làng quê.     e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về phía nam, dẫn đến sự  hình thành Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài.     Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đến, ở đây đã có  một nền văn hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình  cộng cư, người Chăm và người Việt đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình.Do đó, văn hoá của  người Việt ở Đàng Trong, về cơ bản vẫn đảm bảo tính thống nhất. IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢC      1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10 năm, từ 1858  đến 1867, các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm và bị đặt dưới ách thống  trị của người Pháp. Đến năm 1872, quân Pháp đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà  Nguyễn phải ký với thực thực dân Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước  này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp.      2. Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng thực dân Pháp,  công nhận ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu  yêu nước đã liên tục đứng lên chống Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước  chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi  việc bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai  thác thuộc địa.     3. Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây phương (Pháp), và  đối tượng trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự  giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ phu ­ những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá  thành ba thái độ ứng xử khác nhau: 14
  15.     ­ Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây.     ­ Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá  Pháp để ra làm quan cho chính quyền thuộc địa.     ­ Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc.     4. Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực:     ­ Văn hoá vật chất: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát triển của kiến trúc  đô thị theo kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đô thị có  nguồn gốc phương Tây...       ­ Văn hoá tinh thần: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc  ngữ gắn với sự xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết,  thơ mới), những quan điểm nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương  pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển  của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là các nhà thơ ­ chí sĩ:  Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... Về sau các nhà hoạt  động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố cáo chế  độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng  tám, bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc sảo xã hội  của chế độ thực dân như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng  Phụng)... V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY      1. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị  thực dân Pháp xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến  động lớn lao. Đó là trong vòng một nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai  cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.     2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này:     ­ Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác  ­ Lênin. Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo sự định hướng của  Đảng Cộng sản Việt Nam, từ các văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ  nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của  Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng...      ­ Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá ­ hệ tư tưởng Mác ­ Lênin.     ­ Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh mẽ với  văn hoá nhân loại. Bài 4. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM     Ngôn ngữ là sản phẩm tư duy đặc thù của dân tộc. Nước ta có 54 dân tộc cũng là có 54 tiếng  nói khác nhau, với cuộc sống tinh thần và tập quán xã hội khác nhau. Theo ngôn ngữ văn hoá,  các dân tộc được xếp vào 8 nhóm văn hoá ngôn ngữ tộc người. I. DÂN TỘC VÀ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI  1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt ­ Mường:     Việt, Mường, Thổ, Chứt. 2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn ­ Khơ Mer    Ba Na, Brâu, Bru ­ Vân Kiều, Co, Chơ Ro, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié ­ Triêng, Hrê, Kháng, Khơ Mer,  Khơ Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Tà Ôi, Rơ Măm, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng. 3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày ­ Thái 15
  16.     Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái. 4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông ­ Dao      Dao, Mông, Pà Thẻn. 5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai    Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo. 6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai ­ Đa Đảo      Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai. 7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán    Hoa, Ngái, Sán Dìu. 8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng ­ Miến      Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.     Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử ngôn ngữ Việt Nam có một nền tảng chung là ngôn  ngữ Đông Nam Á, đồng thời có một lịch sử phát triển lâu dài, và có nguồn đa nguồn. Lịch sử  phát triển tiếng Việt trải qua ba giai đoạn. Đó là:     ­ Tiền Việt ­ Mường.     ­ Việt ­ Mường chung.     ­ Tiếng Việt độc lập.     Sắc thái đặc thù của ngôn ngữ Việt Nam là sự giao thoa, tiếp xúc đan xen giữa những yếu tố  nội sinh với những bồi đắp ngoại sinh. Lịch sử đã trộn các yếu tố ấy ở vùng lòng chảo Bắc Bộ  và vùng vịnh cổ Hà Nội để tạo nên tiếng Việt / kinh phong phú và thanh tao, được thể hiện  trong văn hoá giao tiếp cùng cách sử dụng ngôn từ của người Việt Nam. II. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM      ­ Vừa cởi mở vừa rụt rè:      Đặc trưng này bắt nguồn từ văn hoá làng xã với hai đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và  tính tự trị, tôn ti. Làng xã người Việt là những không gian văn hoá đóng kín, và ở đó, mỗi cá nhân  đều cảm thấy thoải mái rong cộng đồng quen thuộc, bởi ở cộng đồng này, họ hành xử theo  những quy tắc đã có sẵn. Tuy nhiên, khi đi ra ngoài cộng đồng quen thuộc đó, họ sẽ tở nên lúng  túng vì không định vị được chính xác vị thế của mình, do đó mà mất tự tin, dẫn đến việc rụt rè,  tự khép mình lại.     ­ Ứng xử thiên về tình cảm:      Ảnh hưởng chủ yếu của văn hoá sông nước và tính cộng đồng làng xã.     ­ Trọng danh dự:     Tuy nhiên trọng danh dự thái quá nên mắc bệnh sĩ diện. Đặc điểm này cũng khiến cho người  Việt rất sợ dư luận và thường sống dựa theo dư luận.     ­ Cẩn trọng, giữ ý trong giao tiếp để giữ gìn sự hoà thuận:      Không biểu lộ cảm xúc, nguyện vọng hay nhu cầu trước mặt người khác. Đặc điểm này  nhiều khi dẫn đến thái độ vòng vo, cân nhắc thái quá trong giao tiếp.     ­ Thiếu tính quyết đoán:      Đây là hệ quả của việc giữ gìn ý tứ và cân nhắc thái quá trong giao tiếp.     ­ Hệ thống nghi thức lời nói phong phú với các đặc điểm như trọng tình, khiêm cung, lịch sự,  phù hợp với các quan hệ xã hội. III. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ VIỆT NAM      Văn hoá ứng xử / giao tiếp của người Việt đã được kết tinh lại trong nghệ thuật sử dụng  ngôn từ. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ của người Việt có những đặc trưng cơ bản như sau: 16
  17.     ­ Tính ước lệ cao: hay diễn đạt bằng các con số biểu trưng, ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba  mặt một lời, chín tầng mây...     ­ Tính cân xứng, so sánh và tương phản cao, tạo nên kiểu từ, câu đối ứng: Trèo cao / ngã đau;  Ăn vóc / học hay; Đời cha ăn mặn / đời con khát nước...     ­ Giàu tính nhịp điệu và tiết tấu ­ đậm chất thi ca.      ­ Giàu chất biểu cảm ­ sản phẩm của nền văn hoá trọng tình. Chất biểu cảm biểu hiện đậm  ở mặt từ ngữ. Đó là một từ, bên cạnh yếu tố gốc có sắc thái nghĩa trung hoà, thường có nhiều  biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm. Ví dụ: màu xanh (trung tính), sẽ còn có: xanh rì,  xanh rờn, xanh lè, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè...; các từ láy mang sắc thái biểu cảm  mạnh cũng rất phát triển ở tiếng Việt. Ví dụ: nhỏ (trung tính), sẽ còn có: nhỏ nhoi, nhỏ nhen,  nhỏ nhặt, nhỏ nhắn... Về ngữ pháp, tiếng Việt có một hệ thống hư từ biểu cảm rõ rệt, đã góp  phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt, như: à, ư, nhỉ, nhé, chăng,  chớ, hở, sao, chứ...     ­ Linh hoạt và mềm dẻo, do ảnh hưởng từ văn hoá sông nước và văn hoá giao tiếp. Đặc điểm  này, trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp ngữ nghĩa hoạt động linh hoạt và có khả năng khái  quát cao; trong lời nói, tính linh hoạt bộc lộ ở chỗ người Việt ưa dùng cấu trúc động từ ­ trong  một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ. Điều này khác với ngôn ngữ phương  Tây ­ ưa thích dùng danh từ. Tính linh hoạt, năng động còn là nguyên nhân khiến tiếng Việt thiên  về dùng cấu trúc chủ động, kể cả những câu bị động cũng bị 'hoán đổi' theo cấu trúc chủ động. Như vậy, có thể nói rằng, giao tiếp của người Việt đã phần nào minh chứng cho nền văn hoá  trọng tình và văn hoá sông nước Việt Nam. 17
  18. Bài 5. NHÀ CỬA ­ KIẾN TRÚC     Đối với người làm nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm, với các chức năng: chức năng cư trú,  chức năng xã hội và chức năng kinh tế. Người Việt khẳng định: có an cư thì mới lạc nghiệp, và  nhất dương cơ nhì âm phần là vậy. I. NHÀ CỬA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG  Quy mô, kết cấu và hình thức của ngôi nhà nhìn chung nhỏ bé, đơn sơ và mang tính tôn ti.  Nguyên nhân: do luật pháp nhà nước phong kiến quy định, đồng thời còn là do môi trường tự  nhiên của Việt Nam quy định. 1. Nhà của người Việt/ Kinh      Nhà của người Việt / kinh xây dựng trên những miền có địa hình và khí hậu khác nhau sẽ có  những khác biệt để thích ứng với môi trường sống. Nhà cửa vùng đồng bằng miền Bắc chau  chuốt, trang nhã nhưng không kém phần vững chắc và duyên dáng hơn các vùng khác. Ngôi nhà  gắn bó với thiên nhiên, tạo cảm giá gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên.     Nhà cửa của người Việt ở những nơi đầu sóng ngọn gió, hàng năm phải chịu sự chà sát của  bão gió liên tục, như các tỉnh từ Quảng Ninh xuống Thái Bình, thì căn nhà phải thu mình gọn,  bám chặt vào đất, nên ngôi nhà đã giảm đi sự trang trí thanh thoát trang nhã mà chỉ giữ lại những  gì thật cần thiết, đảm bảo tránh gió bão từ miền đông vào. Ngôi nhà vùng này đặc biệt chú ý  đến sự gia cố phần khung và mái nhà để trụ được trước gió bão.Toàn bộ ngôi nhà tạo sự vững  chắc về chiều ngang nên nó như lùn xuống, ì ra chắc nịch. Còn nhà ở miền trung, nơi rất gần  biển thì các tiêu chuẩn phải đạt tới là giản dị, chắc chắn. Nhà ở vùng Nam Bộ, một vùng đất trẻ  / mới, đất rộng người thưa, sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, vật liệu xây nhà là  những thứ có sẵn trong vùng như cây tràm, cây đước, lá  buông, lá dừa, vừa có khả năng chịu mặn vừa linh hoạt.  Nhìn chung nhà cửa có vẻ tạm bợ so với các vùng miền  khác.     Tóm lại, nhà cửa của cư dân Việt từ truyền thống cho đến  hiện đại, từ đồng bằng cho đến ven biển, từ Bắc vào Nam  có sự phát triển với những sắc thái riêng song vẫn nằm trong  phạm trù dân gian với ý thức thích ứng tốt nhất với môi  trường tự nhiên, nên cũng cho nhiều bài học quý giá trong  việc xây dựng một nền kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc. 2. Nhà của các dân tộc khác.     Ngoài tộc Việt, Việt Nam còn có 53 dân tộc anh em sinh sống trên vùng lãnh thổ Việt Nam,  trong số đó, nhiều dân tộc đã đạt được trình độ kỹ thuật trong việc xây dựng nhà cửa, góp phần  làm nên bản sắc của tộc người.     Nhà cửa của các dân tộc ít người nhìn chung có xu hướng vươn cao và xoè rộng nhằm thích  ứng với môi trường rừng núi nhiều khí ẩm, thú dữ. Do đó ngôi nhà ở thích hợp là nhà sàn ­ căn  nhà có khả năng khai thác được nhiều thuận lợi cũng như khắc phục được nhiều khó khăn do  môi trường tự nhiên tác động.     2.1. Nhà dân tộc Mường     Nhà người Mường truyền thống là nhà sàn, với khung nhà làm bằng gỗ hoặc tre, mái lợp cỏ  tranh hoặc lợp nứa hay lá cọ. Vách nhà được thưng bằng ván gỗ hoặc bằng phên nứa đan lại.  Khung nhà được giữ chắc do có lắp một cái cựa gà (nét đặc biệt của nhà sàn Mường) nhằm  khoá kèo kẹp chặt chiếc đòn tay ở phía trên đầu cột cái vào quá giang.     Trong nhà chia làm hai nửa theo chiều ngang, phần nhà ngoài, nơi giành cho nam giới, nơi tiếp  khách và cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thuộc nửa bên trái; phần nhà trong ­ nửa bên phải có  bếp giành cho nữ. Dọc theo nhà thì phía trước gọi là bên dưới, phía sau gọi là bên trên ­ nơi có  18
  19. bàn thờ. Các sinh hoạt trong nhà đều diễn ra trên sàn. Dưới gầm sàn là chuồng gia súc và để các  công cụ sản xuất. Nhà có hàng rào và cửa ngõ. Ngày nay, người Mường có xu hướng chuyển từ  nhà sàn sang nhà trệt. Còn những ngôi nhà sàn truyền thống cũng rời chuồng gia súc ra khỏi gầm  sàn.    2.2. Nhà dân tộc Thái     Nhà sàn Thái là một công trình kiến trúc mang nét đẹp rất riêng của người Thái. Hướng nhà thường là hướng của cả bản. Đó là hướng của cộng đồng nguời sống, gắn với  nguyện vọng về cuộc sống no đủ, bình an, đoàn kết của cộng đồng ngươì Thái. Nhà sàn Thái có  hai loại, gắn với hai nhóm tộc người là Thái trắng và Thái đen. Người Thái trắng có nhà sàn  'khai điêng', người Thái đen có nhà sàn 'phăng đin'. Hai kiểu nhà này có những đặc điểm chung  là: nhà có bốn mái. Ngoài mái trên và mái dưới ở phía trước và phía sau có hình chữ nhật, còn lại  hai mái ở hai đầu hồi che cho gian đầu và thân sàn. Bốn mái gặp nhau ở các kèo góc tạo ra một  đầu hồi, gọi là hang con mèo (hông meo) làm chỗ cho hồn người chết bay lên trời.     Nhà sàn truyền thống có mái nhà giống như mai con rùa hoặc chiếc thuyền úp. Trên mái nhà,  ở hai đầu hồi có 'khau cút' vút cao, vừa mang dấu ấn dân tộc, vừa cho biết vị trí xã hội của chủ  nhà, đồng thời cũng là nẹp giữ cho đầu hôid khỏi bị tốc. Nhìn trên đại thể, nhà sàn Thái có hình con rùa đứng rụt cổ, các chân rướn thẳng, phù hợp với  truyền thuyết của người Thái rằng rùa đã lấy thân mình làm mẫu cho người học làm nhà. Sự  trang trí các bộ phận của nhà như mái nhà, thân nhà, cầu thang, đều mang hơi thở và dấu ấn  cảnh quan núi rừng và trình độ nghệ thuật của người Thái, xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật  dân gian.     2.3. Nhà dân tộc Chàm (Chăm)     Theo tập quán, làng Chàm được lập trên vùng đất có núi ở phía nam, sông ở phía bắc, có gờ  cao phía tây và thoải dần về phía đông. Người Chàm dựng nhà trong một khuôn viên hình chữ  nhật, gắn bó với cộng đồng làng. Trong mỗi khuôn viên của gia đình Chàm có đủ bốn ngôi nhà:  nhà tục (Thang dơ), nhà cặp đôi (thang mơ­ dâu), nhà bếp (thang gìn) và nhà kho (thang tôn). Một  số gia đình còn có thêm nhà ngang (thang cần) và nhà lớn (thang pì ­ nài).     Nhà tục là ngôi nhà truyền thống được xây dựng trước tiên trong khuôn viên, gồm ba gian  dựng gần góc đông bắc, hướng nhà là hồi phía trước và phải có cửa sinh nhìn về phía tây và của  tử hướng nam để khi nhà có tang thì rước xác người chết ra bằng cửa này. Thước để dựng nhà  là chiều dài từ khuỷ đến mút ngón tay giữa của ông chủ ngôi nhà. Gỗ làm nhà tục không xẻ, các  cấu kiện lắp ghép bằng cách buộc dây rừng. Nhà tục sẽ được nhường cho con gái đầu khi có  chồng.     Nhà bếp ở góc tây bắc, kiểu thức theo nhà tục nhưng quy mô nhỏ hơn, cửa nhà bếp nhìn  thẳng vào cửa sinh nhà tục. Nhà kho dựng ở phía tây khuôn viên, bé nhỏ như cái chòi nhưng sàn rất cao để chứa lương thực  và đồ dùng vặt.     Nếu có nhà ngang thì nhà ngang dựng trước nhà tục nhưng xoay ngang thước thợ với nhà tục,  rộng hai gian một chái để chứa đồ vặt và xay thóc giã gạo. Riêng nhà lớn thì chỉ những gia đình  khá giả mới có, có cửa trước nhìn về hướng nam, hướng cửa tử, nên chỉ người già mới được ở.  Kiểu dáng nhà ngang giống nhà của người Việt.     Nhìn chung, những kiểu nhà truyền thống của người Chàm có quy định nghiêm ngặt nhưng  đơn giản và kỹ thuật còn nguyên thuỷ. Trái lại, những toà tháp Chàm từ nhiều thế kỷ trước để  lại lại được xây dựng ở trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao.     Mỗi khu tháp Chàm là một đài kỷ niệm tôn giáo hoặc vua chúa anh hùng của vương quốc  được xây dựng trên đồi cao, mở cửa về hướng đông ­ hướng của sự sống mà cúng là hướng của  thần thánh theo quan niệm của người Chàm. Mỗi khu tháp là một quần thể kiến trúc, điêu khắc,  trong đó có một cây tháp chính to, cao hơn cả xây ở giữa, xung quanh có nhiều kiến trúc phụ.  Các tháp xây trên mặt bằng gần như vuông, ba phía có cửa giả, chỉ phía đông có cửa ra vào,  19
  20. tường tháp dày, lòng tháp rỗng lên cao thu lại rồi bít kín. Vật thờ trong tháp có thể là tượng thần,  chân dung quốc vương hoặc linga bằng đá. Vật liệu xây tháp là gạch, trong và ngoài đều chín đỏ  thẫm, không thấy mạch kết dính nhưng kết dính rất chặt. Trang trí mặt ngoài tháp là phù điêu  bằng đá, hoặc được chạm trực tiếp trên mặt gạch thành những tác phẩm nghệ thuật quyến rũ  và đậm màu sắc Chàm.     2.4. Nhà dài dân tộc Ê Đê     Cơ sở dẫn đến sự ra đời của các ngôi nhà dài là các gia đình lớn mẫu hệ.     Ngôi nhà dài Ê Đê là nhà sàn, khung tre gỗ, mái lợp nhọn lợp tranh. Bộ khung nhà dài chỉ có  cột, dầm, quá giang, xà dọc, mà không có kèo. Ngôi nhà dài Ê Đê có hình dạng giống nhà hình  thuyền trên các trống đồng Đông Sơn, khiến có nhà nghiên cứu đã liên hệ và đưa ra giả thuyết  về mối liên hệ của tổ tiên người Ê Đê xa xưa với biển, với cư dân vùng Nam Đảo.     Không gian trong ngôi nhà dài được chia làm hai phần­ phần nhà ngoài (gah) ở phía bắc và  phần nhà trong (ôk) ở phía nam. Chức năng phần nhà ngoài: tiếp khách, tiến hành các nghi lễ  phong tục, tổ chức các sinh hoạt công cộng của đại gia đình mẫu hệ, có khi còn là chỗ ăn ở của  những người đàn ông chưa vợ. Ngoài ra ở nhà ngoài còn bày những 'ghế khách', 'ghế trống' giành  cho nhạc công; chiêng, trống, những vò rượu cần, những vũ khí, những xương đầu thú săn được  hay gia súc làm lễ hiến sinh. Mỗi cột trong ngôi nhà gắn với một phương và một đối tượng. Đó  là các cột: cột chủ (phía đông), cột trống (phía tây); trong bộ vì có cột khách (cột phía đông) và  cột chiêng (cột phía tây). Trang trí chạm khắc phần nhà ngoài rất đẹp, thể hiện dấu ấn mẫu hệ  rõ nét.     Phần nhà trong được ngăn ra thành từng phòng nhỏ dành cho các cặp vợ chồng. Bếp nấu ăn  chung được làm trước cửa buồng ngủ chủ gia đình. Các cặp vợ chồng ăn riêng thì có bếp nhỏ  trước buồng mình. Phía sau nhà dài là kho lúa.     2.5. Nhà rông Tây Nguyên     Nhà rông là ngôi nhà chung của cả buôn làng, có giá trị nghệ thuật cao về kiến trúc, là một  biểu tượng của mỗi buôn làng Tây Nguyên. Quy mô nhà Rông to lớn với kiểu thức độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên. Vật liệu làm nhà là vật  liệu được kiếm tại chỗ, tạo nên bộ khung gỗ, vách ván, và mái tranh như nhà dân. Giữa các ngôi  nhà đơn sơ của dân làng, nhà rông nổi bật lên sừng sững với bộ mái vươn cao dựng đứng như  lưỡi rìu sắc bén lật ngược chọc lên trời. Hai mái đầu hồi hình tam giác cân nhọn vút, góc ở đỉnh rất hẹp; hai mặt trước và sau gần giống  hình thang cân; cạnh bên cong lõm, bờ nóc hơi vồng lên ở giữa. Cạnh mái chạy bốn xung quanh  nhà rông được cắt xén rất bằng, mặt mái lợp tranh mịn, mượt óng, ngà vàng, phần trên cùng của  mái cài thành những băng hoạ tiết trang trí to chắc. trên bờ nóc cũng có trang trí. Trước nhà rông  là một sàn gỗ không mái tạo thành một tiền sảnh rộng, hai bên mặt trước sàn có hai trụ gỗ chấn  hai bên cầu thang. Cầu thang là cả một đoạn thân cây  gỗ đẽo bảy bậc, lên tận cùng được vuốt uốn cong trang  nhã.     Nhà rông chỉ ba gian nhưng do các cột đều lẩn ra giáp  vách nên tạo thành một không gian thông thống. Trong  nhà, nhiều bếp lửa xếp thành hàng và luôn luôn đượm  khói; có các khu vực để chiêng, trống, có nơi để treo vũ  khí và những bộ xương, da thú rừng; trên phên vách giắt  các loại lông chim đẹp và sừng thú quý ­ sản phẩm săn  bắn của dân làng. Cùng tính chất như nhà rông là nhà gươi của dân tộc Cơ  Tu.     2.6. Nhà mả (mồ) Tây Nguyên 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2