Đề bài: Có ý kiến cho rằng: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những áng thơ viết <br />
bằng văn xuôi. Anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài Ai đã đặt tên cho dòng <br />
sông?<br />
<br />
Bài làm<br />
<br />
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài <br />
chục năm nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân <br />
văn sâu sắc, trí tuệ uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang <br />
viết tài hoa, tài tử, tài tình.<br />
<br />
Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xuôi cuốn hút người <br />
đọc. Có độc giả ở Hà Nội đã công phu cắt từng câu trong bút ký nổi tiếng Ai đã đặt tên <br />
cho dòng sông của anh xếp lại thành một bài thơ. Ngoài bút ký, anh có nhiều bài thơ hay <br />
được rất nhiều độc giả thuộc như Địa chỉ buồn, Dù năm dù tháng, Dòng sông đời mẹ, <br />
Đêm qua: "Bây giờ đã hết trò chơi/ Đã tàn cuộc rượu để người ra đi/ Đêm qua không biết <br />
làm gì/ Muốn về tìm gã Trương Chi nghe đàn"... Thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp <br />
của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời gian, sâu thẳm đất đai <br />
vọng lên trong tâm khảm người đọc. Chỉ có bài thơ Bồng bềnh cho tới mai sau là bài thơ <br />
tình (với chất liệu vũ trụ) rất hay và rất lạ trong mạch thơ buồn viết ra từ máu của Hoàng <br />
Phủ Ngọc Tường trong vài chục năm nay!<br />
<br />
Năm 1986, Hoàng Phủ Ngọc Tường về thăm Lệ Thủy quê vợ là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. <br />
Lệ Thủy là vựa lúa của tỉnh Quảng Bình, nơi sông nước mênh mang trong xanh chảy qua <br />
những làng quê thấm đẫm điệu hò khoan da diết. Từ chợ Tréo có thể đi đò về khắp nơi <br />
trong huyện. Người Lệ Thủy đam mê dân ca và hò hát. Đêm trăng hò giã gạo, chèo thuyền <br />
hò mái nhì, mái đẩy, mái bảy, mái ba, mái xếp, mái nện... không khác gì xứ Huế. Đêm <br />
Hoàng Phủ ngủ lại với mảnh đất đã cho mình tình yêu, mảnh đất đã cho anh câu thơ khái <br />
quát: “Ai người làm thơ ai người cứu nước”.<br />
<br />
Trong đêm khuya khoắt, tiếng hát từ những con đò chở lúa trên dòng sông Kiến Giang làm <br />
anh choàng giấc. Anh chạy ra Mũi Viết nơi ngã ba sông, và bàng hoàng ngẩn ngơ trước <br />
cảnh tượng thơ mộng như tranh thủy mặc: Bắt gặp những cảnh tượng bình minh như <br />
trong cổ tích đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị hớp hồn. Để rồi những hình ảnh đẹp đó đi <br />
vào tâm hồn thơ của anh vô cùng xao động và ấn tượng hơn nhờ những cặp liên tưởng <br />
bất ngờ và thú vị: "Có con thuyền trong sương trắng/ Bềnh bồng như một cánh chim/ Có <br />
em chèo thuyền áo trắng/ Xôn xao như trốn như tìm/ Có vầng mặt trời rựng sáng/ Bồi hồi <br />
như một trái tim".<br />
<br />
Nhờ thủ pháp so sánh, liên tưởng điêu luyện những cảnh thực vào thơ đã thành ảo, thành <br />
mộng, cái tả đã biến thành cái cảm, cái say, dẫn người đọc đến một trạng thái tình cảm <br />
mới: Tình yêu! Cô gái chèo thuyền trên sông phút chốc biến thành Nàng Tiên Nữ giữa <br />
chốn bồng lai tiên cảnh với những nét đẹp vàng son lấp lánh và cực kỳ sang trọng: “Phấn <br />
mặt trời trên má”, “bụi mặt trời vương gót chân”, “dấu chân thành hoa hài trên sóng”…<br />
<br />
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường “…thấm đẫm triết <br />
học về cái chết... thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột… Đấy là thơ của cõi âm…”. Đó là <br />
một nhận xét xác đáng. Nhưng trong nguồn thơ như từ đất vọng lên của Tường lại có <br />
một bài thơ khác lạ, bài thơ “Như từ trời vang xuống, đầy chứa chan, khoái cảm và trí <br />
tuệ. Đó chính là Bồng bềnh cho tới mai sau, bài thơ về trái tim tình yêu, “Trái tim mặt <br />
trời” vĩnh cửu, một bài thơ tình hay và mới mẻ.<br />