Đề cương ôn tập chủ nghĩa Mác - Lênin
lượt xem 216
download
Bạn sắp phải thi Chủ nghĩa Mác-Lênin, bạn không biết ôn những gì? Với nội dụng ra sao? Bộ đề cương này sẽ giúp bạn tham khảo với nội dung tổng hợp lại một số câu hỏi thường gặp và trả lời. Tìm hiểu rõ hơn về Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúc bạn thi tốt!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương ôn tập chủ nghĩa Mác - Lênin
- ĐỂ CƯƠNG ÔN TẬP MÁC-LÊNIN 1. Trình bày quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức. Và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ? TL : a. Định nghĩa vật chất: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, nó chỉ tất cả những gì tác động vào ý thức của chúng ta, giúp hiểu về sự vật hiện tượng. Vật chất được thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức con người. b. Định nghĩa ý thức: Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. c. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức Theo quan điểm duy vật biện chứng: vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. * Vai trò của vật chất đối với ý thức Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chật có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì: Ý thức là sản phẩm của 1 dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Do đó, vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức. Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức, hoặc là chính bản thân thế giới khách quan hoặc là những dạng tồn tại của vật chất đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức. * Vai trò của ý thức đối với vật chất Trong mối quan hệ với vật chất; ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thức khách quan. Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chon phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để thực hiện mục tiêu của mình. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo 2 hướng: hướng tích cực và hướng tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan – đó là sự tác động tích cực của ý thức. Ngược lai, nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan thì ngay từ đầu con người đã đi ngược các quy luật khách quan; hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn. Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại… d. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người chỉ có thể đúng đắn và có hiệu quả tối ưu khi và chỉ khi thực hiện đồng thời giữa việc xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ quan. Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát từ tính khách quan của vật chất mà căn bản là tôn trọng quy luật, nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực, năng động sáng tạo ấy. Từ đó, đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; làm chủ tri thức khoa học và truyền bá sâu rộng, hướng dẫn quần chúng hành động. Thực hiện nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và chủ nghĩa kinh nghiệm. Ví dụ: Vì giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức chỉ có thể tác động đối với vật chất khi nó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn. Nên nếu thực tiễn trì trệ thì ý thức cũng trì trệ theo. Nhờ có hoạt động thực tiễn, ý thức của Đảng được nâng cao và đã đề ra đường lối đổi mới và cải cách. Trước sự sự trì trệ và chậm chạp ấy, cuộc đổi mới và cải cách năm 1986 là cần thiết. Công cuộc đổi mới và cải cách ấy đã chấp nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để tạo ra sự cạnh tranh, thúc đẩy quá trình vận động của vật chất, tạo nên sự cạnh tranh trong sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhằm nâng cao ý thức của con người. 2. Trình bày nội dung các nguyên lý cơ bản của phép BC duy vật & nêu phương pháp luận được rút ra từ các nguyên lý đó? TL: I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện tượng 1. Khái niệm mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. 2. Nội dung và tính chất của mối liên hệ Tính khách quan và phổ biến của mối liên hệ: Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, mà vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất, là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yếu khách quan. Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới. Do mối liên hệ là phổ biến, nên nó có tính đa dạng: Các sự vật; hiện tượng trong thế giới vật chất là đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng, vì thế, khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể. Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những loại mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian, v.v.. Sự phân loại này là tương đối, vì mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.
- Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất và phổ biến nhất của thế giới khách quan. Còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học cụ thể. II. Nguyên lý về sự phát triển 1. Khái niệm phát triển Phát triển là sự vận động tiến lên (từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn). Từ khái niệm trên cho thấy: + Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát triển. + Cần phân biệt khái niệm vận động với khái niệm phát triển. Vận động là mọi biến đổi nói chung, còn phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời của cái mới hợp quy luật. 2. Nội dung và tính chất của sự phát triển Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới. Sự phát triển có tính chất tiến lên, kế thừa, liên tục. Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời. Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật. 3. Phân biệt quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phát triển Quan điểm biện chứng xem sự phát triển là một quá trình vận động tiến lên thông qua những bước nhảy vọt về chất. Nguồn gốc của sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập ở trong sự vật. Quan điểm siêu hình nói chung là phủ định sự phát triển, vì họ thường tuyệt đối hoá mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Sau này, khi khoa học đã chứng minh cho quan điểm về sự phát triển của sự vật, buộc họ phải nói đến sự phát triển, song với họ phát triển chỉ là sự tăng hay giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự vật, hiện tượng. III. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững hai nguyên lý này Nguyên lý về liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có quan điểm toàn diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản thân sự vật và với các sự vật và hiện tượng khác. + Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Quan điểm phát triển đòi hỏi: phải
- phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát hiện được cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm nguồn gốc của sự phát triển trong bản thân sự vật. Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao. 3. Trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất & ngược lai? Nêu ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ mối quan hệ BC giữa chất & lượng? TL: * Đây là một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra cách thức của sự vận động, phát triển. * Nội dung quy luật: Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt chất và lượng và chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: chất, lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng – cách thức vận động, phát triển. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. + Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển. + Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.
- * Ý nghĩa phương pháp luận Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi. Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy. Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời. Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chin muồi. 4. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. nêu ý nghĩa phương pháp luận của qui luật ? TL: * Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng nhất – hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. * Nội dung quy luật Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối lập, đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật. Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. + Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. + Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.
- * Ý nghĩa phương pháp luận Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và là khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn. Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp với từng loại mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi. 5. Trình bày qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất? quy luật này thể hiện như thế nào trong công cuộc đổi nới nước ta hiện nay? TL: Lực lượng sản xuất: Là sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất: Là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, bao gồm những mối quan hệ kinh tế cơ bản sau: Quan hệ sở hữu đối với TLSX; Quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuất; Quan hệ trong phân phối sản phẩm trong sản xuất ra. Mối quan hệ biện chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất Tính chất của lực lượng sản xuất tức là nói về tính cá nhân hay tính chất xã hội. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, của trình độ khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất, trình độ tổ chức và phân công lao động. Lịch sử đã có những trình độ lực lượng sản xuất thủ công, nửa cơ khí và cơ khí, cơ khí hoá và tự động hoá; tự động hoá và công nghệ thông tin. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất + Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thế nào về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất phải như thế ấy để phù hợp. chẳng hạn trình độ của lực lượng sản xuất là thể hiện ở công cụ thô sơ, tính chất cá nhân thì quan hệ sản xuất tư nhân là phù hợp. Nếu thiết lập quan hệ sản xuất tập thể là không phù hợp. Khi lực lượng sản xuất thay đổi về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất biến đổi theo cho phù hợp. Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng mất đi. quan hệ sản xuất được thay bằng một quan hệ sản xuất mới để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp thể hiện là quan hệ sản xuất tạo điều kiện để kết hợp tốt người lao động với tư liệu sản xuất làm cho sản xuất phát triển, năng suất lao động cao.
- + Quan hệ sản xuất tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên tắc của sự tác động trở lại là: Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại nếu quan hệ sản xuất không phù hợp thì nó kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất. Sự phù hợp thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất tạo những điều kiện, tiền đề cho các yếu tố của lực lượng sản xuất kết hợp với nhau để sản xuất tiến hành bình thường, có năng suất lao động cao. Sự phù hợp không phải thiết lập một lần là xong mà là một quá trình. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế các chế độ do tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. Sự vận dụng quy luật trong đường lối đổi mới của Đảng ta Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp lại bị hậu quá nặng nề của cuộc chiến tranh. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Nền kinh tế phải có nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Bình đẳng trước pháp luật và phải thực hiện trao đổi hàng hoá và chủ yếu vận hành theo quy luật giá trị, tức là theo cơ chế thị trường. Phát triển lực lượng sản xuất là để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, nên phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tiễn đã chứng minh rằng, đường lối đổi mới đó là đúng đắn và sáng tạo, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu. 6. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? mối quan hệ này được thể hiện ở nước ta ntn ? TL: Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Mỗi hình thái kinh tế xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng. 1. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng Cơ sở hạ tầng sinh ra kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng của một xã hội nhất định như thế nào, tính chất của nó ra sao, giai cấp đại diện cho nó thế nào thì hệ thống tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, v.v. và các quan hệ; các thể chế tương ứng với những tư tưởng ấy cũng như vậy. Cơ sở hạ tầng quyết định sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó xảy ra trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, cũng như từ hình thái kinh tế — xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi đó diễn ra thông qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp.
- Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng là quy luật phổ biến của mỗi hình thái kinh tế xã hội. 2. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện trước hết ở chức năng chính trị xã hội của kiến trúc thượng tầng nhằm bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng có tác động to lớn nhất và trực tiếp đối với cơ sở hạ tầng. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, kiến trúc thượng tầng có những quá trình biến đổi nhất định. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng càng có hiệu quả; ngược lại, quá trình đó không theo cùng chiều với quy luật vận động của cơ sở hạ tầng thì nó sẽ cản trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Trong thời đại ngày nay, vai trò của kiến trúc thượng tầng tăng lên rõ rệt, càng thể hiện với tư cách là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Song nếu quá nhấn mạnh hoặc thổi phồng vai trò của kiến trúc thượng tầng đến mức phủ định tính tất yếu kinh tế của xã hội, thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan, duy ý chí. 3. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta đã khẳng định: lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động tinh thần của xã hội. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm cho nhân dân thực sự là người chủ của xã hội. Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lực thuộc về nhân dân lao động. Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ. 7. Trình bày điều kiện ra đời đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa? TL: I. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra nhằm thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc bán trên thị trường. Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ 2 điều kiện sau đây:
- 1.Điều kiên cần: có phân công lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra thành các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội => tạo ra sự chuyên môn hoá lao động => chuyên môn hoá sản xuất thành những ngành nghề khác nhau => mỗi người sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một vài loại sản phẩm nhất định. Song, cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau => Để thoả mãn nhu cầu đòi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. 2 Điều kiện đủ: có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất Về mặt lịch sử, sự tách biệt này gắn liền với sự ra đời của chế độ tư hữu => tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của tư nhân => sản phẩm sản xuất ra thuộc sở hữu tư nhân => những người sản xuất độc lập, đối lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng => người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua bán hàng hoá, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hoá. Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai điều kiện ấy thì không có sản xuất hàng hoá và sản phẩm lao động không mang hình thái hàng hoá. II. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá Sản xuất hàng hoá có 3 đặc trưng và ưu thế như sau: Mục đích của sản xuất hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường, không phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như trong kinh tế tự nhiên. Sự gia tăng không hạn chế nhu cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất "mở" của các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. 8. Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa hai thuộc tính đó ? TL: Hai thuộc tính của hàng hoá: Định nghĩa hàng hóa: Hàng hóa là sản phẩm của lao động (trực tiếp hoặc gián tiếp) có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con nguời và dùng để trao đổi với nhau * Hai thuộc tính của hàng hóa: 1. Giá trị sử dụng Định nghĩa: GTSD là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, vd: cơm để ăn, xe đạp để đi… Đặc điểm: + GTSD thể hiện thuộc tính tự nhiên của sản phẩm. Khoa học kỹ thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới. + Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định.=> GTSD thể hiện sự khác nhau của các loại sản phẩm. + GTSD chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. GTSD là phạm trù vĩnh viễn. + GTSD nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, không phải là GTSD cho bản thân người sản
- xuất hàng hoá, mà là cho người khác, cho xã hội thông qua việc trao đổimua bán. 2. Giá trị hàng hoá Muốn hiểu được giá trị, phải đi từ giá trị trao đổi + Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. VD, 1m vải = 10 kg thóc. vải và thóc khác nhau về giá trị sử dụng nhưng có cơ sở chung để trao đổi đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải hoặc thóc, người sản xuất đều phải hao phí sức lao động. 1 lượng vải ít hơn đổi được một lượng thóc nhiều hơn là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng là ngang bằng nhau => Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá, ẩn giấu trong hàng hoá chính là cơ sở để trao đổi Định nghĩa giá trị hàng hóa: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm. Đặc điểm: + Thể hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa vì giá trị hàng hóa chỉ được thể hiện trong quan hệ trao đổi giưã những người sản xuất + Thể hiện sự giống nhau của các hàng hóa vì giá trị của mọi hàng hóa đều là kết tinh của sức lao động + Là một phạm trù lịch sử gắn liền với nền sản xuất hàng hóa 3 Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa Giữa 2 thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau Giá trị là nội dung, cơ sở của giá trị trao đổi. Còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị ra bên ngoài Giá trị là thuộc tính xã hội, phạm trù lịch sử cua hàng hóa, còn giá trị trao đổi là thuộc tính tự nhiên, phạm trù vĩnh viễn của hàng hóa. => Vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, là sự thống nhất của hai mặt đối lập.Sự đối lập này thể hiện cả về mặt không gian và thời gian. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ là giá trị. Đối với người mua, cái mà họ quan tâm lại là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng , nhưng muốn có giá trị họ phải trả giá cho nguời sản xuất => Như vậy về mặt thời gian, hành vị giá trị được thực hiện trước. Về mặt không gian, giá trị được thực hiện ở thị trường, còn giá trị sử dụng được thực hiện ở ngoài thị trường. Sự đối lập này là một trong những nguyên nhân bên trong gây nên khủng hoảng kinh tế (chủ yếu là khủng hoảng thừa). 9. Trình bày nội dung quy luật giá trị và nệu sự tác động của quy luật giá trị đối với kinh tế xã hội ? TL: 1. Nội dung của quy luật giá trị: 2 nd 1.1. Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết: 2 ý chính Trong sản xuất: Giá trị hàng hóa được xác định bằng hao phí lao động xã hội cần thiết chứ không phải hao phí lao động cá biệt => Muốn bán hàng hóa bù đắp chi phí+ có lãi, người sản xuất phải điều chỉnh hao phí lao động cá biệt phù hợp với chi phí mà xã hội chấp nhận được. Trong trao đổi: cũng phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá 1.2. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa Giá trị là cơ sở hàng hóa > Giá cả phụ thuộc giá trị: Giá trị cao > giá cả cao và ngược lại. Giá cả còn phụ thuộc: Cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền…> Giá cả tách rời với giá trị và lên
- xuống xoay quanh trục giá trị của nó. => Sự vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng. 2. Tác dụng quy luật giá trị: 3 td 2.1. Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: 2 ý chính Điều tiết sản xuất: Thông qua biến động giá cả trên thị trường dưới tác động quy luật cung cầu: + Cung Giá hàng hóa cao > giá trị> hàng hóa bán chạy> sản xuất tăng> tăng tư liệu SX và sức lao động vào ngành đấy. + Cung > cầu > Giá hàng hóa giảm > thu hẹp quy mô sản xuất Điều tiết lưu thông: Thông qua giá cả trên thị trường: Thu hút luồng hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. => Biến động giá cả chỉ rõ biến động kinh tế và tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa. 2.2. Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh: 2 ý chính Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết > lợi thế hơn và thu được lãi cao. Ngược lại, hao phí lao động cá biệt > hao phí lao động xã hội cần thiết => bất lợi, lỗ vốn => Để giành lợi thế cạnh tranh phải hạ thấp hao phí lao động hao phí lao động xã hội cần thiết bằng cách cải tiến kĩ thuật, sản xuất, quản lý, tăng năng suất lao động…=> làm lực lượng sản xuất phát triển. 2.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa thành kẻ giàu và người nghèo: 2 ý chính Người có trình độ, kiến thức cao, trang bị kĩ thuật…> hao phí lao động cá biệt Giàu lên nhanh chóng.> Mua thêm tư liệu SX, mở rộng quy mô… Người sản xuất kém > rủi ro kinh doanh> phá sản > người nghèo Như vậy ý nghĩa của tác dụng quy luật giá trị: +Chi phối lựa chọn tự nhiên: Đào thải yếu kém, kích thích nhân tố tích cực phát triển + Phân hóa xã hội : Giàu –Nghèo > Bất bình đẳng xã hội 10. Trình bày quá trình sản xuất giá trị thặng dư và hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản ? TL: 1.Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị thặng dư, bởi mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị thặng dư. Để tạo ra giá trị thặng dư thì ngày lao động của người công nhân chia làm 2 phần: + Thời gian lao động tất yếu: giá trị mới bằng giá trị sức lao động + Thời gian lao động thặng dư: tạo ra giá trị mới thuộc về nhà tư bản. Xét ví dụ về việc sản xuất sợi của một nhà tư bản: SGK (XEM) 5.1.2. Đặc điểm của quá trình sản xuất giá trị thặng dư Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản Sản phẩm được làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân. Giá trị sản phẩm được sản phẩm được sản xuất ra gồm 2 phần:
- + Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản mới gọi là giá trị cũ (trong VD: 24$) + Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (trong VD: 6$). Phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. => Giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Ngày lao động của công nhân chia làm hai phần: + Thời gian lao động cần thiết: phần ngày lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang giá với giá trị sức lao động của mình + Thời gian lao động thặng dư (phần còn lại của ngày lao động): là thời gian người lao động tạo ra 1 lượng giá trị vượt quá giá trị sức lao động. => Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình tạo ra giá trị kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới => Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết: việc chuyển hóa của tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông (trong lưu thông nhà tư bản mới mua được hàng hóa sức lao động), đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó (sử dụng hàng hóa sức lao động trong sản xuất để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản) => thấy được bản chất bóc lột của tư bản. 2. Hai phương thức sản xuất giá trị thặng dư 2.1.Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối Là phương pháp kéo dài ngày lao động trong thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó mà kéo dài được thời gian lao động thặng dư, gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối. Áp dụng: trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất TBCN. Đó là giai đoạn mà nền kinh tế TBCN chủ yếu dựa trên lao động thủ công. Hạn chế + Gặp phải giới hạn sinh lý của người lao động: thể chất và tinh thần => Do đó hạn chế khối lượng giá trị thạng dư tạo ra + Vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân đòi giảm giờ làm. Tóm lại, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định, và có nhiều mức khác nhau, thường là do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. 2.2. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối Là phương pháp rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều kiện độ dài của ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài độ dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu: giảm giá trị sức lao đông, tức là giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, hay tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó. Áp dụng: khi CNTB bước vào giai đoạn đại công nghiệp cơ khí (thế kỷ 18). Hai phương pháp sản xuât giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. 2.3. Giá trị thặng dư siêu ngạch Là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối, là giá trị thặng dư thu được nhờ tăng năng suất
- lao động cá biệt khiến cho giá trị cá biệt của người sản xuất thấp hơn giá trị xã hội So sánh giá trị thặng dư tương đối & giá trị thặng dư siêu ngạch: + Giống nhau: đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động + Khác nhau: Giá trị thặng dư tương đối: • Dựa vào tăng năng suất lao động xã hội • Do toàn bộ giai cấp tư bản thu được => thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp tư sản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê Giá trị thặng dư siêu ngạch • Dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt • Chỉ do một số các nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được => không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất khuyến khích các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, hoàn thiện tổ chưc lao động &sản xuất để nâng cao năng suất lao động, giảm giá trị hàng hóa. Do đó làm lực lượng sản xuất phát triển. 11. Trình bày thực chất và động cơ của tích lũy tư bản. Nêu nhửng nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích lũy tư bản ? TL: Trình bày thực chất và động cơ của tích lũy tư bản. Nêu nhân tố ảnh hưởng đến quy luật mô tích lũy tư bản? giá trị thặng dư nhất định thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản, nhưng nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định, thì quy mô của tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới khối lượng giá trị thặng dư cũng chính là nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản. Những nhân tố đó là: a) Trình độ bóc lột sức lao động Các nhà tư bản nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất giá trị thặng dư, C.Mác giả định rằng sự trao đổi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá, tức là tiền công bằng giá trị sức lao động. Nhưng trong thực tế, công nhân không chỉ bị nhà tư bản chiếm đoạt lao động thặng dư, mà còn bị chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, tức cắt xén tiền công, để tăng tích luỹ tư bản. Các nhà tư bản còn nâng cao trình độ bóc lột sức lao động bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động để tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhờ đó tăng tích luỹ tư bản. Cái lợi ở đây còn thể hiện ở chỗ nhà tư bản không cần ứng thêm tư bản để mua thêm máy móc, thiết bị mà chỉ cần ứng tư bản để mua thêm nguyên liệu là có thể tăng được khối lượng sản xuất, tận dụng được công suất của máy móc, thiết bị, nên giảm được hao mòn vô hình và chi phí bảo quản của máy móc, thiết bị. b) Trình độ năng suất lao động xã hội Nếu năng suất lao động xã hội tăng lên, thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm xuống. Sự
- giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ tư bản: một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơn trước. Do đó, quy mô của tích luỹ không chỉ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư được tích luỹ, mà còn phụ thuộc vào khối lượng hiện vật do khối lượng giá trị thặng dư đó có thể chuyển hoá thành. Như vậy năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô của tích luỹ. Nếu năng suất lao động cao, thì lao động sống sử dụng được nhiều lao động quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, được sử dụng làm chức năng của tư bản ngày càng nhiều, do đó cũng làm tăng quy mô của tích luỹ tư bản. c) Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng chúng chỉ hao mòn dần, do đó giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Vì vậy có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Mặc dù đã mất dần giá trị như vậy, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Do đó, nếu không kể đến phần giá trị của máy móc chuyển vào sản phẩm trong từng thời gian, thì máy móc phục vụ không công chẳng khác gì lực lượng tự nhiên. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công của máy móc càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. Sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ là nhờ lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động. Chúng được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ tư bản. d) Quy mô của tư bản ứng trước Với trình độ bóc lột không thay đổi, thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, do đó tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản. Từ sự nghiên cứu bốn nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản có thể rút ra nhận xét chung là để tăng quy mô tích luỹ tư bản, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu. Những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ tư bản 12. Phân tích những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền ? TL: 1. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền,
- các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica, tờrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát. 2. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trình cạnh tranh các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm đến các ngân hàng lớn hơn thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quá trình này đã thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời. Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của nó vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng còn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính. Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là "công ty mẹ"); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là "công ty con"; "công ty con" đến lượt nó lại chi phối các "công ty cháu" cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần. Ngoài "chế độ tham dự", bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất... để thu được lợi nhuận độc quyền cao. Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển. 3.Xuất khẩu tư bản Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm
- đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì: + Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước. + Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản. Xuất khẩu tư bản được biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước. + Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự. Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi... Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị "thân cận" đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản. Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình... + Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia. Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới. 4. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường ở trong nước luôn gắn với thị trường ở ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định thường xuyên. V.I.Lênin nhận xét: "Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời"1. Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước "của mình" và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tờrớt quốc tế... Cho đến năm 1934 đã có 350 cácten quốc tế lớn có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
- sống kinh tế, chính trị của toàn thế giới. 5.Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lãnh thổ. Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất 19141918 và lần thứ hai 19391945. Từ những năm 50 của thế kỷ 20 trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc. Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược. 13. Trình bày nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử đó. Liên hệ thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ? TL: Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế xã hội khách quan của nó quy định: Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử
- trong thời đại ngày nay. Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình. Địa vị kinh tế xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”. 14.Trình bày mục tiêu động lực và nội dung của Cách mạng xã hội chủ nghĩa.Liên hệ quá trình tiến hành cách mạng xã hội cvhủ nghĩa ở Việt Nam? : Trình bày mục tiêu, nội dung, động lực của CM XHCN. 1.Mục tiêu của CM XHCN: Mục tiêu của CM XHCN là giải phóng XH, giải phóng con người, đó là mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Việc thực hiện mục tiêu đó gắn liền với từng giai đoạn của CM XHCN: Mục tiêu trong giai đoạn thứ nhất của CM XHCN là giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mục tiêu trong giai đoạn thứ hai của CM XHCN là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho toàn dân; và một khi xóa bỏ được tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. 2.Nội dung của CM XHCN: CM XHCN là cuộc CM có nội dung toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội
- Trên lĩnh vực chính trị: Nội dung cơ bản của CM XHCN trên lĩnh vực chính trị là đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Muốn thực hiện được nội dung đó, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của ĐCS phải dùng bạo lực CM đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp TS, như C.Mác – Ăng ghen nói: “Giai cấp VS mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc” Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi cho nhân dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về chính trị, tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân Trên lĩnh vực kinh tế Việc giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động mới chỉ là nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho sự thắng lợi của CM XHCN phải là phát triển kinh tế; nâng cao năng suất lao động và cả thiện đời sống nhân dân. Nên thực chất của CM XHCN là cuộc CM về kinh tế. Trong Điều lệ Quốc tế I, C.Mác viết: “Bất cứ cuộc CM chính trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải phóng giai cấp công nhân về mặt kinh tế”. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông nói: Xây dựng CN cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có giải phóng về kinh tế mới làm chủ được mặt tinh thần. Nội dung của CM XHCN trên lĩnh vực kinh tế trước hết phải thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với TLSX. Xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư TBCN về TLSX, xác lập chế độ sở hữu XHCN về TLSX dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những biện pháp cần thiết gắn người lao động với TLSX. Sau đó phải cải tạo nền SX cũ, lạc hậu thành nền SX lớn XHCN có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kĩ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất lao động, nhằm từng bước cải thiện đời sống nhân dân và tạo ra những cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH. Trên cơ sỡ đó, CNXH thực hiện nguyên tắc “ làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng CM XHCN tạo nên sự biến đổi căn bản trong phương thức và nội dung sinh hoạt tinh thần của XH theo hướng tiến bộ. Trên cơ sở kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, thực hiện việc tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại để thực hiện việc giải phóng những người lao động về mặt tinh thần thông qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của ĐCS, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ: “ CM cộng sản CN là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan hệ sở hữu kế thừa của quá khứ; không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tưởng kế thừa của quá khứ” Các nội dung trên diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết, tác động, thúc đẩy lẫn nhau đưa đến sự
- thành công của CM XHCN. 3.Động lực của CM XHCN: CM XHCN với mục đích giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức, bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham gia của đông đảo giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo ra những động lực to lớn của CM. Trước hết, đối với giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là ĐCS, là động lực cơ bản, quan trọng nhất, bở lẻ, giai cấp công nhân có vai trò quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, SX ra nhiều của cải vật chất làm giài cho XH. Mặt khác, giai cấp công nhân đề ra mục tiêu giải phóng nhân dân lao động ra khỏi áp bức, bất công, nghèo nàn, lạc hậu đã được các tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đi theo tạo thành sức mạnh tổng hợp. Hơn nữa, giai cấp công nhân với đường lối, chiến lược CM đúng đắn đã đưa CM từng bước đi đến thắng lợi. Do vậy, giai cấp công nhân và chính đảng của nó như là đầu tàu thúc đẩy cả con tàu CM chuyển động đi về đích. Nên thực tế lịch sử cho thấy, khi nào và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sáng suốt thì CM đi lên. Nơi nào phong trào công nhân suy yếu, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sai lầm thì phong trào CM sẽ gặp khó khăn. Thứ 2, dồi với giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là động lực quan trọng của CM XHCN vì giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân, là lực lượng xã hội to lớn, đông đảo trong nhâ cư, có khả năng CM to lớn. Trong mỗi giai đoạn của CM, không thể thiếu vai trò của giai cấp nông dân. Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ giành được thắng lợi khi tập hợp được sức mạnh của giai cấp nông dân. Mác – Ăng ghen chỉ ra rằng: “CM VS ( theo nghĩa hẹp ) phải là bản đồng ca của 2 giai cấp : công nhân và nông dân. Trong các quốc gia còn tồn tại phổ biến là nông dân, nếu không có được bản đồng ca ấy thì bài đơn ca của giai cấp công nhân sẽ trở thành 1 bài ca ai điếu”. Trong quá trình xây dựng CNXH, giai cấp nông dân là lực lượng quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời là lực lượng to lớn bảo vệ vững chắc thành quả của CM XHCN, là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo của đảng, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước vững mạnh. Thứ ba, đối với tầng lớp trí thức: trí thức đóng vai trò quan trọng trong CM XHCN, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng CNXH. Lenin đã từng khẳng định: “ Không có trí thức không thể có CNXH” vì rằng trí thức là những người có công lao chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, phát triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối của đảng, chính sách của nhà nước, đưa nó vào trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khi khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại phát triển thì vai trò động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. Tuy vậy, trí thức không bao giờ trở thành lực lượng lãnh đạo CM vì họ không đại biểu cho bất kì một phương thức SX nào; không có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức của hệ giai cấp đó. Trí thức CNXH mang ý thức hệ của giai cấp công nhân.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương ôn tập môn học Chủ nghĩa Mác - Lênin
22 p | 2713 | 697
-
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN II
19 p | 1129 | 281
-
Đề cương ôn tập môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin – Học phần 2: Học thuyết giá trị
33 p | 1293 | 204
-
Đề cương ôn tập môn Lịch sử học thuyết kinh tế
33 p | 1307 | 198
-
Đề cương ôn tập Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguyễn Văn Tú
9 p | 1054 | 164
-
Đề cương Tự luận: Ôn tập môn Triết học
70 p | 510 | 115
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN
39 p | 1016 | 75
-
Đề cương ôn tập bộ môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin 2
17 p | 334 | 74
-
Đề cương ôn tập Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
36 p | 472 | 51
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin
21 p | 653 | 50
-
24 vấn đề ôn thi Chủ nghĩa Mác-Lênin (ĐH Ngân hàng TP. HCM)
34 p | 183 | 47
-
Đề cương ôn tập Triết học Mác-Lênin 2
18 p | 390 | 37
-
Đề cương ôn tập Triết học Mác-Lênin
22 p | 182 | 25
-
Đề cương ôn tập học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học
44 p | 44 | 9
-
Đề cương ôn tập học phần Chủ nghĩa khoa học xã hội
15 p | 13 | 5
-
Đề cương ôn tập nội dung môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
17 p | 9 | 5
-
Tài liệu ôn tập trắc nghiệm môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
28 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn