Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN
lượt xem 75
download
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN gồm 8 câu hỏi lý thuyết giúp bạn làm quen với hình thức thi của môn học, hệ thống lại kiến thức qua các câu hỏi, bài tập và tự đánh giá năng lực của mình. Mời bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Câu 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành hệ thống chính trị ở nước ta. Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị của nước ta. Câu 2: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Liên hệ thực tiễn. Câu 3: Vị trí, vai trò, chức năng của HĐND? Liên hệ. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND. Liên hệ. Câu 4: Nguồn gốc và bản chất của Pháp luật. Bản chất của pháp luật XHCN? Hệ thống pháp luật XHCN? Câu 5: Các quan điểm và nội dung thực hiện dân chủ cơ sở. Liên hệ thực tiễn. Câu 6: Khái niệm pháp chế XHCN. Mối quan hệ giữa pháp luật và pháp chế. Các biện pháp tăng cường pháp chế XHCN. Liên hệ thực tiễn. Câu 7: Cơ cấu tổ chức, chức năng của TAND và VKSND? Câu 8: Nội dung cơ bản các ngành luật: Hiến pháp, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Câu 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành hệ thống chính trị ở nước ta. Vai trò của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị của nước ta. Chính trị là hoạt động gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội khác nhau, xoay quanh vấn đề trung tâm vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị xã hội…) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị. Hệ thống chính trị được tạo thành từ nhiều bộ phận là một kết cấu phức tạp gồm nhiều bộ phận nhỏ khác, như: Tiểu hệ thống thể chế chính trị (các tổ chức), Tiểu hệ thống quan hệ, Tiểu hệ thống cơ chế, Tiểu hệ thống các nguyên tắc vận hành. Như vậy, cấu trúc của HTCT gồm bốn bộ phận: + Các tổ chức là cốt vật chất của HTCT, + Quan hệ chính trị là bộ phận kết nối, + Cơ chế là phương thức hoạt động, + Các nguyên tắc vận hành nhằm đảm bảo HTCT vận hành thông suốt. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta: Hệ thống chính trị nước ta về tổ chức bộ máy bao gồm: ĐCS VN, Nhà nước, Mặt trận TQVN và các TCCTXH. ĐCSVN là hạt nhân, lãnh đạo hệ thống chính trị. NNCHXHCNVN bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (TA và VKS) và chính quyền địa phương. Là trung tâm của quyền lực chính trị. QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực cao nhất của nước CHXHCNVN. QH có chức năng lập pháp; quyết định những vấn đề xã hội, QP, AN của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của công dân. QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của NN. Chủ tịch nước là người đứng đầu NN, thay mặt NN về đối nội và đối ngoại. CTN do QH bầu ra trong số các Đại biểu QH. CTN phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước QH. CP là cơ quan chấp hành của QH, cơ quan HCNN cao nhất của Nước CHXHCNVN. CP thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, k tế, v hóa, x hội, QP, AN và đối ngoại của NN. TAND và VKSND có chức năng nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của NN. Để thực hiện nhiệm vụ đó, các cơ quan này phải thực hiện một số nhiệm vụ như điều tra, tố tụng, truy tố, xét xử, thi hành án ...
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Hệ thống Tòa án ở nước ta bao gồm: TAND Tối cao, các TAND địa phương, các Tòa quân sự và các Tòa án khác do Luật định. Đó là những cơ quan xét xử của Nước CHXHCNVN. Hệ thống VKS ở nước ta bao gồm: VKSND Tối cao, các VKSND địa phương, các VKS Quân sự. VKS thực hành quyền công tố và kiểm soát các hoạt động tư pháp. Đối với địa phương: Nhân dân các địa phương bầu ra HĐND cấp mình. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra. HĐND bầu ra UBND, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan HCNN ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành HP, luật, các VB của cơ quan NN cấp trên và Nghị quyết của HĐND cùng cấp. MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia công tác bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp, xây dựng chủ trương chính sách pháp luật, vận động nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện giám sát, phản biện hoạt động các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, CB,CC, đảng viên, giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Các cơ chế vận hành của hệ thống chính trị: + Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. + Cơ chế mệnh lệnh hành chính. + Cơ chế thể chế (xây dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống các tổ chức của hệ thống chính trị) + cơ chế tư vấn: tuyên truyền, giáo dục theo định hướng chính trị nhất định. + Cơ chế kiểm soát quyền lực (có hai hệ thống): Các cơ quan nhà nước (QH, HĐND, thanh tra, kiểm toán…), đây là hệ thống kiểm soát quyền lực bên trong. Các tổ chức Đảng, đoàn thể, dư luận xã hội, hệ thống thông tin đại chúng, quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đây Là hệ thống kiểm soát quyền lực bên ngoài. Các cơ chế vận hành này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi một loại tổ chức trong hệ thống chính trị tuy theo chức năng, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động để sử dụng và kết hợp các cơ chế sao cho quá trình thực thi quyền lực chính trị có hiệu lực và hiệu quả nhất. Vị trí, vai trò của Nhà nước trong Hệ thống chính trị XHCN ở VN: Nhà nước Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị được quy định bởi chức năng và nhiệm vụ của nó trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội và được thể hiện trong mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị nước ta, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Vị trí, vai trò của Nhà nước trong Hệ thống chính trị XHCN ở VN thể hiện ở các mặt sau đây: Thứ nhất: Nhà nước là biểu hiện tập trung nhất của quyền lực chính trị là đại diện của các tầng lớp, giai cấp, nhóm lợi ích chủ yếu trong xã hội; là đại diện chính thức của toàn xã hội;
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện; Thứ hai: Nhà nước là công cụ chủ yếu, hữu hiệu nhất để thực hiên quyền lực chính trị Cưỡng chế nhà nước trong thực hiện quyền lực chính trị; Đầy đủ phương tiện, cơ sở vật chất để thực hiện quyền lực chính trị; Là chủ thể duy nhất mang chủ quyền trong quan hệ quốc tế về chính trị. Thứ ba: Thể hiện ở mối quan hệ của Nhà nước với Đảng và các tổ chức CTXH Đảng hoạch định chiến lược và mục tiêu cơ bản, đường lối, chủ trương phát triển kinh tế xã hội để từ đó Nhà nước thể chế hóa và thực hiện. Đảng là nguồn nhân sự quan trọng cho cơ quan nhà nước. Đảng kiểm tra giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực hiện đường lối chủ trương, chính sách. Tổ chức CTXH là tập hợp quần chúng nhân dân liên kết theo nguyên tắc tự nguyện nhằm đáp ứng các lợi ích cho các thành viên. Tham gia vào quá trình tổ chức cơ quan nhà nước và giám sát thực hiện quyền lực nhà nước theo quy định của pháp luật. Đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, chủ trương, đường lối chính sách phát triển của đất nước.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Câu 2: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Liên hệ thực tiễn.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Qua thực tiễn tồn tại và phát triển của lịch sử nhân loại, qua nghiên cứu các quan điểm tư tưởng về tổ chức, xây dựng và vận hành của bộ máy nhà nước qua các thời kỳ lịch sử, chúng tôi cho rằng, khái niệm nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước nói chung thông qua hệ thống pháp luật, như hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy khác. Nói cách khác, nhà nước pháp quyền là nhà nước được xem xét dưới góc độ pháp luật, trong đó tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, các tư tưởng và hành vi chính trị, tôn giáo... của bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào cũng được giới hạn bởi khuôn khổ pháp luật và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Với cách tiếp cận này, chúng ta có thể thấy, tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã có từ rất lâu trong lịch sử nhân loại và tương ứng với mỗi kiểu nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa) đều có một hệ thống pháp luật tương ứng và đạt mức độ phát triển khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi cũng không thống nhất với quan điểm cho rằng, "bất cứ nhà nước nào có hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm khác nhau đều coi là nhà nước pháp quyền" mà cần xác định rằng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền phát triển không ngừng, là thành quả của nhân loại, nó hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ xã hội và cho đến nay đã được thế giới thừa nhận về mặt lý luận như một học thuyết về nhà nước pháp quyền. Tại Hội nghị quốc tế về nhà nước pháp quyền được tổ chức tại Bênanh, năm 1992, các luật gia đã đưa ra nhiều khái niệm, tiêu chí về một nhà nước pháp quyền và được đông đảo dư luận quốc tế đồng tình, bao gồm: sự thừa nhận tính tối cao của pháp luật; việc xác định quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong bộ máy quyền lực nhà nước; việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng pháp luật quốc tế v.v.. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, vấn đề nhà nước pháp quyền đề cập đến phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước dưới góc độ pháp luật, mà pháp luật thì bao giờ cũng mang tính giai cấp và tính đặc thù của mỗi nhà nước, mỗi dân tộc; do đó, phương thức tổ chức xây dựng và vận hành của nhà nước pháp quyền sẽ thể hiện cụ thể khác nhau về bản chất chế độ chính trị, hệ thống quan điểm, mục đích nhiệm vụ của từng thời kỳ phát triển hoặc điều kiện cụ thể của mỗi nước, chứ không có mô hình, tiêu chí về nhà nước pháp quyền đồng nhất cho tất cả các nước khác nhau. Qua nghiên cứu sự hình thành, phát triển và các quan điểm lý luận về nhà nước pháp quyền hiện nay, chúng ta có thể xác định, nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định và thừa nhận tính tối cao của pháp luật; bao hàm việc xác định rõ ràng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội, nhất là việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung). Từ đó, chúng ta có thể rút ra bốn tiêu chí chung của nhà nước pháp quyền như sau: Phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước phải do pháp luật quy định; Nhà nước và công dân phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật (đảng phái, tổ chức, tôn giáo... phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật); Quyền lực nhà nước được xác định gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội; đặc biệt là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân (hoặc con người nói chung) Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với một giai cấp mà là một hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật, đảm bảo quyền tự do dân chủ của nhân dân. Qua mấy chục năm xây dựng và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1994), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ và phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là nhiệm vụ lớn lao của Đảng và của toàn dân tộc, cho nên Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện và cụ thể hóa trong các văn kiện của Đảng như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa VII, năm 1995; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, v.v.. Tiếp thu những tiến bộ khoa học về nhà nước pháp quyền đồng thời quán triệt quan điểm chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật kiểu mới có thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân. Tham khảo thêm: Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Trên cơ sở các tiêu chí chung về nhà nước pháp quyền, chúng ta có thể nhận thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền tư sản. 1 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau rất cơ bản. Rõ nhất là, sự khác nhau trong các quy phạm của hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân sự và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện; Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án, Tòa án Hiến pháp, v.v.. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ...) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thông qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kỳ mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật tư sản lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ... 2 Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản không phải là pháp luật của toàn dân, không thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản. 3 Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thừa nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó, có sự phân công, phối hợp, để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất. 4 Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau. Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thông qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi "án lệ" hoặc "tập quán" như một loại quy phạm pháp luật "bất thành văn". Xây dựng nhà nước pháp quyền đang trở thành một xu thế khách quan tất yếu đối với các quốc gia dân chủ trong thế giới hiện đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung đó. Yếu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội VIII của Đảng và qua các kỳ ĐH tiếp theo, tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN và kỷ lụa, kỷ cương” Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa vào văn kiện Đại hội VII của Đảng, trong đó nêu rõ: “Quốc hội cần hướng vào việc thực hiện hai yêu cầu cơ bản: Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ đáp ứng được yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế xã hội và quản lý mọi mặt xã hội văn minh, tiến bộ; hệ thống pháp luật đó là cơ sở bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi có hiệu quả, là một nhân tố trọng yếu làm cho các quan hệ xã hội của chúng ta trở nên lành mạnh hơn. Hai là, bảo đảm quyền lực và hiệu lực trên thực tế của Quốc hội, do Hiến pháp quy định”(1). Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền đã có bước phát triển. Nếu như ở Đại hội VII, Đảng ta mới chỉ xác định yêu cầu phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ định hình được rằng, đó là nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ để quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thì đến Đại hội VIII, Đảng ta lại xác định thêm tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước pháp quyền, tức là chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta thấy bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp chế, coi đó là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh đạo đức như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì dân. Đồng thời với chủ trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX cũng chủ trương mở rộng dân chủ là cơ sở chính trị xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Còn về cơ sở kinh tế chính trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta khẳng định lại ở Đại hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(2). Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà nước, bởi vì ở các nhà nước pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam quyền phân lập”. Việc Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và pháp luật. Chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những đặc trưng đã nêu ở trên vẫn tiếp tục được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng, trong đó Đảng ta đặc biệt chú ý đến việc “nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”(3). Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể thấy: Một là, Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức tổ chức dân chủ quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội. Ba là, nhất quán chỉ rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Bốn là, nhận rõ đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế, khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội. Năm là, xác định được cơ chế vận hành của các cơ quan quyền lực nhà nước: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sáu là, thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương, giáo dục đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảy là, khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận chắc chắn được rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình và giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, Đảng ta đã ban hành 02 nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khâu đột phá trong tiến trình hoàn thiện tổ chức quyền lực nhà nước. Nghị quyết số 48NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch. Trong đó, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực thi pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, mở rộng hội nhập quốc tế; xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh; thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị quyết số 49NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra các giải pháp đồng bộ nhằm vừa giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài vì mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, công bằng, phụng sự công lý, phục vụ Tổ quốc và nhân dân; tạo cơ sở quan trọng cho công cuộc cải cách tư pháp đi vào chiều sâu, đặc biệt là việc thay đổi về chất các thể chế, nguyên tắc, điều kiện bảo đảm độc lập xét xử và nâng cao năng lực, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ các chức danh tư pháp. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam được hình thành trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần thiết phải xây dựng các thiết chế quyền lực phù hợp. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế đó, cơ chế thị trường cần được vận hành đầy đủ, linh hoạt để phát huy mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo, tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường với sự tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài nước, với sự tham gia ngày càng nhiều chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế như hiện nay, Nhà nước phải bảo đảm và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật để mọi công dân có nhu cầu, có điều kiện đều được tham gia hoạt động kinh doanh; mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế đều được coi trọng, cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế; bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; định hướng phát triển, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt trái, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Trong điều kiện các quy luật thị trường chưa vận hành đồng bộ, nhà nước cần thực hiện “tròn vai” chức năng quản lý KTXH, làm tốt vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của các loại thị trường, giúp cho thị trường vận hành thông suốt. Thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hơn hai mươi năm qua cho phép chúng ta rút ra những bài học quý báu, làm tiền đề cho việc tiếp tục nghiên cứu, đúc kết thực tiễn, làm sâu sắc hơn lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN; bổ sung, làm giàu thêm lý luận về tổ chức quyền lực trong Nhà nước XHCN. Trước hết, cần kiên trì học thuyết Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quyền lực nhà nước ; kiên trì mục tiêu Nhà nước XHCN thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang lại lợi ích, tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng và cuộc sống hạnh phúc cho người dân. Đó cũng là chuẩn mực cao quý để đánh giá bản chất vì con người của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là điều mà ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến khi đề ra yêu cầu xây dựng Nhà nước, xây dựng xã hội trên nguyên tắc pháp quyền. Theo đó, mọi hành vi, mọi hoạt động ở mọi nơi, mọi lúc của bộ máy nhà nước, của từng công chức đều phải thể hiện được “... thần linh pháp quyền”[2]; ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm, kỷ cương, kỷ luật phải là yếu tố chi phối toàn bộ hoạt động của bộ máy công quyền; môi trường pháp chế phải trở thành yếu tố tự nhiên của xã hội. Thứ hai, bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn; kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn; bảo đảm mọi lý luận đều có khởi nguồn và là nhu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn. Càng giải quyết đúng đắn các đòi hỏi của thực tiễn thì tính pháp quyền XHCN của Nhà nước càng nhiều, lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN càng khẳng định sức sống của mình. Thứ ba, cần tiến hành từng bước vững chắc, với lộ trình phù hợp để bảo đảm chắc chắn thành công. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề mới, chưa có tiền lệ, liên quan đến thể chế quản lý từ Trung ương đến địa phương, trong tất cả các lĩnh vực của đời sống KTXH. Vì vậy, không thể nóng vội, “rũ tung” vấn đề rồi sắp xếp lại, mà phải tìm cho được khâu đột phá; vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để triển khai ở các khâu khác. Cụ thể, chúng ta dành ưu tiên cho việc hoàn thiện pháp luật, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng tranh tụng của Tòa án và thành quả triển khai ở các lĩnh vực này đã tạo tiền đề thuận lợi để tiến hành những bước tiếp theo.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Với việc xác định xây dựng pháp luật là khâu đột phá và tập trung nguồn lực triển khai, trong thời gian không dài, hệ thống pháp luật của nước ta đã hình thành, điều chỉnh ngày càng sâu rộng các quan hệ phát sinh trong xã hội và đang bước vào giai đoạn hoàn thiện. Các chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống KTXH đã được điều chỉnh ngày càng đầy đủ trong các đạo luật chuyên ngành. Năm 1991, nước ta mới có 92 luật, sắc lệnh, pháp lệnh (trong đó có 35 luật) chủ yếu tập trung điều chỉnh các lĩnh vực về tổ chức bộ máy, an ninh, quốc phòng, kinh tế... thì đến năm 2011, nước ta đã có 330 luật, pháp lệnh, điều chỉnh tương đối đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là các luật, pháp lệnh liên quan đến chế độ kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, quyền và nghĩa vụ của công dân... Cải cách hành chính, trước hết là cải cách thủ tục hành chính đã góp phần từng bước xây dựng nền hành chính tuân thủ pháp luật, trong sạch, trách nhiệm, gần dân, tinh gọn với các nội dung cơ bản là cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Mục tiêu của Chương trình là xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo các nguyên tắc pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… Thứ tư, tăng cường và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước, quyền lực nhà nước là các phạm trù chính trị pháp lý. Lãnh đạo xây dựng Nhà nước, tổ chức quyền lực nhà nước là sứ mệnh chính trị của Đảng nhằm giữ vững bản chất của Nhà nước XHCN, bảo đảm thực hiện đúng đắn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Thứ năm, học tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước. Nhà nước pháp quyền là một giá trị tư tưởng được tích lũy trong lịch sử nhân loại, gắn liền với tư tưởng phát triển dân chủ, ngăn ngừa, loại trừ chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Tuy nhiên, việc vận dụng tư tưởng này cần được thực hiện phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, lịch sử của mỗi quốc gia, dân tộc. Đây cũng là vấn đề liên quan đến bài học bám sát thực tiễn nêu trên. Hiện nay, có một số người không thích nói đến “thực tế Việt Nam”, “đặc thù Việt Nam”, coi đó là sự ngụy biện cản trở hội nhập quốc tế. Họ cho rằng, cần lấy mô hình thành công của các nước tiên tiến để “áp dụng trọn gói” khi xây dựng các thiết chế nhà nước của Việt Nam. Tuy nhiên, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một sự nghiệp lớn, là một trong những vấn đề hệ trọng liên quan đến sự phát triển của đất nước, đến cuộc sống của nhân dân; vì vậy, không thể nôn nóng, chủ quan, khinh suất hoặc sao chép kinh nghiệm nước ngoài. Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, chúng ta cần nắm vững các định hướng lớn sau: Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; xây dựng, bổ sung các thể chế, cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, tạo thành sức mạnh tổng hợp của quyền lực nhà nước. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, cần đẩy mạnh việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội nhằm: một mặt, bảo đảm Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; mặt khác, tạo cơ chế phù hợp, có hiệu lực, hiệu quả để Quốc hội thực hiện tốt chức năng giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, tăng tính khả thi của pháp luật. Xác định rõ hơn vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt là mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp; trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thực hiện chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân. Xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp. Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ phù hợp với vị trí, tính chất đó của Chính phủ. Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp; cần nghiên cứu thấu đáo cơ chế bảo vệ Hiến pháp, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Về chính quyền địa phương, cần xác định rõ hơn địa vị pháp lý, mô hình tổ chức, thẩm quyền của các cấp chính quyền địa phương; quan hệ giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; tăng cường phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương nhằm bảo đảm sự điều hành, chỉ đạo thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tự chủ, tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là công việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội là vấn đề cốt tử, là tiền đề quan trọng để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Đây là một sự nghiệp lớn, là quá trình lâu dài, nhưng phải tiến hành với nhịp độ khẩn trương, đòi hỏi sự phấn đấu nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn thể cán bộ, công chức và nhân dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân có vai trò hết sức quan trọng. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một sáng tạo trong tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng ta về tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng và tổ chức quản lý xã hội nói chung. Từ chỗ cơ bản quan tâm đến các vấn đề bên ngoài của tổ chức quyền lực nhà nước (như kiện toàn tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan trong bộ máy nhà nước…), chúng ta đã coi trọng bản chất của nhà nước. Đó là việc xác lập nguyên tắc pháp quyền XHCN, coi trọng tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước. Từ nhận thức đúng đắn về nguyên tắc này, chúng ta ngày càng ý thức được đây là tinh hoa của khoa học tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý xã hội của loài người và vận dụng sáng tạo, hài hòa với các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Nhà nước XHCN. Một số vấn đề đặt ra hiện nay. Bên cạnh những kết quả đã đạt được về mặt lý luận, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm đổi mới đã bộc lộ không ít những vấn đề cần phải giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Về phương diện lý luận, cần giải quyết một số vấn đề sau: Một là, cần xác định rõ những đặc trưng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng. Một số ý kiến cho rằng, nếu chỉ dựa trên cơ sở tính pháp chế và dân chủ thì bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng như vậy. Còn nói đến cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền của chúng ta là ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường thì vẫn chưa rõ và có phần khiên cưỡng, thiếu sức thuyết phục. Trong khi chính tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng chưa được được làm rõ về mặt lý luận, thì có nên chăng lấy điều đó để lý giải cho một vấn đề chưa rõ khác? Hơn nữa, khi nền kinh tế tức cơ sở hạ tầng mới chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa, thì nhà nước tức kiến trúc thượng tầng có thể gọi là xã hội chủ nghĩa được không hay cũng chỉ mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa? Đó là vấn đề đặt ra cần được lý giải một cách khoa học. Chính vì trong lịch sử chưa từng có một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đích thực, cho nên trong lý luận về nhà nước pháp quyền vẫn còn một mảng trống mà chúng ta cần bổ sung và phát triển. Hai là, cần làm rõ cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Cần làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối” của mỗi quyền, sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ba là, làm sáng tỏ hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Vấn đề đặt ra là chỉ ra được phạm vi tác động của Đảng cầm quyền đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, chỉ rõ sự tối cao của pháp luật, tránh sự can thiệp tùy tiện của Đảng đối với hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước, tránh sự bao biện, ôm đồm, không tôn trọng luật pháp. Bốn là, làm rõ cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân, của Mặt trận, của các đoàn thể chính trị xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. Sở dĩ vấn đề này được đặt ra là vì, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với các đại biểu mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân. Năm là, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta . Mặc dầu trong gần 30 năm đổi mới toàn diện của đất nước, chúng ta đã có nhiều đổi mới trong lĩnh vực lập pháp, song hệ thống luật pháp của chúng ta cho đến nay vẫn tỏ ra chưa theo kịp thực tiễn và còn nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn, nhằm xây dựng hệ thống luật pháp của Việt Nam một cách hoàn chỉnh và ổn định hơn, làm cơ sở cho Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Đổi mới tư duy pháp lý cần hướng đến giải quyết những nhiệm vụ như xác định mô hình luật pháp của nước ta; nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây dựng và thực thi các thể chế pháp lý, để tiếp thu có chọn lọc các giá trị và kinh nghiệm trong lĩnh vực này; đổi mới công tác kế hoạch lập pháp; thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật, nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ được thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế. Về phương diện thực tiễn, cần giải quyết một số vấn đề như: Đẩy mạnh việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nghĩa là xây dựng và phát triển kinh tế bền vững. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám chữa bệnh cho người nghèo… Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về cơ chế chính sách, về quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, về công tác cán bộ,… Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật. Bên cạnh việc xây dựng pháp luật, việc thực hiện pháp luật cũng có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng việc thực hiện không nghiêm thì cũng không thể nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp quyền. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật . Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người dân chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thức được sự cần thiết phải chấp hành luật, hoặc do không nắm được luật nên vi phạm mà không biết. Chính vì vậy, để tăng cường việc thực thi pháp luật, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng, của các đoàn thể chính trị xã hội cũng như bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, để mệnh lệnh hành chính luôn được chấp hành một cách nghiêm túc và thông suốt từ trung ương đến cơ sở. Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng đại biểu hội đồng nhân dân , nhằm kiểm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân. Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề được đặt ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham nhũng,… trong các cơ quan nhà nước. Thực tiễn cho thấy, dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế, quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước có đạt đến độ hoàn mỹ thì cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như trong quá trình thực thi công vụ, cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy chế, quy tắc ứng xử đã được thể chế hóa. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là một vấn đề mới vì nó được đặt ra một cách thường xuyên, liên tục, theo yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực trạng yếu kém và bất cập của các tổ chức Đảng, sự thoái hóa, tụt hậu và biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên như hiện nay, thì vấn đề đổi mới và chỉnh đốn Đảng lại được đặt ra một cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi mới và tự chỉnh đốn Đảng gồm nhiều nội dung như: Đổi mới công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới công tác tổ chức, bộ máy của Đảng và của hệ thống chính trị; công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát; công tác quần chúng,… Chỉ có tiến hành đồng bộ những nội dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hơn, đủ năng lực lãnh đạo công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự nghiệp dài lâu của toàn Đảng, toàn dân, bởi vì trong việc này còn ngổn ngang nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải giải quyết cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Những vấn đề đó không phải dễ gì một sớm một chiều mà giải quyết được. Để đạt tới một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội./ Liên hệ:
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Về phương diện thực tiễn. Hiện nay cẩn giải quyết một số vấn đề như: Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc như xóa đói, giảm nghèo, xóa dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược, vấn đề tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, khám chữa bệnh cho người nghèo... Tăng cường kỷ cương phép nước, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn, gian lận thuế... gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính, về cơ chế chính sách, về quản lý và sử dụng đất đai,tài sản công, về công tác cán bộ,... Tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật Bên cạch việc xây dựng pháp luật, việc thực hiện pháp luật cũng có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền, hệ thống pháp luật có thể rất đầy đủ, hoàn thiện nhưng việc thực hiện không nghiêm thì cũng không thế nói đến sự hiện diện của nhà nước pháp quyền. Đấy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật Thực tiễn cho thấy rằng, một trong những nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật chưa tốt là do kiến thức về luật pháp chưa tốt, nhiều người dân chưa am hiểu về luật pháp, chưa ý thúc được sự cần thiết phải chấp hành luật hoặc do không nắm được luật nên vi phạm mà không biết. Chính vì vậy, để tăng cường việc thi pháp luật cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, chú trọng sự tham gia của các phương tiện thông tin đại chúng, của đào thể chính trị xã hội cũng như bộ máy chính quyền các cấp và cuối cùng là siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính để mệnh lệnh hành chính luôn được chấp hành một cách nghiêm túc và thông suốt từ trung ương đến cơ sở. .. Tăng cường hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, của các cơ quan và từng đại biểu hội đồng nhân dân, Nhằm kiếm tra, đánh giá việc chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bàn quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền cấp trên; kiểm tra, đánh giá và kết luận, xử lý đối với và thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân. Tăng cường đạo đức công vụ của cán bộ, công chức . Đây là vấn đề được đặt ra hết sức bức thiết nhằm ngăn chặn và hạn chế những tiêu cực, tình trạng sách nhiễu, quan liêu, tham những,... trong các cơ quan Nhà nước. Thực tiễn cho thấy. dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có đạt đến độ hoàn hảo tuyệt đối, quy chế, quy tắc ứng xử của cơ quan quản lý nhà nước có đạt đốn độ hoàn mỹ thì cũng khó có thể đem lại hiệu quả như mong muốn nếu như trong quá trinh thục thi công vụ, cán bộ, công chức không thực hiện nghiêm pháp luật, chấp hành không đúng quy chế quy tắc ứng xử đã được thế chế hóa. Đổi mớí và chỉnh đốn đảng. Trước thực trạng yếu kém và bất cập của các tổ chức Đảng, sự thoái hóa, tụt và biến chất của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên như hiện nay thì vấn đề đổi mói và chỉnh đốn Đảng lại được đặt ra một cách bức thiết hơn bao giờ hết. Đổi mới và tự chỉnh đốn gồm nhiều nội dung như: Đổi mói công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, phòng chống tham nhũng, lãng phí; công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát,… Chỉ có tiến hành đồng bộ những nội dung đó mới làm cho Đảng ngày càng vững mạnh hớn, đủ năng lực lãnh đạo công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Như vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, đây là sự nghiệp lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. Những vấn đề đó không phải dề gì một sớm một chiều mà giải quyết. Để đạt tói một nhà nước pháp quyền XHCH theo đúng nghĩa của nó cần có sự nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, sự đầu tư về trí tuệ, sức người, sức của, của toàn xã hội.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Câu 3: Vị trí, vai trò, chức năng của HĐND? Liên hệ. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND. Liên hệ. Hiến pháp 2013 khẳng định địa vị pháp lý của chính quyền địa phương là thiết chế không thể thiếu trong tổ chức bộ máy của Nhà nước, là nơi có tính chất quyết định đối với việc đưa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Là thiết chế quan trọng bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân đồng thời khẳng định nguyên tắc tổ chức của chính quyền gồm UBND và HĐND:”chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt do luật định” (Điều 111) Vị trí, vai trò, chức năng của HĐND: Vị trí, vai trò của HĐND HP năm 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) khẳng định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí , nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Hiến pháp 2013 một lần nữa khẳng định:” HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của dịa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND ” (Điều 113) Như vậy dựa vào đó ta thấy rằng HĐND có 2 vị trí, vai trò cơ bản: Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Là cơ quan đại diện cho nhân dân địa phương. Về chức năng của HĐND HĐND thực hiện 2 chức năng cơ bản đó là chức năng quyết định và chức năng giám sát. HĐND quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vất chất tinh thần của nhân dân địa phương làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất đối vơi đời sống KTXH ở địa phương. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương. Liên hệ: Liên hệ thức tiễn với HĐND xã, phường, thị trấn: Thực tế hiện nay HĐND xã, phường, thị trấn đôi khi chưa phát huy đầy đủ vị trí,vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương: + Hoạt động của HĐND xã, phường, thị trấn nhìn chung còn hạn chế, công tác tham gia xây dựng và tuyên truyền, phả biện pháp luật, chủ trương của Đảng Nhà nước, nghị quyết của HĐND còn thiếu chủ động, chất lượng các nghị quyết của HĐND chưa cao. + Việc xem xét, quyết đinh những vấn đề quan trọng, nhất là về kinh tế xã hội, ngân sách nhà nước, xây dựng cơ bản có lúc còn mang tính hình thức, nhiều kiến nghị thông qua hoạt động giám sát chưa được các cơ quan có trách nhiệm giải quyết kịp thời; + Việc giám sát giải quyền khiêu nại, tố cáo của công dân, công tác hỏa giải ở cơ sở còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; một số đại biểu HĐND chưa làm tròn trách nhiệm của người đại biểu dân cử... Nguyên nhân của những tồn tại,hạn chế: +Do một số cấp ủy thiếu quan tâm đến hoạt động HĐND, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động còn nhiều bất cập; +Thường trực HĐND xã, phường, thị trấn, nhất là Phó chủ tịch HĐND hoạt động chuyên trách ở một số địa phương còn hạn chế về trình độ và năng lực, lại thiếu ổn định. +Một số ban, ngành, cán bộ, đảng viên,chưa nhận thức đầy đủ về vị trí vai trò của HĐND, có biểu hiện xem nhẹ hoạt động của HĐND; + một số cơ quan nhà nước ý thức chấp hành nghị quyết cúa HĐND chưa cao; một số đại biểu hạn chế về trình độ, năng lực, thiếu tâm huyết với HĐND; điều kiện bảo đám cho các hoạt động của HĐND, đại biểu HĐND còn hạn chế. Giải pháp : + Thời gian tới cấp ủy ở cơ sở cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của HĐND, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng ở địa phương đối với hoạt động của HĐND, quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, phân công cán bộ có tâm, có tầm làm công tác HĐND, để xây dựng HĐND thật sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. + Cần cải tiến và nâng cao chất lượng kỳ họp HĐND. Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của cơ quan dân cử, lả hoạt động tập trưng cao từ tuệ của đại biểu HĐND. Tại kỳ họp, HĐND sẽ thảo luận và thông qua các quyết định quan trọng thực hiện các chức năng thẩm quyền của HĐND. Kỳ họp HĐND xã, phường, thị trấn thực hiện công khai, dân chủ, diễn ra sôi nổi, là diễn đàn của nhân dân trong cộng ứng khu dân cư, lả nơi từ hiện phương châm dân biết. dân bàn. dân làm. dân kiểm trả , để thu hút sự quan tâm theo dõi của cử tri đối với hoạt động của HĐND, công khai những vấn đề mà HĐND bàn và ra quyết định. Do vậy, tổ chức kỳ họp phải có sự chuẩn bị chu đáo, cung cấp đầy đủ và kịp thời các báo cáo. Tờ trình cho đại biểu nghiên cứu, dành thời gian thỏa đáng cho đại biểu thảo luận và chất vấn + Thực hiện từ chức năng giám sát của HĐND xã, thị trấn. Giám sát là một trong các chức năng cơ bản của HĐND, có vai trò quan trọng trong việc chấp hách pháp luật và nghị quyết của HĐND trên các inh vực kinh tế xã hội, quốc phòng, an luận ở địa phương + Đối mới và nâng cao chất lượng tiếp xúc củ tri, tiếp dân của đại biểu HĐND sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả hệ động của HĐND. Thông qua tiếp xúc cử tri, tiếp dân, người đại biểu sẽ thực hiện tốt hơn quyền giám sát của mình. nhất là giám sát việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác hòa giải ở cơ sở. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND: Vị trí, vai trò, chức năng của UBND: Ủy ban nhân dân do HĐND bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên. Chịu trách nhiệm chấp hành HP, luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và NQ của HĐND cùng cấp. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương. Nhiệm vụ và quyền hạn của UBND thể hiện ở các lĩnh vực cụ thể sau đây: Với vai trò là cơ quan chấp hành của HĐND, UBND thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của minh trong những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đến đời sống của nhân dân địa phương bao gồm các lĩnh vực cụ thể sau đây: 1.Về kinh tế: Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch đầu tư, kế hoạch ngân sách... 2.Về nông, lâm, ngư: Thực hiện quy hoạch phát triển nông, lâm, ngư... 3.Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Thực hiện các dự án phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế. Xây dựng các làng nghề TTCN. 4.Giao thông vận tải: Xây dựng hệ thống giao thông theo quy hoạch, quản lý khai thác các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng. 5.Thương mại, dịch vụ, du lịch : Quy hoạch phát triển thương mại, du lịch; quản lý thị trường; kiểm tra việc thi hành các quy định về thương mại, dịch vu, du lịch. 6.Giáo dục đào tạo: xây dựng chương trình phát triển giáo dục, quản lý thi cử, quản lý và kiểm tra tiêu chuẩn giáo viên, bằng cấp... 7.Văn hóa, thể dục, thể thao, y tế... : Quản ly nhà nước về văn hóa, thông tin, báo chí, thể dục, thể thao, phát thanh, truyền hình; quản lý các hoạt động y tế... 8. Về khoa học, công nghệ, tài nguyên môi trường: khuyến khích nghiên cứu khoa học, ứng dụng khoa học công nghệ; kiểm tra, bảo vệ tài nguyên, môi trường. 9.Về an ninh, quốc phòng: Đảm bảo an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội; Xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ; thực hiện nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội... 10 Về chính sách tôn giáo, dân tộc: Đảm bảo thực hiện chính sách dân tộc, không kỳ thị chia rẽ dân tộc. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của công dân.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. 11.Về thi hành pháp luật: Kiểm tra việc thi hành pháp luật, các biện pháp bảo vệ tài sản của nhà nước, tính mạng tài sản của nhân dân. Thực hiện thanh tra tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo, quản lý hộ tịch, hộ khẩu. 12.Về xây dựng chính quyền: Tổ chức tốt các cuộc bầu cử; tổ chức bộ máy theo quy định của nhà nước; xây dựng đề án thành lập, chia tách các cơ quan và đơn vị hành chính theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện hiện nay, nhiều địa phương đang trong quá trình đô thị hóa, và mỗi địa phương lại có những đặc điểm, tính chất riêng thì ngoài những nhiệm vụ và quyền hạn chung UBND ở một số nơi cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt cụ thể. Ngoài ra UBND ở từng cấp hành chính khác nhau sẽ có những nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Vấn đề này được quy định rất cụ thể trong Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003. Như vậy UBND sẽ tiến hành quản lý tất cả các lĩnh vực ở địa phương , trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn do pháp luật quy định thì UBND ra quyết định chỉ thị và tổ chức thực hiện, kiểm tra việc thi hành các văn bản pháp luật, nghị quyết của HĐND cùng cấp và cấp trên.UBND phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và UBND cấp trên trực tiếp. Liên hệ UBND cấp xã Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vi hành chính cơ sở, là cấp gần dân nhất và nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của các tầng lớp nhân dân. Thời gian qua Bộ máy chính quyền cấp xã đã tăng cường quản lý, điều hành theo pháp luật, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Trình độ, kiến thức và năng là công tác của cán bộ cơ sở từng bước được nâng cao Những hạn chế + Một số nơi chưa xây đựng và thực hiện quy chế làm việc, trách nhiệm người đứng đầu các cấp nhiều nơi chưa có quy định dẫn tới tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết công việc... + Quản lý, điều hành của UBND cấp xã một số nơi hiệu quả thấp, nhất là việc thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng và cải cách thù tục hành chính. Tình trạng vi phạm Luật Đất đai xảy ra ở nhiều tìm nhưng chậm được giải quyết dứt điểm. Công tác quản lý xây dựng, quản lý đô thị ở các phường còn nhiều tiêu cực; + Việc phòng, chống các vi phạm, tệ nạn và hành vi vi phạm pháp luật chưa hiệu quả, vấn đề tà đạo, tôn giáo trái phép còn xảy ra ở một số nơi những cấp ủy, chinh quyền, mặt trận và các đoàn thế ở cơ sở chưa kịp thời nắm bắt thông tin. Một bộ phận cán bộ, công chức cơ sở quan liêu, tham nhũng cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. + Chính sách, chế độ đối với cán bộ cơ sở còn bất cập, chưa động viên, khuyên khích được cán bộ có năng lực về công tác ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn quá đông số cán bộ được hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp, bồi dưỡng... Số lượng cán bộ hoạt động không chuyên trách tăng nhanh đang lả gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Số lượng, chức danh và mức phụ cấp hoặc sinh hoạt phí đối với cán bộ không chuyện trách (ở xã và thôn) do HĐND các tỉnh, thành phố quyết định có sự chênh lệch quá lớn trong đội ngũ cán bộ cơ sở giữa các địa phương. + Trình độ, kiến thức, năng lực cán bộ cấp xã nhiều mặt còn hạn chế: tỷ lệ cán bộ chưa đạt chuẩn về chuyên môn còn cao, Công tác đào tạo cán bộ còn chạy theo bằng cấp, Đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở chưa được đào tạo cơ bản, chủ yếu là học tại chức, thậm chí một số chưa được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ. Một số cán bộ chủ chốt ở xã, phường, thị trấn tuổi cao, năng lực hạn chế nhưng chưa đủ điều kiện về tuổi và năm công tác để nghỉ chế độ nên không bố trí được cán bộ trẻ, có năng lực thay thế. + Sự chỉ đạo của các cấp, các ngảnh đối với cơ sở thiếu thống nhất; việc ban hành văn bản các cơ quan cấp trên còn nhiều chồng chéo.
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. + Cơ sở hạ tầng và điều kiện, giao thông liên lạc, phương tiện làm việc của nhiều xã còn khó khăn. Nhất là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhiều thôn, tổ dân phố chưa có nhà văn hóa, không có nơi.để sinh hoạt chi bộ, họp dân hoặc tổ chức các buổi sinh hoạt văn hóa cộng đồng...
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Câu 4: Nguồn gốc và bản chất của Pháp luật. Bản chất của pháp luật XHCN? Hệ thống pháp luật XHCN?
- Đề cương ôn tập Môn: Những vấn đề cơ bản về hê thống chính trị, nhà nước và pháp luật XHCN – Đinh Huy. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, là yếu tố đảm bảo sự ổn định và trật tự của xã hội. Nguồn gốc của Pháp luật Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, lịch sử phát triển loài người đã có thời kỳ không có pháp luật. Đó là thời kỳ Công xã nguyên thủy. Trong thời kỳ này các bộ lạc, thị tộc đã dùng những quy tắc chung để điều chỉnh hành vi của con người. những quy tắc xã hội chung đó có những đặc điểm chung sau: Thể hiện ý chí, phù hợp với lợi ích của toàn thị tộc, bộ lạc và không thành văn; Điều chỉnh cách xử sự của những thành viên trong thị tộc, bộ lạc theo tinh thần hợp tác công đồng; Được thực hiện một cách tự nguyện và theo thói quen của mỗi thành viên. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, cùng với sự phân công lao động phát triển, chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội phân chia thành giai cấp thì các tập quán thể hiện ý chí chung không còn phù hợp nữa. Trong điều kiện đó tầng lớp có tài sản đã lợi dụng địa vị xã hội của mình, đã tìm cách giữ lại những tập quán có lợi và vận dụng biến đổi phù hợp với ý chí nguyện vọng của họ nhằm mục đích củng cố và bảo vệ trật tự mà giai cấp thống trị xã hội mong muốn. Các tập quán đó đã trở thành quy phạm pháp luật với sự thừa nhận của nhà nước. mặc khác cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và người lao động ngày càng tăng, vì vậy trong xã hội xuất hiện nhiều quan hệ mới, đòi hỏi nhà nước phải có những quy phạm pháp luật mới để điều chỉnh. Vì vậy hoạt động xây dựng pháp luật của nhà nước sớm được tiến hành. Như vậy Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, là công cụ sắc biến để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị; nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Bản chất của pháp luật: Khi nói đến pháp luật dù thuộc kiểu pháp luật nào cũng thể hiện tính giai cấp và tính xã hội. + Tính giai cấp trong pháp luật Mác và Ăng ghen đã kết luận trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản: “ Pháp luật của các ông là ý chí của các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”. Giai cấp thống trị, thông qua nhà nước biến ý chí của mình thành ý chí của nhà nước được cụ thể hoá dưới dạng văn bản pháp luật. Pháp luật là công cụ chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội, công cụ đó phải phù hợp nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Như vậy, bản chất giai cấp là thuộc tính chung của các kiểu pháp luật, nhưng mỗi kiểu pháp luật có cách thể hiện riêng. Pháp luật Chiếm hữu nô lệ phủ nhận hoàn toàn quyền con người đối với Nô lệ. Pháp luật Phong kiến hạn chế đến mức tối đa quyền lợi của người Nông dân. Pháp luật Tư sản bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền tự do bán sức lao động. Pháp luật XHCN bảo vệ lợi ích cho người lao động, cho số đông trong xã hội. + Tính xã hội trong pháp luật Bên cạnh tính giai cấp, pháp luật còn mang tính xã hội. Khi thiết lập các quy phạm pháp luật, con người đã loại bỏ dần tính tự phát trong quan hệ xã hội. Pháp luật là do nhà nước đại diện chính thức cho toàn xã hội ban hành. Vì vậy, pháp luật ngoài tính giai cấp của giai cấp cầm quyền, còn thể hiện ý chí của các giai cấp và tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tóm lại: Không có kiểu pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp và ngược lại, cũng không có kiểu pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương ôn tập thi lý luận chính trị cuối khóa môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
28 p | 761 | 219
-
Đề cương ôn tập môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin – Học phần 2: Học thuyết giá trị
33 p | 1280 | 203
-
Đề cương ôn tập Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin - Nguyễn Văn Tú
9 p | 1048 | 163
-
Đề cương ôn tập môn Phương pháp nghiên cứu khoa học
10 p | 1273 | 89
-
Đề cương ôn tập bộ môn Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lenin 2
17 p | 330 | 73
-
Đề cương ôn tập môn: Xã hội học
38 p | 338 | 63
-
Đề cương ôn thi môn tâm lí học lao động
10 p | 464 | 54
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước
14 p | 437 | 54
-
Đề cương ôn tập Những nguyên lí cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
36 p | 470 | 51
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin
21 p | 650 | 50
-
Đề cương ôn tập tốt nghiệp môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
32 p | 245 | 40
-
Đề cương ôn tập môn Logic học
65 p | 335 | 40
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và Lịch sử ĐCS Việt Nam
16 p | 242 | 17
-
Đề cương ôn tập cuối kỳ I môn Xã hội học đại cương
30 p | 53 | 11
-
Đề cương ôn tập môn Những vấn đề cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh
19 p | 168 | 9
-
Đề cương ôn tập môn Kinh tế chính trị
24 p | 8 | 3
-
Đề cương ôn tập nội dung môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
17 p | 3 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn